Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trung Luận và Hồi Tranh Luận

01/12/201419:39(Xem: 6261)
Trung Luận và Hồi Tranh Luận

Trung Luan va Hoi Tranh Luan_Long Tho_Do Dinh DongTRUNG LUẬN
(MADHYAMAKAKÀRIKÀ)

HỒI TRANH LUẬN
(VIGRAHAVYÀVARTANÌ)

2012 Phật Lịch 2555
BỒ TÁT LONG THỌ tạo luận
Luật sư THANH MỤC bình

Tam Tạng Pháp sư CƯU MA LA THẬP dịch sang Hán văn
BRIAN BOCKING dịch sang tiếng Anh
ĐỖ ĐÌNH ĐỒNG dịch sang tiếng Việt

To Su Long Tho

NAM-MÔ LONG THỌ TỔ SƯ BỒ-TÁT



Một Số Tác Phẩm của Bồ-tát Long Thọ
(hay được cho là của Bồ-tát Long Thọ)

1. Trung Luận hay Trung Quán Luận (Mùla-madhyamaka-karikà).Bảo
2. Hồi Tranh Luận (Vigrahavyàvartani).
3. Đại Trí Độ Luận còn gọi là Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa Kinh Thích Luận (Mahaprajnaparamata-upadesa-sastra).
4. Đại Thừa Phá Hữu Luận (Bhavasamkranti).
5. Thập Nhị Môn Luận (Dvàdasanikàva).
6. Hạnh Vương Chánh Luận (Ràjaparikatha-ratnamàla).
7. Bất Khả Tư Nghì Tụng (Acyntyastava).
8. Bồ-đề Tư Lương Luận (Bodhisambhrahaka).
9. Đại Thừa Nhị Thập Tụng Luận (Mahayananavimsakà).
10. Lục Thập Như Ý Luận (Yukisastikà-karikà).
11. Nhân Duyên Tâm Luận Tụng (Pratìtyamutpàdahrdaya-kàrikà)
12. Thất Thập Tánh Không Luận (Sunyatàsaptati).
13. Tồi Phá Luận hay Quảng Phá Luận (Vaidalyaprakarana)
14. Xuất Thế Gian Tụng (Lokàtitastava).


Mục Lục

Một Số Tác Phẩm của Long Thọ, 4
Lời người dịch, 6

TRUNG LUẬN

Lời Tựa của Tăng Duệ, 9
Chương 1. Quán Nhân Duyên, 11
Chương 2. Đi và Đến, 22
Chương 3. Quán Sáu Tình, 31
Chương 4. Quán Năm Uẩn, 34
Chương 5. Quán Sáu Đại, 39
Chương 6. Quán Nhiễm và Người Nhiễm, 43
Chương 7. Quán Ba Tướng, 47
Chương 8. Quán Nghiệp và Tác Nhân, 64
Chương 9. Quán Bản Trụ, 69
Chương 10. Quán Lửa và Nhiên Liệu, 75
Chương 11. Quán Bản Tế, 83
Chương 12. Quán Khổ, 86
Chương 13. Quán Hành, 90
Chương 14. Quán Hòa Hợp, 99
Chương 15. Quán Có và Không, 104
Chương 16. Quán Ràng Buộc và Giải Thoát, 109
Chương 17. Quán Nghiệp, 114
Chương 18. Quán Pháp, 126
Chương 19. Quán Thời, 136
Chương 20. Quán Nhân và Quả, 139
Chương 21. Quán Thành và Hoại, 147
Chương 22. Quán Như Lai, 157
Chương 23. Quán Thấy Điên Đảo, 165
Chương 24. Quán Bốn Thánh Đế, 172
Chương 25. Quán Niết-bàn, 184
Chương 26. Quán Mười Hai Nhân Duyên, 193
Chương 27. Quán Tà Kiến, 196

HỒI TRANH LUẬN
Tụng 1-20, trg. 211-220
Tụng 21-70, trg. 221-243
Thư Mục 244


Lời Người Dịch

Mùlamadhyamaka-kàrikà (Trung luận hay Trung Quán Luận) của Nagarjuna (Long Thọ) là một trong số những tác phẩm nổi tiếng là khó đọc, khó thấu triệt, khó giải thích, khó dịch trong thế giới triết học, đạo lý của con người trên thế giới vì tánh cách uyên thâm siêu việt của tư tưởng và ngôn ngữ diễn đạt quá hàm súc, trừ những ai đã liễu ngộ tánh không của vạn vật trong vũ trụ và trong đời sống con người trên thế gian. Vì thế, rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu, dịch thuật, giải thích hay bình luận, xưa cũng như nay, cả Đông lẫn Tây, đã nỗ lực rất nhiều, trước tiên là để tự giúp mình và sau là giúp người đọc hiểu nó đến mức độ nào đó, do đó rất nhiều tác phẩm đã ra đời trong ngót hai nghìn năm qua. Bản dịch tiếng Việt này cũng không ngoại lệ.

