Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 14: Tham Thẳng Tắt Một Đường

24/06/201318:21(Xem: 9674)
Chương 14: Tham Thẳng Tắt Một Đường

Kho báu nhà Thiền

Chương 14: Tham thẳng tắt một đường

Ðịnh Huệ

Nguồn: Thiền sư Văn Thủ, Dịch giả: Ðịnh Huệ

Thiền sư Ðức Sơn Tuyên Giám xuất thế, hễ thấy Tăng vào cửa liền đánh.
Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền xuất thế, hễ thấy Tăng vào cửa liền hét.
Pháp ngữ của Ngài Ðại Huệ dạy người sơ lược như sau: Chỉ cần đem cái chỗ bình sanh do tọa thiền mà được, do xem kinh giáo mà được, do ghi nhớ ngữ lục mà được, do lãnh hội lời nói trên cửa miệng Tông sư mà được nhất thời quét qua thế giới khác, rồi bình tĩnh xét nét kỹ lưỡng: Tại sao Ðức Sơn thấy Tăng vào cửa liền đánh? Tại sao Lâm Tế thấy Tăng vào cửa liền hét? Nếu biết được chỗ ứng dụng của hai vị đại lão này thì hằng ngày chạm cảnh gặp duyên chẳng cho là thế đế thông thường, cũng chẳng cho là lý luận Phật pháp, đã không chấp trước hai bên thì phải biết là tự có một con đường sống vậy.
Hòa thượng Bí Ma Nham thường cầm một cây nạng gỗ, mỗi khi có Tăng đến lễ bái, bèn chỉa vào cổ nói: Ma mị nào dạy ông xuất gia? Ma mị nào dạy ông hành cước? Nói được cũng chết dưới cây nạng gỗ này. Nói mau! Nói mau!
Người học ít có kẻ đáp được.

Hội Nguyên

Hòa thượng Từ Minh, trong thất có giắt một ề thanh gươm, và để một đội giày cỏ, một chậu nước bên cạnh thanh gươm ấy.
Mỗi khi có người vào thất, Ngài bèn nói: "Xem ! Xem !".
Có người đến bên thanh gươm nghĩ nghị.
Sư bảo: Nguy hiểm ! Táng thân mất mạng rồi! Bèn quát đuổi ra.
Hòa thượng Tử Hồ có dựng một tấm bảng trước sơn môn, trong đó viết:
"Tử Hồ này có một con chó trên cắn đầu người, giữa cắn lưng người, dưới cắn chân người, nghĩ nghị thì táng thân mất mạng".
Hễ thấy người mới đến, ngài bèn quát : "Coi chừng chó dữ!".
Tăng vừa quay đầu, Tử Hồ liền trở về phương trượng.

Nham Lục

Thiền sư Phật Giám Cần, trong thất có để sáu con xúc xắc, mỗi mặt đều có khắc một chấm.
Tăng vừa vào cửa, Sư quăng ra hỏi: " Hội chăng?". Tăng dù nghĩ nghị hay không nghĩ nghị, Sư liền đánh đuổi ra.

Hội Nguyên

Thiền sư Hối Ðường Tâm, trong thất, Ngài thường đưa nắm tay lên hỏi Tăng: "Nói là nắm tay thì phạm, chẳng nói là nắm tay thì trái, vậy nói là cái gì?
Thiền sư Ðại Huệ, trong thất, thường đưa cây trúc bề lên hỏi Tăng: "Nói là trúc bề thì phạm, chẳng nói là trúc bề thì trái, chẳng được nói, chẳng đưọc không nói. Nói mau! Nói mau!"
Hòa thượng Hương Nghiêm dạy chúng:
Nếu luận về việc này thì như người leo lên cây cao, miệng cắn cành cây, chân chẳng đạp cành, tay không nắm nhánh. Dưới gốc cây chợt có người hỏi:
- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?
Chẳng trả lời người kia thì phụ câu hỏi. Bằng trả lời thì táng thân mất mạng. Vậy ngay khi ấy phải làm gì?

Hội Nguyên

Thiền sư Ba Tiêu Thanh dạy chúng:
Ông có một cây gậy, ta cho ông một cây gậy. Ông không có cây gậy, ta lấy cây gậy của ông.
Thiền sư Khai Thiện Khiêm nói:
Sơn tăng thường nói, đi đứng ngồi nằm quyết định chẳng phải, thấy nghe hay biết quyết định chẳng phải, suy nghĩ phân biệt quyết định chẳng phải, ngôn ngữ vấn đáp quyết định chẳng phải. Thử dứt tuyệt bốn con đường này mà khán. Nếu chẳng dứt tuyệt thì chắc chắn chẳng ngộ. Bốn con đường này, nếu dứt tuyệt thì đối với công án:
"Tăng hỏi Triệu Châu:
- Con chó có Phật tánh không?
Triệu Châu đáp:
- Không".
Và công án:
"Tăng hỏi Vân Môn:
- Phật là gì?
Vân Môn đáp:
- Que chùi phân".
Chắc chắn ông cười ha hả.

