Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tránh trộn lẫn tự ngã với thực hành

13/01/201201:08(Xem: 4376)
Tránh trộn lẫn tự ngã với thực hành
TRÁNH TRỘN LẪN TỰ NGÃ VỚI THỰC HÀNH
Tác giả: Alexander Berzin, Berlin, Germany, October 2004
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 12-17/08/2010


1.-SỰ KHÁC BIỆT GIỮA TỰ NGÃ LÀNH MẠNH VÀ TỰ NGÃ KHÔNG LÀNH MẠNH

Phật giáo nói về sự khácnhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cáitôi" không thật. "Cáitôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục khôngngừng của mỗi cá nhân – những thời khắc thay đổi [liên tục] của kinhnghiệm. Nói cách khác, những thời điểmcủa những kinh nghiệm cá nhân của chúng ta đi theo từ thời khắc này đến thờikhắc khác theo luật nhân quả hành trạng (nhân như thế nào cho quả như thế nào). Trên căn bản sự tương tục của những thời khắcnày, chúng ta có thể định danh “tôi.” "Cáitôi" quy ước của thế gian này thật sự tồn tại và trong dạng thức của "cáitôi" này mà chúng ta có thể nói, “tôi đang ngồi; tôi đang ăn; tôi đangthiền tập.” "Cái tôi" quy ước,tuy thế, chỉ đơn thuần là điều gì đấy có thể được quy cho sự tương tục tinhthần của chúng ta: không có điều gì [cốhữu] có thể tìm thấy về phía "cái tôi" quy ước, bằng năng lực củachính nó, làm cho "cái tôi" tồn tại như như "cái tôi". Một "cái tôi" thật sự tồn tại vớiđiều gì đấy có thể tìm thấy về phía chính nó, thiết lập sự tồn tại của nó, làkhông thể có. "Cái tôi" thậtsự tồn tại có thể tìm thấy hoàn toàn không hiện hữu; đó là "cái tôi"sai lầm, không có thật, "cái tôi" bị bác bỏ.

Phương Tây, trái lại,nói về cá tính (tự ngã) lành mạnh và cátính không lành mạnh. Cá tính lành mạnhlà cảm giác của một "cái tôi" căn cứ trên "cái tôi" quyước; trong khi cá tính (tự ngã) không lành mạnh là ý nghĩa của cái “tôi’ sailầm, không có thật. Cá tính không lànhmạnh có thể hoặc là một thứ phô trương hay không phô trương. Cá tính không phô trương căn cứ trên sự tintưởng "cái tôi" thật sự tồn tại có thể tìm thấy; trong khi cá tính phôtrương được căn cứ hoặc là trên sự tin tưởng rằng ngay cả "cái tôi"quy ước là không tồn tại, hay trên ý nghĩa được thiết lập rất yếu đuối của "cáitôi" quy ước.

[See: The Gelug Kagyu Traditionof Mahamudra, Part I, Chapter 5.]

Đối với sự thực tập PhậtPháp lành mạnh, chúng ta cần một cá tính lành mạnh, vì thể chúng ta chịu tráchnhiệm cho những gì chúng ta trãi qua trong đời sống. Trên căn bản của việc lãnh lấy trách nhiệmnày, chúng ta hình thành một phương hướng an toàn trong đời sống của chúng ta(quy y Phật, Pháp, Tăng), hướng đến sự giải thoát và/hay sự giác ngộ, và đitheo một phương thức thực tập đối với những mục tiêu này căn cứ trên niềm tinvững chắc trong Phật tính của chúng ta và trên luật nhân quả nghiệp báo. Tuy thế, cho đến khi chúng ta được giải thoátnhư những vị a la hán, chúng ta vẫn sẽ phải bám víu cho một sự tồn tại thật sựcó thể tìm thấy của một "cái tôi".Do bởi điều đó, sự thực tập Phật Pháp của chúng ta bị trộn lẫn với một cátính không lành mạnh một cách không thể tránh khỏi. Nếu chúng ta tỉnh thức về những cung cách màtrong ấy điều này xãy ra, chúng ta có thể cố gắng giảm thiểu tối đa sự tổn hạibởi sự thiền tập trên điều đó và sự áp dụng những phương pháp tạm thời. Tuy thế, công thức căn bản là sự thấu hiểu vềtính không của tự ngã (cá tính).

