Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 17: Câu chuyện giữa đường

03/04/201313:25(Xem: 9036)
Chương 17: Câu chuyện giữa đường
Vụ Án Một Người Tu

Chương 17: Câu Chuyện Giữa Đường

Hòa Thượng Thích Như Điển
Nguồn: Hòa Thượng Thích Như Điển

Sư Chơn Nghĩa đọc mấy câu chú trước khi cạo tóc cho Phật Tử Trần Thị Diệu Duyên có pháp danh là Ngọc Chánh, như sau:

"Thế trừ tu phát
Đương nguyện chúng sanh
Viễn ly phiền não
Cứu cánh tịch diệt"
Nghĩa là:
"Cạo bỏ râu tóc
Cầu cho chúng sanh
Xa rời phiền não
Đến chỗ an vui"

Người đi tu ai cũng phải cạo tóc hết, vì râu tóc tượng trưng cho phiền não; nhưng cạo tóc mới chỉ là hình thức thôi, cạo tâm mới là vấn đề quan trọng; ngày nay cũng có nhiều tông phái không cạo tóc như Tịnh Độ tông ở Nhựt và một số chư tăng Việt Nam theo tân học ở ngoại quốc. Họ ăn vận áo quần tây, viện dẫn lý do là đi học có nhiều người chú ý. Đầu họ không cạo nhẵn, bảo rằng chúng bạn hay xoa đầu mình vì không có tóc. Nhưng hôm nay cô Ngọc Chánh chính thức phát nguyện xuất gia và chính thức trở thành một người nữ tu, đã để cho Sư Chơn Nghĩa cắt trọn mái tóc dài gần một thước mà cô đã dưỡng nuôi lâu nay, quả là điều hy hữu.

Đoạn Sư đọc tiếp:

"Hủy hình thủ chí tiết
Cắt ái từ sở thân
Xuất gia hoằng thánh đạo
Thế độ nhất thế nhân"
Nghĩa là:
"Bỏ mình giữ chí tiết
Cắt ái xa người thân
Xuất gia làm việc thánh
Hay độ tất cả người"

Đúng là ý chí của kẻ trượng phu. Cứ mỗi một chữ, một câu mà Sư Chơn Nghĩa đọc lên là cô Ngọc Chánh cảm động đến rơi nước mắt. Cô biết rằng cái khí tiết của người đi tu trong hiện tại là phải bỏ sự giàu có tạm bợ của thế gian. Xa rời tất cả tình yêu thương vị kỷ kể cả tình thương của gia đình và bè bạn và việc xuất gia hôm nay của mình đây có một ý nghĩa rất cao đẹp là trên đền ơn Tam Bảo, dưới cứu độ quần sanh. Ngay từ bây giờ Phật Tử Diệu Duyên hay cô Ngọc Chánh cảm thấy mình như có một trách nhiệm lớn lao đối với bản thân mình cũng như đối với xã hội.

Đoạn Sư đọc tiếp:

"Thiện tai thiện nữ nhơn
Năng liễu thế vô thường
Khí tục thú nê hoàn
Công đức nan tư nghì"

Nghĩa là:

"Này cô tín nữ kia
Hay hiễu đời vô thường
Xa tục vui Niết Bàn
Công đức khó nghĩ lường"

Đúng là tuyệt diệu. Khi Sư Chơn Nghĩa vừa buông cành dương rảy mấy giọt nước vào đầu của cô Ngọc Chánh và trong giờ phút nầy cô đã ngộ được cái tánh vô thường ấy. Mới ngày nào đó mái tóc mình còn đẹp, còn xinh, duyên dáng mặn mà, bây giờ đây không còn nữa. Niềm vui duy nhất của người tu là cảnh giải thoát và đó mới chính là một công đức to lớn vậy.

Nếu trước kia nàng nghĩ và biết được tất cả những điều như vừa cảm nhận được thì nàng đâu có làm cho Sư Tịnh Thường khổ tâm đến thế. Bây giờ Sư đã chết rồi, và ni cô Ngọc Chánh phải làm sao đây. Cô ân hận lắm và cúi sầm mặt xuống.

