Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 3: Hoa đồng cỏ nội

03/04/201312:10(Xem: 8855)
Chương 3: Hoa đồng cỏ nội
Vụ Án Một Người Tu

Chương 3: Hoa Đồng Cỏ Nội

Hòa Thượng Thích Như Điển
Nguồn: Hòa Thượng Thích Như Điển

Ông bà mình thường hay nói: "Sống cái nhà, già cái mồ" thật chẳng sai chút nào! Tại sao ba má Nam khi còn trẻ, ông bà hay đắm mình vào cuộc sống, còn bây giờ mới tuổi lục tuần đã lo ăn trung thọ và hay nói về sự chết chóc và chọn nghĩa trang làm mồ mả để làm chi cà?

Còn Nam, tuổi mình còn nhỏ, hay thích rong chơi, đánh đu, đá bóng và nhất là thú bắt cá lòng tong, thia thia, không làm sao Nam có thể nghĩ xa hơn được những gì mà cha mẹ Nam đã nghĩ. Một hôm mẹ Nam quở rằng:

Đã lớn tồng ngồng như thế mà còn chơi những trò chơi ấy làm gì? Con thấy có được không?

Thưa mẹ. Chứ ở miền quê nầy, ngoài cây cỏ, hoa lá, cá thia thia ra, đâu có gì nữa để chơi đâu mẹ.

Nam trả lời từng tiếng một, có ý cho mẹ nghe rõ và mẹ của Nam cũng sực nhớ lại tuổi của mình cách đây mấy mươi năm về trước cũng chỉ thế thôi. Và đến khi đi lấy chồng sinh ra Nam là con một, ở đây quanh quẩn rồi cũng ruộng và vườn, vườn và ruộng, đâu có gì để phải trách con nặng lời như vậy. Chẳng qua là nói cũng chỉ để nói cho có chuyện mà thôi.

Một hôm sau khi đi thăm ruộng về, Nam khoe đủ mọi chuyện với mẹ, trong ấy có một chuyện, mà theo Nam nó hấp dẫn đứa thiếu niên như chàng rất nhiều.
Thưa mẹ! Hôm nay trên đường về nhà, con có gặp một vị Sư Khất Sĩ. Con trông thấy ông ta hiền lành quá và con đã cho ông mấy đồng, nhưng ông ta không lấy.
- Ừ, bậy nè con. Nhà Sư không bao giờ lấy tiền, tại sao con làm thế?
- Con đâu biết; nhưng nếu không có tiền thì nhà Sư sống bằng gì hở mẹ?
- Ông ta sống bằng của tín thí đó mà! hoặc giả khi đi khất thực, như hôm nay con thấy đó, người ta sẽ cúng dương cho ông và ông ta sẽ dùng của dâng cúng đó để độ nhật qua ngày.
- Mà mẹ ơi! Khất thực là gì? Tín Thí là gì? và cúng dường là gì vậy? Con đâu hiểu hết những danh từ nầy, mong mẹ dạy cho con nghe đi.
Đoạn bà ôn tồn bảo con hãy ngồi xuống và nói:
- Theo mẹ nghĩ, con sinh ra trong gia đình mình vốn mấy đời theo Phật, đã làm phước rất nhiều, nhưng ít hiểu biết về Phật Giáo quá. Gần đây quý Thầy có giảng dạy giáo lý ở chùa, mẹ có đi nghe, nên chỉ lại cho con đây.
- Khất thực có nghĩa là đi xin ăn. Mà những người tu ấy đi xin không phải như những người đi xinh bình thường đâu. Họ đi có hàng ngũ và chỉ vào những buổi sáng thôi, không có nhà Sư nào đi khất thực vào buổi chiều đâu. Nếu có, đó chỉ là sư giả hiệu vậy. Vì Phật chỉ dùng ngọ, và các nhà Sư ấy cũng thế.
- Thưa mẹ, tại sao họ không tự đi làm để nuôi thân được mà phải đi xin vậy?
- AṠvậy! Con nói thế tội chết ! Đâu phải vì nhà họ nghèo mà đi tu đâu! Đâu phải vì họ không làm lụng được mà đi xin đâu. Họ thực hành cái hạnh nhẫn nhục và phá chấp đó. Nhẫn nhục có nghĩa là khi đi xin, gặp người mắng, người nhiếc cũng phải an nhiên tự tại. Còn phá chấp có nghĩa là hạ mình xuống để thấy mình không còn là gì cả. Khó thực hiện lắm con ơi!

Còn tính đồ, tín thí gì mà mẹ mới nói đó, là gì hở mẹ? Con hãy bình tâm nghe mẹ nói đây:
- Đệ tử của Phật có hai hạng là người xuất gia và kẻ tại gia. Người xuất gia sống không có gia đình, luôn cư ngụ tại chùa. Còn người tại gia ở tại nhà như gia đình mình vật thực dâng cúng vào chùa thì gọi những người nầy là tín thí. Còn tín đồ là người theo tôn giáo đó vậy.
Người xuất gia vì muốn hoá độ chúng sanh và thoát
ly sanh tử luân hồi; nên phải tự tu, gia tâm nội lực, dành hết mọi thì giờ cho việc thiền định để mong cầu giải thoát, nên người tại gia như chúng ta đây phải có bổn phận hộ trì những vị ấy, để những vị ấy có đầy đủ thì giờ để tu hành.