Trên bước đường tìm học, người dịch đã có cơ duyên được đọc Trung Luận tức Mulamadhyamaka-karika, luận thư quan trọng nhất của Đại Bồ-tát Long Thọ (Nagarjuna), qua một số bản dịch tiếng Anh trước khi có cơ hội đọc bản dịch tiếng Việt và bản Hán dịch các Tụng ngôn của Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập (Kumarajiva, 344-413 TL), và lời bình giải được qui cho là của Luật sư Thanh Mục (Vinaya Master Vimalaksa), là vị thầy Bà-la-môn (Brahman) trước kia của Pháp sư Cưu-ma-la-thập. Trong khi đọc và tham cứu, người dịch thấy rằng mình đã được soi sáng nhiều điểm trước đó chưa được rõ ràng.

Thật là một niềm hân hoan và lợi ích lớn. Vì thế, người dịch mạo muội làm việc chuyển dịch sang tiếng Việt cả Tụng ngôn và Lời Bình để giới thiệu với độc giả trọn vẹn những gì vốn đã được chính Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập làm cho Trung Luận và được Tăng Duệ, một trong những đệ tử chính của Pháp sư, chịu trách nhiệm xuất bản đầu tiên như trong Lời Tựa của ông cho biết. Đối với người chưa từng đọc hay học giáo lý Trung Luận của Bồ-tát Long Thọ mà muốn đọc, hoặc những người đang đọc hay đã đọc nhưng thấy có những chỗ khó hiểu và chưa hiểu rõ ràng, thì lời bình giải đi kèm từng Tụng ngôn của Luật sư Thanh Mục là một trợ giúp lớn vì tính cách ngắn gọn, cụ thể, bình dị, và bắn đúng trọng điểm của các Tụng ngôn.

Tác giả của Mulamadhyamaka-karika (Trung Luận), Nagarjuna (Long Thọ), là một Đại Bồ-tát ở Ấn độ, sống vào khoảng sau của thế kỷ thứ 2 và phần đầu của thế kỷ thứ 3 Tây lịch. Đời của ngài như đã được ghi chép và truyền tụng vừa có tính cách lịch sử vừa mang tính cách huyền thoại phi phàm, khó mà nhận diện cho thật chính xác. Địa vị của ngài trong Phật giáo nói chung, trong Phật giáo Đại thừa nói riêng, thật rất quan trọng. Như các học giả Phật học đi trước nhận định rằng ngài chỉ đứng sau đức Phật Thích-ca Mâu-ni, và ngài là Tổ sư của tám đại tông phái Phật giáo, trong đó có Tam Luận tông, Tịnh Độ Tông, Thiền tông, Chơn Ngôn tông, Mật tông Tây tạng, v.v…Thiền tông công nhận ngài là Tổ thứ 14. Trong thực tế, các chùa và tự viện ở các nước châu Á như Trung hoa và Việt nam, cửa chùa được gọi là “cửa Không,” phải chăng đây là do ảnh hưởng của giáo lý Tánh Không của ngài trong đời sống tu hành?

Đối với nhiều học giả Phật học của các nước phương Tây thì Nagarjuna cũng được xem là thứ nhì sau đức Phật, và là một triết gia Phật giáo vĩ đại nhất mà họ từng biết, tìm hiểu, và nghiên cứu tư tưởng trác việt của ngài. Họ thừa nhận giáo lý Tánh Không hay Triết lý Trung quán của ngài nói chung và của Trung luận nói riêng, trong ngót hai ngàn năm qua đã đứng vững chải như là một đỉnh cao thách thức cho toàn thể thế giới triết học cả Đông lẫn Tây và vẫn sẽ như vậy cho các thế hệ mai sau, và Trung Luận (Mulamadhyamakakarika) là một kiệt tác của Phật giáo Đại thừa.