La Hồ Dã Tập

Hòa thượng Dương Kỳ, trong thất hỏi Tăng:
Gai góc ông làm sao nuốt? Vòng kim cương ông làm sao thấu?
Thiền sư Ðại Huệ trong thất hỏi Tăng:
Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, là cái gì?
Hòa thượng Thạch Ðầu nói: "Thế ấy cũng chẳng được, chẳng thế ấy cũng chẳng được, thế ấy chẳng thế ấy đều chẳng được. Ông phải làm sao?"
Hòa thượng La Sơn nói: "Hội chăng? Chẳng phải thiền, chẳng phải đạo, chẳng phải Phật, chẳng phải pháp, là cái gì?".
Cổ đức dạy: Việc này chẳng thể lấy hữu tâm cầu, chẳng thể dùng vô tâm đắc, chẳng thể dùng ngôn ngữ tạo, chẳng thể dùng tịch mặc thông.
Ngài Ðại Huệ nói:
Ðây là lời tha thiết bậc nhất của người vào bùn vào nước nói ra, nhưng thường thường người tham thiền chỉ nhớ qua loa như thế mà trái lại không chịu khán kỹ xem đó là cái đạo lý gì?




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2011(Xem: 4400)
Tôi có ý nghĩ viết thành tập sách này vào đầu năm nay 97, nhân kỷ niệm mười năm tôi được xuất gia học đạo. Mười năm thường là cái mốc thời gian đáng nhớ cho những sự cố gì xảy ra trong một đời người. Sự cố ấy mang ý nghĩa của đổi thay dù sự đổi thay đó mang tính cách thế tục hay xuất thế. Trong đạo thầy đã dạy tôi rằng: "Sau một thời gian tu tập con cần nên cứu xét lấy mình, ngắn thì mỗi năm, dài thì năm năm, mười năm. Sau khoảng một thời gian dài ấy mà con thấy có niềm tin hơn, ý chí hơn trong sự tu tập thì đó là con đã tiến bộ. Giảm niềm tin, thiếu tinh tấn chính là con đã lui sụt. Tu tập mà không tiến bộ tức là thua sút, yếu hèn, phụ bạc công ơn thầy tổ nuôi nấng và sự thọ nhận cúng dường của đàn na thí chủ".
04/11/2011(Xem: 4204)
Tiếng súng nổ từ xa, dù lớn dù nhỏ, vẫn là chuyện thông thường không thắc mắc đối với dân Quảng Ngãi trong thời chiến tranh. Nhưng đêm nay, đêm mồng một Tết, tiếng súng nổ bên tai làm cả nhà tôi bàng hoàng. Không ai bảo ai đều giật mình thức giấc rồi chạy ào xuống nhà núp dưới chân cầu thang. Tiếng súng nổ gần quá, tôi nghe cả tiếng hô hoán: “Tiến lên!” giọng Bắc rặc của một người chỉ huy nào đó. Trời! Không lẽ mặt trận đang diễn ra trong thành phố? Tim tôi đập loạn xạ, dù mồ hôi vã ra, răng tôi vẫn đánh bò cạp. Tôi rúc vào lòng năm chị em gái và ba má của tôi. Tiếng khóc thút thít vì sợ hãi muốn oà ra nhưng tôi cố dằn lòng sợ địch quân nghe thấy. Ầm! Một trái pháo kích rớt trúng nhà phía sau của tôi. Ngói bể rơi loảng xoảng, khói đạn bay mịt mù. Tôi chỉ kịp thét lên, ôm cứng lấy má tôi, hồn như bay khỏi xác. Đó là năm Mậu Thân 1968, lúc tôi 14 tuổi.
27/10/2011(Xem: 19124)
Bùi Giáng, Người viết sách với tốc độ kinh hồn
12/10/2011(Xem: 19322)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
01/10/2011(Xem: 7325)
Hàng ngũ phật tử thường được chia là phật tử tại gia và phật tử xuất gia. Các phật tử tại gia thường được gọi là cư sĩ. Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cư sĩ nổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém gì các vị đã xuất gia. Có nhiều vị cư sĩ nổi tiếng nhưng bài này chỉ xin nhắc đến ông Duy Ma Cật, bà hoàng hậu Thắng Man, cư sĩ Huệ Năng lúc chưa xuất gia và sau đó đến gia đình ông Bàng Uẩn.
25/09/2011(Xem: 3828)
Lời hát ru nhẹ nhàng mà trầm buồn da diết ấy đi vào trong cả giấc mơ của Hiền. Bao lần chị giựt mình thảng thốt ngồi bật dậy… ngơ ngác nhìn quanh. Chẳng có gì khác ngoài bóng đêm lạnh giá bao trùm hai dãy xà lim hun hút. Chốc chốc vẳng lại tiếng thạch sùng chặc lưỡi, tiếng chí chóe của mấy chú tí ưa khuấy rối trong xó tối. Và cả tiếng thở dài của ai đó dội qua mấy bức tường xanh rêu im ỉm…
24/09/2011(Xem: 2845)
Ngày xưa có một chàng trai tên là Na Á. Anh mồ côi cha từ sớm, ở với mẹ già. Nhà Na Á nghèo, anh phải làm nghề đánh cá để nuôi thân, nuôi mẹ.
24/09/2011(Xem: 2880)
Một hôm em bé ngồi trong bóng cây trú nắng, gió cũng thổi mát quá, em ngủ quên, đến lúc thức dậy, thì đàn trâu đã đi mất. Em tìm khắp cánh đồng mà chẳng thấy.
21/09/2011(Xem: 2889)
Tờ Chú (có nghĩa là anh đen) nghèo nhất làng. Họ nghèo lắm, nghèo đến nỗi không có một con dao mẻ để phát nương, một cái thuổng để đào củ mài.
21/09/2011(Xem: 2761)
Ngày xưa, ở xã Đại An gần cù lao Huân tỉnh Khánh Hòa có một đôi vợ chồng già không có con cái. Ông bà ở trong một căn nhà lá dựng bên vách núi, làm nghề trồng dưa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]