2.- NHỮNG RẮC RỐI SINHKHỞI TỪ CÁ TÍNH (TỰ NGÃ) PHÔ TRƯƠNG QUA VIỆC ĐỒNG NHẤT VỚI SỰ TỒN TẠI THỰC SỰCỦA "CÁI TÔI"

Một số người trở nênliên hệ với Phật Pháp do bởi một số lý do nghiệp lực mà điều ấy làm cho họ tòmò và thích thú trong Giáo Pháp, một khi sự thích thú ấy được thúc đẩy bởi mộthoàn cảnh nào đấy. Nhưng, một số tiếpcận Phật Pháp vì những lý do không ổn định căn cứ trên cá tính (tự ngã) phôtrương. Có ba hình thức thông thường củatriệu chứng này. Suy nghĩ về chính mìnhnhư một "cái tôi" thật sự tồn tại có thể tìm thấy, chúng ta có thểhướng về Phật Pháp:

  • Để được chấp nhận bởimột nhóm thân hữu nào đấy, bởi vì Phật giáo là phong trào và một số tài tử phimảnh và âm nhạc là những thành viên của Phật Pháp;
  • Để tìm một sự trị liệumầu nhiệm cho một vấn để cảm xúc và thân thể mà không có giải pháp nào khác đểhỗ trợ; hay
  • Để thỏa mãn cho sự hấpdẫn trong những thứ lạ lùng.

Một cách tổng quát, đểtránh những hiểm họa có thể đến từ việc trở nên liên hệ với Phật Pháp cho bấtcứ lý do nào trên đây, chúng ta cần thể nghiệm và điều chỉnh động cơ của chúngta. Tuy thế, có những bước đặc thù tạmthời mà chúng ta có thể xem như sự vượt thắng những “chuyến du hành-tự ngã”thông thường bị phối hợp với một trong ba hình thức của tự ngã phô trương.

a- Muốn Là Một Bộ Phận của Đám Đông

Với một ý nghĩa phôtrương của "cái tôi", chúng ta có thể cảm thấy tự đắc rằng chúng talà một bộ phận của những kẻ “giàu sang hay nổi tiếng hay tinh túy”. Để vượt thắng điều này, chúng ta cần hoan hỉrằng chúng ta đã tìm thấy Phật Pháp, hơn là cảm thấy kiêu hãnh về điều ấy. Chúng ta có thể thiền quán về từ bi cho nhữngngười khác vẫn chưa tìm ra phương hướng.Xa hơn, so sánh với những người khác những người đã tiến xa trên con đườngtu tập, chúng ta cần nhận thấy rằng chúng ta chỉ là những thiếu nhi trong PhậtPháp. Vì thế không có gì căn cứ cho mộtcảm giác kiêu căng.

b- Muốn Tìm Một Phép Lạ Trị Liệu

Chán nản để tìm một sựtrị liệu nhiệm mầu cho khổ đau của chúng ta thường đưa đến một cảm giác phôtrương của sự tự quan trọng. Chúng ta cóthể trở nên quá bị bận tâm với chính mình cũng như những rắc rối mà chúng ta cốgắng quản lý thời gian của vị thầy hay của lớp học với những câu hỏi liên tục. Chúng ta muốn sự chú ý liên tục. Để vượt thắng điều này, chúng ta cần nghĩ vềsự bình đẳng của chính mình và những người khác. Không ai muốn khổ đau và mọingười muốn được chữa trị.

