Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 19: Ngộ Bất Tất Hiềm Tri Giải

24/06/201318:48(Xem: 9536)
Chương 19: Ngộ Bất Tất Hiềm Tri Giải

Kho báu nhà Thiền

Chương 19: Ngộ bất tất hiềm tri giải

Ðịnh Huệ

Nguồn: Thiền sư Văn Thủ, Dịch giả: Ðịnh Huệ

Viễn Lục Công nói:
Người chưa thấu triệt thì tham câu chẳng bằng tham ý. Người thấu triệt rồi tham ý chẳng bằng tham câu.

Bích Nham

*
Thiền sư Hoàng Long Tâm sau khi đại ngộ vẫn sống chung lộn với chúng và thường hay vãng quyết cu Vân Môn. Ngài Huệ Nam thấy thế hỏi:
- Biết việc này rồi thì thôi. Ông còn dụng rất nhiều công phu nữa để làm gì?
Sư thưa:
- Dạ chẳng đúng. Hễ còn một mảy mai nghi ngờ là chưa đến hàng vô học, đâu thể tự do tung hoành xoay trời chuyển đất được.
Ngài Huệ Nam công nhận.

Tăng Bảo Truyện

*
Thiền sư Viên Ngộ nói:
Tham học với tiên đức đã lâu, hoặc có người thấy mà chưa thấu, hoặc có người thấm mà chưa sáng tỏ, đó gọi là thỉnh ích. Nếu thấy được thấu mà thỉnh ích thì cần phải ở trên ngữ cú chu toàn, không có ngưng trệ. Còn người tham lâu đã sáng tỏ rồi mà còn thỉnh ích nữa là cho giặc leo thang.

Bích Nham

Hòa thượng Quy Tông nói:
Từ xưa, Cổ đức chẳng phải không có tri giải, song các ngài là bậc cao thượng chẳng đồng với bọn tầm thường hiện nay chẳng tự thành tự lập được. Chớ để thời gian luống qua vô ích!
Ngài Dũng Tuyền nói:
Kiến giải, ngôn ngữ thảy cần phải biết cho thấu triệt, nhưng nếu thức tình chẳng hết thì tôi dám nói là hãy còn luân hồi. Sao vậy? Vì thức lậu chưa hết. Ông chỉ cần dứt hết thức lậu thì bấy giờ mới được tự thành tự lập.