Về bản dịch chữ Hán của Pháp sư Cưu-ma-la-thập. Các học giả Phật học phương Tây khi nghiên cứu triết học Phật giáo họ thường dịch trực tiếp từ nguyên tác Phạn ngữ (Sanskrit) hoặc từ bản dịch tiếng Tây tạng mà họ cho là trung thành với nguyên tác Phạn ngữ hơn là bản văn Hán dịch của Pháp sư Cưu-ma-la-thập, sang ngôn ngữ của họ. Nhưng theo Giáo sư triết học David J. Kalupahana thuộc viện Đại học Hawaii (The University of Hawaii) thì không hẳn như vậy. Trong Lời Tựa của ông cho cuốn Mulamadhyamaka-karika of Nagarjuna, The Philosophy of the Middle Way, ông cho biết: Ông đã dịch Chung-lun (Trung luận) của Pháp sư Cưu-ma-la-thập sang tiếng Anh để đối chiếu với nguyên tác Phạn ngữ. Sau khi so sánh và nghiên cứu kỹ lưỡng bản dịch Hán văn của Cưu-ma-la-thập với nguyên tác Phạn ngữ, ông thấy ý nghĩa trong hai bản văn không có gì khác biệt. Ông cũng khám phá ra rằng Kumarajiva là đệ tử còn trung thành và gần gũi hơn của Nagarjuna.

Về dịch thuật. Phần các Tụng ngôn của Bồ-tát Long Thọ được dịch từ bản dịch Hán văn của Pháp sư Cưu-ma-la-thập do Thượng tọa Thích Viên Lý cho in lại trong bản dịch Việt ngữ Trung Luận của Thượng tọa, do Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới xuất bản năm 1998 ở California, Hoa kỳ. Phần bình giải của Luật sư Thanh Mục được dịch theo bản dịch tiếng Anh của Tiến sĩ Brian Bocking trong quyển Nagarjuna in China, A Translation of the Middle Treatise do nhà The Edwin Mellon Press, Ltd. ở Anh quốc cho ấn hành ở Hoa kỳ vào năm 1995. Tiến sĩ Brian Bocking đã dịch theo bản Hán văn của Pháp sư Cưu-ma-la-thập rút từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh của Nhật bản.

Khi dịch, chúng tôi có tham khảo bản dịch tiếng Việt của Thượng tọa Thích Viên Lý từ bản dịch Hán văn của Pháp sư Cưu-ma-la-thập, và các bản dịch tiếng Anh như của Brian Bocking từ bản dịch Hán văn, của Kenneth K. Inada, của David J. Kalupahana, và của Richard H. Jones từ nguyên tác Phạn ngữ, và của Jay L. Garfield từ bản dịch tiếng Tây tạng.

Hồi Tranh Luận (Vigrahavyàvartani) là một tác phẩm ngắn gọn, chỉ gồm bảy mươi tụng ngôn. Trong số đó, hai mươi tụng ngôn đầu Bồ-tát Long Thọ tóm lược tất cả những phản luận của các đối thủ đã tranh luận với ngài về giáo lý Tánh Không và năm mươi tụng ngôn sau là những giải đáp của ngài. Lời giải thích cho các tụng ngôn cũng chính do ngài viết. Trong Hồi Tranh Luận, Bồ-tát Long Thọ đã trình bày vắn tắt, rõ ràng lập trường của ngài: không lập trường và cùng lúc bác bỏ luôn cả tri thức luận và luận lý học là không có căn bản tự hữu. Vì vậy, Hồi Tranh Luận được xem như là một bổ sung cho Trung Luận, nên chúng tôi dịch và cho vào tập sách để độc giả tiện bề tham khảo. Phần các tụng ngôn trong Hồi Tranh Luận được dịch theo bản dịch tiếng Anh do Giáo sư Thomas E. Woods dịch từ nguyên tác tiếng Phạn trong quyển Nagarjunian Disputations do University of Hawaii ấn hành năm 1994 ở Honolulu, Hoa kỳ. Phần Lời Bình các tụng ngôn được dịch theo bản dịch tiếng Anh do Tiến sĩ Kamaleswar Bhattacharya dịch, cũng từ nguyên tác tiếng Phạn, trong quyển The Dialectical Method of Nagarjuna và nhà Motial Banarsidass Publishers xuất bản năm 1998 ở Delhi, Ấn độ.