Với một cảm giác phôtrương của cái “tôi,” chúng ta cũng có thể nghĩ rằng chúng ta giống như Milarepas – những hành giả quá cấp tiến (chínháp) cho rằng chúng ta sẽ đạt đến giác ngộ một cách chắc chắn trong chỉ một vàinăm. Hậu quả là chúng ta đòi hỏi một sựchú ý đặc biệt từ những vị thầy của chúng ta.Để chạy chữa cho sự phô trương tự ngã này, chúng ta cần đọc tiểu sử củanhững đại đạo sư Phật giáo và nghiên cứu những thiền giả thật sự giống như thếnào.

Cũng thế, bị tự bận tâmlo lắng, chúng ta có thể quá liều lĩnh, rằng chúng ta sẽ làm bất cứ điều gì màvị thầy nói. Chúng ta có thái độ: “Chỉnói cho con những từ ngữ mầu nhiệm để trì tụng hay thực hành pháp thuật, và con sẽ làm điều ấy.” Với một tinh thần như thế, chúng ta có thểlạy phủ phục 100.000 lần hay trì tụng mật ngôn Kim Cương Tát Đỏa(Vajrasattva ), nhưng khi không cóphép mầu xảy ra như một kết quả, chúng ta rơi xuống một sự chán chường cùngtận. Để vượt thắng điều này, chúng tacần nghĩ về một số lượng lớn của những nguyên nhân như thế nào phải theo đuổiđể mang đến một kết quả.

Chúng ta cũng chạy đônchạy đáo đến mọi lễ quán đảnh khai tâm được tổ chức, bởi vì biểu hiện quan tâmthái quá về một "cái tôi" dường như tồn tại thật sự, chúng ta khôngmuốn thiếu vắng bất cứ điều gì. Chúng tachạy vội vả điên cuồng như vậy do bởi muốn được nhóm mình muốn tham dự thừanhận, hay do bởi một sự cuồng nhiệt với những điều kỳ lạ. Nhưng bất cứ lý do không chính đáng nào cóthể, chúng ta cần nhớ rằng một lễ quán đảnh vào trong một hệ thống bổn tôn làchỉ nhằm cho những ai thật sự nguyện ước để thực hành về Đức Phật biểu tượngđặc thù ấy và có thời gian để thực hành. Chúng ta cần thực tế về thời gian mà chúng ta có cho sự thực tập hằngngày. Sự khuyên bảo tương tự áp dụng đếnnhững người chạy hết thầy này đến thầy kia và rồi bối rối mờ mịt, hay nhữngngười chạy đi thọ giới - phát nguyện mà không quan tâm đến việc mình có thể thọtrì được hay không.

c- Sự Quyến Rũ của Những Điều Lạ Lùng

Với một sự quyến rũ đốivới những điều lạ lùng, chúng ta có thể tích lũy nhiều tối đa những pháp khí,tranh thờ thangka, và v.v… như chúng ta có thể và rồi thì thu xếp một phòngthiền tập trong nhà của chúng ta với sự trang trí như Hollywood hayDisneyland. Sau đó chúng ta đặt thờikhóa biểu hằng ngày về việc thực hành cúng dường puja với chày kim cương, linh,trống, đèn bơ và hương. Để vượt thắnghình thức tự ngã phô trương này, chúng ta cần nhớ rằng mục tiêu côt yếu của sựthực hành Phật Pháp là để chuyển hóa tâm thức, chứ không phải sắp đặt cho mộtmàn trình diễn lạ mắt.

3.- NHỮNG RẮC RỐI SINHKHỞI TỪ MỘT CÁ TÍNH TIỀM ẨN (TỰ NGÃ KHÔNG PHÔ TRƯƠNG)

Chúng ta có thể đến vớiPhật Pháp do bởi một tự ngã tiềm ẩn, vấn đề ấy đến từ việc không có một cảmgiác vững vàng với "cái tôi" quy ước.Với một cảm giác yếu đuối với "cái tôi", chúng ta có thể bịđẩy đến những giáo phái Phật giáo bởi một thủ lĩnh hấp dẫn, người hứa hẹn vớichúng ta rằng:

- Dòng truyền thừa mà họdạy và người khai sáng là nhất hạng, và bất cứ hình thức tâm linh nào khác làkhông tốt.