- Còn cúng dường là gì hở mẹ?
- Thật sự ra phải nói cho đầy đủ là Cúng Dường Tam Bảo. Có nghĩaa là cúng dường 3 ngôi báu là Phật, Pháp và Tăng. Đây chính là những điều mà trong thế gian khó có được; nên chúng ta là Phật Tử cần phải hộ trì.
- Nhưng thưa mẹ! Tại sao nhà Sư lại không nhận tiền?
- Ở xứ ta như con biết đó, có nhiều tông phái Phật Giáo lắm. Có tông phái nhận tiền để sửa sang chùa viện, làm việc bố thí phát chẩn cho dân nghèo, nên gọi là Đại Thừa Phật Giáo. Có phái cũng đi khất thực; nhưng ăn mặn không ăn chay. Và vị Sư mà con thấy đó thuộc về Giáo hội Phật Giáo Khất Sĩ, họ cũng đi xin, nhưng không ăn mặn và không lấy tiền. Phật dạy rằng; Người tu không được kinh doanh, buôn bán, chỉ trừ ra việc làm lợi cho Tam Bảo thì được; vì ấy không lấy là phải. Vì Chùa, Tịnh xá đã có Phật Tử xây cho rồi. Còn miền quê mình, đi đâu quý Sư đi nhờ xe cộ, đâu phải trả tiền mà nhận tiền làm gì hả con?

Mấy lời giải thích của mẹ làm cho Nam hiểu biết thêm nhiều về Đạo Phật ở xứ mình và việc làm của các vị Sư. Kể từ ngày hôm đó trở đi, Nam rất siêng cúng dường mỗi khi quý Sư đi ngang nhà khất thực.

Một hôm Nam đón đường một vị Sư để hỏi:
- Thưa Sư! Con thấy đạo hạnh của Sư con kính phục quá. Con cũng muốn đi tu như Sư nữa, không biết Sư có nhận cho con không?
Sư bảo:
- Việc đi tu không khó; nhưng việc cắt ái ly gia là việc khó. Hơn nữa sống cuộc sống của người tu hành đạm bạc lắm. Con có chịu nổi không?
- Con nghĩ là con chịu được. Vì Sư cũng chịu được mà! Việc ấy đâu có khó khăn gì. Còn việc cắt ai ly gia là gì vậy thưa Sư?
- Cắt ái có nghĩa là cắt bỏ tình thương yêu của cha mẹ. Ở đây con còn nhỏ, chưa có vợ con, chuyện ấy tương đối dễ; nhưng cha mẹ con ở đây chĩ có một mình con. Liệu con có thể được phép đi xuất gia chăng?
- Theo con nghĩ cũng khó, nhưng con sẽ có cách.
- Cách gì?
- Con sẽ trình Sư sau nếu Sư đồng ý với con là nhận con làm đệ tử.
- Việc ấy không khó; nhưng con hãy thưa lại với mẹ cha ý định nầy đi. Nếu được, hãy vào Tịnh Xá cho Sư biết.

Sau khi xin phép với mẹ, mẹ chẳng đồng ý. Xin phép với cha, cha lại còn quở mắng la rầy thêm. Nam buồn quá, chẳng thiết gì nữa. Suốt ngày cứ ở ngoài đồng ruộng bờ đê. Bây giờ Nam không còn thú vui bắt cá, đánh đu nữa, mà Nam hay xa lánh bạn bè, đến đâu là ngồi riêng lẻ ở đó và có vẻ đăm chiêu hơn xưa. Có nhiều bạn hỏi Nam.

- Chắc phải lòng cô nào rồi chớ gì?
- Nam quày quại, chối bai bải, không phải đâu. Có cô nào đâu mà phải.
- Nhìn vẻ mặt đẹp trai của mầy, chắc có nhiều cô phải lụy lắm đấy. Một bạn khác chen vào.
- Không! Không tất cả. Đoạn Nam vồn vã đi xa ra.

Một hôm nghĩ được một kế, mà kế nầy có thể thổ lộ cho vị Sư nghe, còn cha mẹ và bạn bè thì giấu kín.
Nam tin rằng đó là thượng sách.

Vào một tối 30 trời không có trăng, chỉ có một ít sao không sáng lắm. Chờ cho cha mẹ yên giấc, Nam đã trốn nhà ra đi vào chùa với Sư. Và ngay đêm đó Sư đã thế phác cho Nam, đặt cho pháp danh là Pháp Tánh, cho mặc y áo Sa Di của Khất Sĩ và gởi ra ngoài miền Trung xa xôi, nơi ấy có bạn đồng tu của Sư đắc ý lắm. Vì có 2 đêu lợi, Nam xa gia đình sẽ không có cơ hội trở về lại nữa và điều thứ 2, cha mẹ của Nam khó mà tìm cho ra được tông tích của Nam. Nếu có biết được hỏi Sư, thì Sư chỉ trả lời như thế nào đó cho qua chuyện là được rồi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 3063)
Hằng Nga trong cung trăng: Theo sách của Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ uống trộm...
27/10/2010(Xem: 20428)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3937)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8622)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 8251)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9730)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4832)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2984)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4138)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3802)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]