Buổi lễ xuất gia cảm động lắm. Tuy không có đông người đến dự nhưng cũng nói lên được ý nghĩa cao thượng của một việc làm. Một người con gái tầm thường yếu đuối, biết hy sinh hạnh phúc cá nhân của mình để quyết chí tu hành và cứu độ quần sanh.

Sau mỗi thời kinh sáng, chiều cô Ngọc Chánh đều hồi hướng Tây Phương trang nghiêm Tịnh Độ; nhưng cô thấy hình như sức mình không đủ để cầu nguyện cho bà Bảy Diệu Đạo và Sư Tịnh Thường; nên một hôm cô Ngọc Chánh đã bàn với Sư Chơn Nghĩa rằng:

- Trước khi đi xuất gia, con có đi làm và để dành được một số tiền. Bây giờ con muốn dùng số tiền ấy để xây mồ mả cho Sư Tịnh Thường và nhất là làm sao phải làm cho được một đàng tràng chiêu mộ cho linh hồn của Sư và của bà Bảy Diệu Đạo.

- Việc ấy đâu có khó khăn gì. Sư sẽ đi cung thỉnh chư Tăng làm lễ đăng đàn chẩn tế và Sư cũng sẽ cho gia đình của Bà Bảy hay luôn. Nếu họ cùng đến đây để cúng thì hay biết mấy.

Đến ngày rằm tháng bảy năm ấy nhân lễ Vu Lan, Tịnh Xá Ngọc Châu đã làm lễ Chẩn tế cô hồn để cầu siêu độ cho các oan hồn uổng tử, nam nữ thương vong, nhất là hai vong linh của hai người xấu số. Tuy không cùng một cảnh ngộ; nhưng có lẽ họ đã có một nghiệp duyên. Nên cầu nguyện cho họ để biết đâu họ sẽ có cơ hội gặp nhau và giãi bày nỗi uẩn khúc.

Cả gia đình bà Diệu Đạo, con dâu rể, cháu chắt hôm đó đều đủ mặt nơi Tịnh Xá Ngọc Châu để cầu nguyện cho hương linh của bà Bảy. Khi nhìn vị sám chủ tự nhiên người con cả của bà Bảy nhốn nháo lên và quay cuồng trước bàn thờ Tiêu Diện Đại Sĩ và hô hoán lên rằng:

"Má ơi! Thôi để con khai! Má đừng hành hạ con nữa. Kể từ ngày má mất đến nay con ăn không ngon, ngủ không yên cũng chính vì công việc của con đã làm. Tuy con không trực tiếp giết má để chia gia tài; nhưng con đã sai người thủ tiêu má. Xin má sống khôn thác thiêng chứng kiến cho lòng con và kể từ nay con xin chừa bỏ và sám hối tội lỗi của mình. Số tiền của ấy con xin dâng cúng và chùa và làm những công việc từ thiện để chuộc lại lỗi lầm xưa".

Đèn nhang trên bàn Phật như rung đổ. Những vị kinh sư, gia trì đều như nín thở để lắng nghe những lời thổn thức của người con trưởng và khiến cho bao nhiêu người dự lễ hôm đó cũng rất ngỡ ngàng. Họ ngỡ ngàng vì gia đình anh cả con bà Bảy lâu nay sống đầm ấm hạnh phúc, đạo đức như vậy, tại sao lại ra nông nổi ấy. Họ đâm ra thương hại nhà Sư Tịnh Thường và không ngớt lời nguyền rủa thế nhân.

Bây giờ nhà Sư Tịnh Thường cũng đã chết. Nếu Sư còn sống, không biết Sư xử trí như thế nào trong hoàn cảnh nầy đây.