- Họ là những vị thầy nhấthạng, và tất cả những người khác là không tốt.

- Chúng ta sẽ trở nên mạnhmẽ nếu chúng ta buông bỏ sự yếu đuối, suy nghĩ sai lầm của chúng ta và hoàntoàn vâng lời họ như vị thầy của chúng ta và sự diễn dịch của họ về Phật Pháplà không thể sai lầm được, và

- Nếu chúng ta đi theo mộtvị hộ pháp tâm linh mạnh mẽ, vị siêu phàm này sẽ đập nát tất cả những kẻ thùcủa giáo phái họ, vì tất cả những truyền thống những vị thấy khác là kẻ thù.

Những vị thầy như thếđòi hỏi một sự trung thành hoàn toàn và sử dụng yếu tố sợ hãi của địa ngục, lànhững thứ mà chúng ta sẽ rơi vào nếu không vâng lời. Những học nhân bị đẩy vào những thứ nàythường có cá tính yếu đuối, không có sự vững vàng, và bị hấp dẫn bởi những hứahẹn về sự đạt đến sức mạnh vô số và sức mạnh từ vị thầy, giáo huấn, dòng truyềnthừa và vị khai sáng của giáo phái ấy, và vị hộ pháp. Những học nhân bị kích thích một định hình cátính bởi toàn nhóm.

Triệu chứng này đưa đếncuồng tín tôn giáo, căn cứ trên sự sợ hãi, mong ước để tốt chứ không xấu, mongước được hài lòng và để được chấp nhận cùng được vị thầy yêu mến cũng như nhómấy, và một cảm giác tội lỗi nếu chúng ta không thực hành một cách toànhảo. Tất cả những điều này vô nghĩa, haylà một ý nghĩa rất yếu đuối, của một "cái tôi" cá nhân quy ước củatục đế, và một sự bám víu đến một “cái nhóm- tôi” sai lầm. Trong một ý nghĩa, chúng ta có thể gọi triệuchứng này là “phát xít tâm linh.” Nó cóthể xảy ra cho dù vị thầy có lừa bịp hay không, và cho dù chúng ta có liên hệtrong một giáo phái Đạo Phật hay không.

Có nhiều loại triệuchứng khác nhau cùng loại với triệu chứng này. Thí dụ, chúng ta cứng nhắc và không uyển chuyển trong sự thực tập củachúng ta. Hay chúng ta thiết lập thờikhóa mỗi ngày quá dài, vì thế nó trở thành một gánh nặng và không có hỉ lạc trongấy. Chúng ta cần nhớ rằng một trong những điều hỗ trợ cho nhẫn nại tinh tấnhoan hỉ được biết khi để cho chúng ta thư thái và giải lao – vàkhông cảm thấy tội lỗi về việc làm như thế. Nếu chúng ta áp đặt quá nghiêm ngặt, chúng ta chỉ được điều mà người TâyTạng gọi là “lao phổi” (một năng lượng nản chí trong cơ thể của chúng ta) và nólà thối bộ. Một triệu chứng khác làchúng ta cố chấp những cung cách khác nhau hay những loại thực tập khácnhau. Để đáp ứng với điều này, chúng tacần nhận ra rằng, với phương tiện thiện xảo, Đức Phật đã dạy nhiều pháp mônkhác nhau để thích hợp với những người khác nhau. Nếu chúng ta loại ra và xem thường chúng, thếthì chúng ta đang phủ nhận Giáo Pháp.

