Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Huyễn thuật của người Tây Tạng

28/05/201318:52(Xem: 11322)
Huyễn thuật của người Tây Tạng
Con Đường Mây Trắng


Huyễn Thuật Của Người Tây Tạng

Nguyễn Tường Bách
Nguồn: Anagarika Govinda. Nguyễn Tường Bách dịch


Điều gây cho chúng tôi ấn tượng đặc biệt là thái độ khách quan và sự chính xác hầu như khoa học của người Tây Tạng khi họ hành xử các chuyện huyền bí và hiện tượng tâm linh, những điều mà phương Tây xem là sản phẩm của hoang tưởng, là sự tò mò vô bổ hay mê tín dị đoan, là chuyện đồng bóng chỉ dành cho kẻ bệnh thần kinh hay đàn bà khờ khạo mà sự cảm nhận bất thường của họ chỉ sinh ra những ảnh hưởng không tốt. Ngược lại, người Tây Tạng hầu như tránh loại người quá nhạy cảm hay thần kinh không ổn, họ tìm những người hoàn toàn bình thường, có một cá tính vững vàng, những người không tự mãn với khả năng nào đó về mặt tâm linh hay không có tham vọng riêng tư.

Hugh Richardson, vị lãnh sự đã được nhắc đến tại Lhasa kể cho chúng tôi nghe về trường hợp đặc biệt của một người thuộc dòng quí tộc ở Lhasa, có tiếng là người yêu đời, thực tế, ngày nọ bỗng nhiên trở thành tu sĩ vấn linh tại Netschung khiến mọi người ngạc nhiên. Trước đó ông không quan tâm gì đến các vấn đề tâm linh cũng không có khả năng đặc biệt gì về đồng cốt. Ông đang ở trong độ tuổi đẹp nhất và yêu cuộc sống.

Thế nhưng đây là việc do cuộc vấn linh chính thống nêu ra nên không ai xem thường và ông không có cách nào khác hơn là nghe lời phán truyền. Ông bỏ công việc làm của mình (nếu tôi nhớ đúng thì trước đó ông là nhân viên trong chính phủ), rút về Netschung, nơi ông được quán đỉnh vào bí ẩn thiêng liêng của vấn linh đúng trong ngày nhậm chức chính thức, ông xuất thần và các vị thần bảo hộ trong đền nhập vào ông. Ông Richardson, người biết ông từ nhiều năm cho chúng tôi hay sự thay đổi nơi ông thật phi thường, người ta không thể nhận ra lại con người cũ. Không ai biết trong thời gian ấn chứng, điều gì đã xảy ra và sự thay đổi ghê gớm này sinh ra những gì.

Rõ rệt là nơi đây có những năng lực ta đã không biết đến mà tác dụng của chúng chỉ những người trong cuộc mới hay; thông qua họ, một vài truyền thống cổ xưa của huyễn thuật còn truyền lại đến ngày nay.

Một trong những nét kỳ lạ của sự vấn linh là mỗi liên hệ của nó với hiện tượng và điều kiện của giới tự nhiên. Vấn linh không những chỉ liên hệ với các yếu tố bản xứ, trong đó hình như các sức mạnh đất đai địa hình tụ hội, mà chủ yếu xem ra nó csoah hay ít nhất có liên quan đến các biến chuyển về thời tiết trong trời đất. Vì thế, lễ vấn linh thường được tổ chức trong thời điểm của các cuộc thiên tai như hạn hán, mất mùa, mưa đá, bão lụt. Mặc dù thật khó suy ra mối liên hệ giữa các hiện tượng tâm lý và thời tiết nhưng tôi không thể không thừa nhận là các tiên đoán thời tiết cũng như tác dụng của bùa phép hình như đúng thật - hay ít nhất có quá nhiều trùng hợp kỳ lạ mà ta khó cho là sự tình cờ.