Sau buổi lễ Chẩn tế hôm đó, cô Ngọc Chánh đã xây bia làm mả cho Sư Tịnh Thường một cách tươm tất và cô đã tìm về lại Việt Nam để thăm quê hương xứ sở cũng như để báo tin cho gia đình của Sư Tịnh Thường về sự kiện đã qua.

Khi về đến Sóc Trăng, cô Ngọc Chánh không biết phải đi tìm ai để báo tin cả. Vì cảnh cũ giờ đây đã thay đổi hẳn, khác xưa rất nhiều. Khi hỏi thăm đến ba mẹ của Sư Tịnh Thường thì mới hay ông bà cũng đã ra người thiên cổ.

Cuối cùng cô Ngọc Chánh quyết định tìm đến Tịnh Xá nơi Sư Tịnh Đạo, huynh đệ của Sư Tịnh Thường để báo tin.

Mới gặp Sư Tịnh Đạo, cô Ngọc Chánh đã nức nở:

- Bạch Sư! Thế là hết! Không còn gì nữa đâu để mà nói.

- À ! Té ra là Diệu Duyên con đã xuất gia? Và nay pháp danh của con được gọi là gì?

- Bạch Sư! Ngọc Chánh.

- Ai cho con thế phác và ai đã đặt pháp danh cho con?

- Người thế phác cho con chính là Sư Chơn Nghĩa và pháp danh nầy cũng do người đặt cho.

- Còn Sư Tịnh Thường đâu?

- Cô Ngọc Chánh trả lời: Bạch Sư câu chuyện dài lắm.

Thế rồi cô Ngọc Chánh bù lu bù loa kể hết đầu đuôi câu chuyện cho Sư Tịnh Đạo nghe. Người rất mủi lòng và sai đệ tử lên chánh điện để làm lễ cầu siêu cho Sư đệ của mình.

Bây giờ giữa chốn phồn hoa đô hội, biết ai là người chân thật, ai là kẻ giả dối đây? mỗi người hãy tự tu tỉnh bởi chính mình. Hôm nay đốt mấy nén hương nầy để khấn Sư và cầu nguyện cho Sư đệ của ta được tiêu diêu nơi miền lạc cảnh. Ta không ngờ ngày trùng phùng tao ngộ lại là ngày chảy nước mắt bi thương để nghe qua một tấn thảm kịch hơn là một cuộc gặp mặt huy hoàng.

Đêm đó Sư Tịnh Đạo mơ màng nhớ lại tất cả mọi câu chuyện từ xưa đến nay, nhất là từ khi huynh đệ tu hành. Rồi ngày đó Sư Tịnh Thường ra đi mang một lý tưởng, đồng thời cũng đi trốn chạy một vấn đề, không ngờ vấn đề hôm nay lại có một đáp số như thế. Nghĩa là Sư đã chết, cô Diệu Duyên đã đi tu. Sư Chơn Nghĩa là một tình địch của Sư, bây giờ lại là người thế độ Bổn Sư của cô Ngọc Chánh.

Sư Tịnh Đạo nhắm mắt lim dim chuẩn bị ngủ thì thấy hình ảnh Sư Tịnh Thường lại hiện về trước mặt mình và gọi:

- Sư huynh ơi! Sư đệ Tịnh Thường đây. Đợi đệ với!

- Huynh đang ở đây, chứ có đi đâu mà đợi!

- Huynh lầm rồi. Huynh đang ở trong cõi vô hình với đệ đây mà.

Sư Tịnh Đạo nhìn kỹ lên tường thấy hình ảnh của Sư Tịnh Thường đang tọa vị trên một toà sen, mặt mày sáng rỡ và có nụ cười thật tươi. Sư Tịnh Đạo choàng mình ngồi dậy, hai tay chắp lại và niệm lớn lên rằng:

"Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật".
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 3063)
Hằng Nga trong cung trăng: Theo sách của Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ uống trộm...
27/10/2010(Xem: 20428)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3937)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8622)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 8251)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9731)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4832)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2984)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4138)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3802)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]