4.- NHỮNG HÌNH THỨC DỊUDÀNG CỦA VIỆC TRỘN LẪN CÁ TÍNH VỚI GIÁO PHÁP

Chúng ta có thể khôngquá bị quấy rầy một cách nghiêm trọng với bất cứ những triệu chứng được đề cậpbên trên, nhưng nhiều người trong chúng ta có thể vẫn có những hình thức nhẹnhàng của việc trộn lẫn cá tính với sự thực hành Phật Pháp. Thí dụ, chúng ta có thể tiếp cận “sự tíchlũy công đức” giống như chúng ta đang cố gắng để thắng một cuộc thi cử và trongấy chúng ta đang thi đua với những hành giả khác. Hay chúng ta có thể hành động để ‘tích lũycông đức” nhằm để “mua” con đường của chúng ta đến giải thoát và giác ngộ, hayđể để dành cho mùa đông, như những con sóc tích trử quả hạch, để bảo vệ chúngta.

Trên một phương diệnkhác, chúng ta có thể tránh không bị quá liên hệ với Giáo Pháp, bởi vì chúng tasợ phải bỏ đi một số thói quen thường ngày của chúng ta – cho dù chúng là nhữngthói quen cá tính lành mạnh hay không lành mạnh. Do thế, chúng ta có thể sợ phải mãi mãi tiếpnhận những thệ nguyện hay những lễ quán đảnh. Về điều này chúng ta cần phát triển sự tỉnh thức sắc bén để phân biệtnhững hành vi và sự thích thú nào của chúng ta là lành mạnh và hữu ích, vànhững thứ nào là không lành mạnh và tổn hại.

Cũng thế, chúng ta cóthể có những chướng ngại về những sự tiếp cận trí thức, xúc cảm, hay sùng mộ đếnPhật Pháp. Điều này sinh khởi khi chúngta nhận ra chính mình hoàn toàn với một hay hơn trong những loại tiếp cậnnày, hay chúng ta nhận ra mình như aiđấy không thể có một hay hơn những điều này. Để vượt thắng điều này, chúng ta cần nhận ra những lợi ích của mỗi mộttrong ba loại tiếp cận và nỗ lực để trau dồi tối đa sự cân bằng thực hành PhậtPháp mà mình có thể làm.

Những rắc rối khác củachúng ta có thể sinh khởi bởi vì chúng ta không đặt để Phật Pháp ưu tiên đúngmức trong đời sống chúng ta. Do bởi điềuấy, chúng ta không thực hành hằng ngày hay không tiếp nhận sự thực tập hằngngày và quyết tâm một cách nghiêm chỉnh.Chúng ta bỏ thực tập khi chúng ta cảm thấy không thích làm điều ấy, vàchúng ta vắng mặt trong những buổi học khi chúng ta cảm thấy không hứng thú,hay có một lễ mừng ngày sinh hay một bộ phim hay hoặc một buổi hòa nhạc trùnghợp thời gian. Điều này có thể bởi vìchúng ta cảm thấy rằng để thực hành hay dự học Phật Pháp là đang phải từ bỏ mộtsố bộ phận quan trọng của “chính chúng ta”. Với điều này, chúng ta cần phân biệt giữa những gì quan trọng trong đờisống và những gì không quá quan trọng, và giữa việc khi chúng ta thật sự khôngthể thiền tập hay đi đến lớp học Phật Pháp, và khi chúng ta chỉ lãng tránh dobởi lười biếng hay dính mắc. Chúng tacần tái khẳng định đời sống quý giá của con người, và nghĩ về cái chết và vôthường.

Nếu chúng ta áp dụngnhững phương pháp khác nhau này, chúng ta có thể tránh một số vấn đề mà chúngđến từ sự trộn lẫn cá tính tự ngã với sự thực tập Phật Pháp của chúng ta.