Hội Nguyên

*
Thiền sư Ðại Huệ nói:
Từ xưa, các bậc đại trí huệ đều lấy tri giải làm bè bạn, lấy tri giải làm phương tiện, ở trên tri giải thực hành lòng từ bình đẳng, ở trên tri giải làm các Phật sự như rồng gặp nước, như hổ tựa núi, không bao giờ cho là phiền, chỉ vì các ngài biết rõ được chỗ sanh khởi của tri giải.
Tông Cảnh Lục chép:
Nếu nói trí huệ quấy thì Ðại Trí Văn Thù chẳng nên xưng là Pháp vương tử. Nếu cho đa văn là lỗi thì Tỳ kheo Vô Văn (không nghe chánh pháp) lẽ ra chẳng bị đọa địa ngục. Phải biết lấy trí huệ hợp với đa văn kia để chẳng bao giờ chấp vào lời mà nhận ngón tay cho là mặt trăng, lấy đa văn làm rộng trí huệ kia để khỏi trở thành kẻ quê mùa day mặt vào vách. Sở dĩ nói: "Có trí mà không hạnh là thầy của nước (quốc gia), có hạnh mà không trí là dụng của nước, có trí có hạnh là vật báu của nước, không trí không hạnh là giặc của nước". Thế nên, trí cần nên học, hạnh cần nên tu, thiếu trí là kẻ thù của đạo, không hạnh là kẻ giặc của nước. Phải biết: Xích xiềng của danh tướng, nếu chẳng phải là chìa khóa trí thì khó mở cho ra; tình tưởng kéo lôi, nếu chẳng phải gươm huệ thì khó mà chặt đứt.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2011(Xem: 4400)
Tôi có ý nghĩ viết thành tập sách này vào đầu năm nay 97, nhân kỷ niệm mười năm tôi được xuất gia học đạo. Mười năm thường là cái mốc thời gian đáng nhớ cho những sự cố gì xảy ra trong một đời người. Sự cố ấy mang ý nghĩa của đổi thay dù sự đổi thay đó mang tính cách thế tục hay xuất thế. Trong đạo thầy đã dạy tôi rằng: "Sau một thời gian tu tập con cần nên cứu xét lấy mình, ngắn thì mỗi năm, dài thì năm năm, mười năm. Sau khoảng một thời gian dài ấy mà con thấy có niềm tin hơn, ý chí hơn trong sự tu tập thì đó là con đã tiến bộ. Giảm niềm tin, thiếu tinh tấn chính là con đã lui sụt. Tu tập mà không tiến bộ tức là thua sút, yếu hèn, phụ bạc công ơn thầy tổ nuôi nấng và sự thọ nhận cúng dường của đàn na thí chủ".
04/11/2011(Xem: 4204)
Tiếng súng nổ từ xa, dù lớn dù nhỏ, vẫn là chuyện thông thường không thắc mắc đối với dân Quảng Ngãi trong thời chiến tranh. Nhưng đêm nay, đêm mồng một Tết, tiếng súng nổ bên tai làm cả nhà tôi bàng hoàng. Không ai bảo ai đều giật mình thức giấc rồi chạy ào xuống nhà núp dưới chân cầu thang. Tiếng súng nổ gần quá, tôi nghe cả tiếng hô hoán: “Tiến lên!” giọng Bắc rặc của một người chỉ huy nào đó. Trời! Không lẽ mặt trận đang diễn ra trong thành phố? Tim tôi đập loạn xạ, dù mồ hôi vã ra, răng tôi vẫn đánh bò cạp. Tôi rúc vào lòng năm chị em gái và ba má của tôi. Tiếng khóc thút thít vì sợ hãi muốn oà ra nhưng tôi cố dằn lòng sợ địch quân nghe thấy. Ầm! Một trái pháo kích rớt trúng nhà phía sau của tôi. Ngói bể rơi loảng xoảng, khói đạn bay mịt mù. Tôi chỉ kịp thét lên, ôm cứng lấy má tôi, hồn như bay khỏi xác. Đó là năm Mậu Thân 1968, lúc tôi 14 tuổi.
27/10/2011(Xem: 19124)
Bùi Giáng, Người viết sách với tốc độ kinh hồn
12/10/2011(Xem: 19322)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
01/10/2011(Xem: 7325)
Hàng ngũ phật tử thường được chia là phật tử tại gia và phật tử xuất gia. Các phật tử tại gia thường được gọi là cư sĩ. Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cư sĩ nổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém gì các vị đã xuất gia. Có nhiều vị cư sĩ nổi tiếng nhưng bài này chỉ xin nhắc đến ông Duy Ma Cật, bà hoàng hậu Thắng Man, cư sĩ Huệ Năng lúc chưa xuất gia và sau đó đến gia đình ông Bàng Uẩn.
25/09/2011(Xem: 3828)
Lời hát ru nhẹ nhàng mà trầm buồn da diết ấy đi vào trong cả giấc mơ của Hiền. Bao lần chị giựt mình thảng thốt ngồi bật dậy… ngơ ngác nhìn quanh. Chẳng có gì khác ngoài bóng đêm lạnh giá bao trùm hai dãy xà lim hun hút. Chốc chốc vẳng lại tiếng thạch sùng chặc lưỡi, tiếng chí chóe của mấy chú tí ưa khuấy rối trong xó tối. Và cả tiếng thở dài của ai đó dội qua mấy bức tường xanh rêu im ỉm…
24/09/2011(Xem: 2845)
Ngày xưa có một chàng trai tên là Na Á. Anh mồ côi cha từ sớm, ở với mẹ già. Nhà Na Á nghèo, anh phải làm nghề đánh cá để nuôi thân, nuôi mẹ.
24/09/2011(Xem: 2880)
Một hôm em bé ngồi trong bóng cây trú nắng, gió cũng thổi mát quá, em ngủ quên, đến lúc thức dậy, thì đàn trâu đã đi mất. Em tìm khắp cánh đồng mà chẳng thấy.
21/09/2011(Xem: 2889)
Tờ Chú (có nghĩa là anh đen) nghèo nhất làng. Họ nghèo lắm, nghèo đến nỗi không có một con dao mẻ để phát nương, một cái thuổng để đào củ mài.
21/09/2011(Xem: 2761)
Ngày xưa, ở xã Đại An gần cù lao Huân tỉnh Khánh Hòa có một đôi vợ chồng già không có con cái. Ông bà ở trong một căn nhà lá dựng bên vách núi, làm nghề trồng dưa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]