Tôi muốn lấy một thí dụ và nhắc đến lễ vấn linh tại Gadong, được cử hành trong một lũng bên cạnh Kyitschu, khoảng bốn giờ đi ngựa từ Lhasa. Người ta cho rằng lễ này gây nhiều uy lực lên thời tiết. Nhà du hành cũng là nhà văn Amaury de Riencourt, trong thời gian ở Lhasa, ông là khách của đoàn truyền giáo Anh - Ấn, được phép tham gia buổi vấn linh tại Gadong. Để khỏi ai lưu ý, ông mặc áo tu sĩ trong dịp này. Thời tiết lúc ấy khô kiệt trong nhiều tháng, ruộng đồng nứt nẻ và người dân bị đói kém. Vì tình hình đó người ta tổ chức vấn linh tại Gadong. Bài báo cáo của Riencourt được coi trọng vì tính chất khách quan và sự chu đáo trong từng chi tiết. Là người mới đến va không rành Phật giáo Tây Tạng, ông không quá quan tâm với mọi sự xảy ra. Thế nhưng những gì trông thấy, đã gây ấn tượng sâu sắc lên ông. Điều đầu tiên làm ông kinh ngạc là sự biến đổi của tu sĩ vấn linh:

“Dần dần máu huyết dường như rút khỏi khuôn mặt đã biến đổi sẵn của ông và thịt ông xem ra sắp tan rã. Trong tiếng chiêng trống và tiếng ồn của nhạc cụ, tôi thấy rõ xương xẩu của mặt ông lòi ra, biến thành chiếc đầu lâu, chỉ còn cái sọ và da bọc xương. Đó thật là một hình tượng hóa đá khó tin của bác sĩ Jekyll và ông Hyde… Tôi như tê dại và hoang mang vì buổi lễ đáng sợ này, không phải vì màu sắc huy hoàng của nó mà vì lòng tin không định nghĩa được, là mình đã tận mắt chứng kiến một buổi lễ phù thủy”.

Thế nhưng sự ngạc nhiên lớn nhất xảy ra khi Riencourt di ngủ sau buổi lễ: “Mưa đổ như thác và cả lũng Lhasa chỉ toàn tiếng sấm rền”. Ông chấm dứt bài ký sự với những dòng: “Tôi bắt đầu hiểu, sức mạnh tâm lý chứa chất nhiều hơn những gì ta thấy bằng mắt của người phương Tây. Những điều xảy ra trong lễ vấn linh đã mở mắt cho tôi thấy và mở ra một cánh cửa nhìn vào một thế giới kỳ diệu, nơi mà người Tây Tạng đã tìm hiểu kỹ - một thế giới nằm giữa những sự nghiên cứu sâu xa về tôn giáo và sự hoạt động thường ngày của đời sống trần thế: thế giới bí ẩn của các sức mạnh tâm lý kỳ diệu, vũ trụ của du già và của những gì nằm bên kia sự chết”(43).

Như đã nói, thực ra mọi chuyện này không liên hệ gì với đạo Phật và người Tây Tạng cũng xem nó như một dạng của hiện tượng tự nhiên mà người ta có thể sử dụng như người phương Tây sử dụng điện, không pha lẫn sức mạnh bí ẩn này với hình dung về tôn giáo hay cho rằng có một vị thượng đế hay linh hồn vũ trụ nằm phía sau. Mặc dù người Tây Tạng không phân biệt giữa thế giới tự nhiên và thế giới tâm thức, nhưng họ thừa nhận cái khác biệt giữa thế gian và siêu thế gian, hoạt động vật chất và hoạt động tâm linh, tuy thế lại không phủ nhận mối quan hệ lẫn nhau của chúng xuất hiện trong lĩnh vực nằm giữa hai cực. Tất cả đều tùy thuộc nơi mức độ, trong đó người ta biết đến mối quan hệ nội tại giữa những hiện tượng xem ra không liên quan gì đến nhau; ý thức đó có được là nhờ sự khám phá cái qui luật chung, qui luật sinh ra chức năng của chúng.

Vì thế đối với người Tây Tạng, một nhà huyễn thuật không nhất thiết phải là một người ngoan đạo sùng tín mà là người biết sử dụng cái quy luật diễn tả sự song hành giữa các hiện tượng vật lý và tâm lý. Nếu ông là một con người sống thiên về tâm linh thì sẽ sử dụng kiến thức của mình để phục vụ cho mọi loài, nếu không thì sẽ tận dụng nó cho cá nhân mình. Đây là cái phân biệt hắc đạo và chính đạo, mặc dù cả hai đều có một nguyên lý chung. Cũng như khoa học, sức mạnh huyễn thuật tự nó không tốt, không xấu; nó chỉ tùy nơi ta sử dụng nó như thế nào.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 3852)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 3138)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2974)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 2804)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 3244)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 2633)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 4178)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
11/10/2010(Xem: 3211)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
07/10/2010(Xem: 3359)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]