ẨnTâm Lộ ngày 07/06/2011

http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/sutra/level1_getting_started/approaching_study_meditation/avoiding_mixing_with_dharma_practic.html

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/03/2012(Xem: 551)
Tu hành Duy thức là đạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉ là vọng tưởng không thật.
13/03/2012(Xem: 584)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
12/03/2012(Xem: 651)
Duy Thức tông, y cứ vào kinh, nói: Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức. Chúng ta hãy lấy một ví dụ cụ thể và đơn giản. Tôi đang thấy một cây dừa. Tại sao nói cây dừa này là do thức biến? Trước hết là năm thức của giác quan (tiền ngũ thức). Nhãn thức do sự tiếp xúc, tương tác của căn (giác quan mắt) và trần (đối tượng hiện diện của con mắt) mà sanh khởi. Đây là một liên hệ duyên sanh. Căn trần thức là một bộ ba duyên sanh, nương dựa vào nhau mà có. Thiếu một cái thì chẳng thành cái gì, một cái biến đổi thì hai cái kia biến đổi theo. Nhãn thức như thế này của tôi là do nhãn căn (con mắt) được cấu tạo theo kiểu người mà có, và trần (đối tượng để thấy và được thấy) cũng tùy thuộc vào nhãn căn của tôi. Trần là trần của một loại nhãn căn nào đó, không có một cái trần khách quan tuyệt đối. Như cây dừa, con chó chỉ thấy có hai màu đen trắng, con rắn thì thấy bằng hơi nóng (như chúng ta nhìn qua ống dòm hồng ngoại tuyến, con dơi thì thấy bằng sóng điện như ra đa…­). Giác quan mắt
15/01/2012(Xem: 5025)
Theo Phân tâm học, tâm của con người chia làm hailà ý thức và vô thức. Duy thức học thì phân làm tám và ý thức là một trong támphần đó. Như vậy, nhìn theo quan điểm nào thì ý thức cũng chỉ là một phần củatâm. Tuy vậy, ý thức rất năng động và có phạm vi hoạt động rất lớn... Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
14/09/2011(Xem: 5272)
(窺基, Kigi, 632-682): sơ tổ của Pháp Tướng Tông Trung Quốc, xuất thân vùng Trường An (長安), Kinh Triệu (京兆) nhà Đường, họ là Úy Trì (尉遲), tự Hồng Đạo (洪道), còn được gọi là Linh Cơ (靈基), Thừa Cơ (乘基), Đại Thừa Cơ (大乘基), Cơ Pháp Sư (基法師), tục xưng là Từ Ân Đại Sư (慈恩大師), Từ Ân Pháp Sư (慈恩法師) và tông phái của ông được gọi là Từ Ân Tông (慈恩宗). Ông có tướng mạo khôi ngô, bẩm tánh thông tuệ, xuất gia lúc 15 tuổi, phụng sắc chỉ nhà vua làm đệ tử của Huyền Trang
07/04/2011(Xem: 13012)
Duy Thức Tam Thập Tụng (ba mươi bài tụng Duy Thức) là luận điển cơ bản của Tông Duy Thức. Tông Duy Thức dựa vào luận điển này mà thành lập. Lý do cần giảng ba mươi bài tụng là vì sự thành lập và truyền thừa Tông Duy Thức từ đây mà ra. Tông Duy Thức của Trung Quốc bắt đầu từ học phái Du Già Hạnh của Phật Giáo đại thừa Ấn Độ. Nhưng khi đã nói đến học phái Du Già Hạnh không thể không tìm hiểu học phái Trung Quán. Xin lần lượt trình bày như sau:
25/01/2011(Xem: 9135)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
31/10/2010(Xem: 627)
Phật giáo, trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của mình đã trải qua nhiều giai đoạn với sự phân hoá thành những bộ phái và giáo lý khác nhau. Tựu trung, có thể chia làm hai trường phái tư tưởng lớn là Tiểu thừa (Hīnayāna) và Đại thừa (Mahāyāna). Tư tưởng của Đại thừa chủ yếu có thể quy thành ba hệ chính là Tánh không (Śūnyatā), Duy thức (Vijñapti-mātratā) và Như Lai Tạng (Tathāgata-garbha).
27/09/2010(Xem: 5191)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
23/09/2010(Xem: 5344)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định. Với lời tuyên thuyết của Bồ tát Long Thọ: “Các pháp do duyên khởi nên ta nói là Không” (Trung luận, XXIV.18), đa số học giả sử dụng Không và Duyên khởi như đồng nghĩa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com