Chân thành cảm tạ tất cả các dịch giả của các ngôn ngữ khác nhau của các bản dịch mà người dịch đã sử dụng khi thực hiện bản dịch tiếng Việt này.

Dù đã cố gắng nhiều nhưng do sự hiểu biết có hạn, nên chắc có những sai sót trong bản dịch, xin các bậc cao minh rộng lượng chỉ bảo cho để có thể sửa đổi cho bản dịch tốt hơn khi có dịp.

Xin đa tạ.

Frederick, 21 tháng 02 năm 2012

Đỗ Đình Đồng

Lời Tựa
của Tăng Duệ

Trong Trung Luận có năm trăm tụng ngôn, do Bồ-tát Long Thọ sáng tác. Lấy tên là “Trung” để tuyên bố cái thực của nó. Nó được gọi là “Luận” để làm cho trọn vẹn lời nói. Nếu không có danh người ta không hiểu được cái thực; do đó người ta định danh nó là “Trung” để công bố nó. Lời sẽ không trọn vẹn nếu không có giải thích; do đó họ chấp nhận chữ “Luận” để làm nó rõ ràng. Khi cái thực đã được tuyên bố và lời đã rõ ràng, thì theo dòng bồ-tát, trực giác của bồ-đề-đạo-tràng (bodhimanda) chiếu sáng rực rỡ, và các “các sợi dây huyền được hợp nhất.”

Tham và si dấy lên từ tà niệm, và do đó mà ba cõi đắm chìm. Cái hiểu phiến diện phát sinh tri kiến [đặc thù] do ghét, và do đó có những sai lạc quyết định so với mục tiêu. Như vậy chúng ta biết rằng đại bồ-đề ở trong trực quan quảng đại, và tri kiến nhỏ bé thì bị tâm bóp méo trói buộc. Nếu trực quan không quảng đại, thì không đủ để phá bỏ đi hữu và vô, để hợp nhất thánh và phàm. Nếu kiến thức không hoàn bị thì người ta không thể băng qua Trung Đạo mà xóa bỏ hai giới hạn. Mà thánh và phàm không hợp nhất, hai giới hạn không được xóa bỏ thì đó là điều làm bồ-tát phiền não. Do đó, đại sĩ Nagarjuna (Long Thọ) đã bình đẳng hóa chúng với Trung Đạo, làm cho người học có thể bị lạc mục tiêu (ý nghĩa) nhìn vào chỉ hướng siêu hình và hoàn toàn thay đổi. Đại sĩ đã tổng hợp chúng với [nguyên lý] đồng nhất với những biến thể, và khiến cho các thân chủ của tri thức siêu hình mất đi những hoạch định kỹ lưỡng của họ dưới ánh sáng ban mai trong suốt.

Quảng đại thay! Người ta có thể nói một cách đúng thực để đưa vào trật tự và làm phẳng con đường đi đến (dọc theo) “những bậc thang rỗng” để mở cánh cổng siêu hình bên trong vũ trụ, để quạt ngọn gió bát-nhã giữa những cành cây khô, tưới nước cam lồ (amrita) lên những cây héo rũ. Khi một lâu đài với trăm cây đà (gỗ bách hương) dựng lên, làm sụp đổ túp lều tranh dường như là không tốt. Khi các vị thấy luận này vĩ đại làm sao, thì các vị biết cái hiểu phiến diện thấp kém thế nào. May sao đất Trung thổ này bỗng được núi Linh Thứu (Gridhrakuta) di chuyển đến đây làm núi chính cho nó, và những tâm trí thiên lệch ở những vùng xa xôi nhận được dòng ánh sáng của nó thặng dư từ ái. Từ nay trở đi, lần đầu tiên chư đại đức bàn thảo về Đạo có thể đàm luận về thực tại (cái thực).

Người ta nói rằng tất cả các bang của Thiên trúc (India) không có người nào dấn thân vào nghiên cứu mà không tham cứu luận này và coi nó như là kinh điển của họ. Rất nhiều người trong số đó đã thấm ướt bút lông và viết thành thích luận. Thích luận mà bây giờ chúng tôi xuất bản là thích luận của một vị Bà-la-môn Ấn độ tên là Pin-cha-lo, tiếng Tần (Ch’in) là “Thanh Mục.”.  Mặc dù sư tin và hiểu Pháp thâm sâu, ngôn ngữ của sư không thanh lịch và thích hợp. Pháp sư (Cưu-ma-la-thập) đã hiệu đính và sửa tất cả các lỗi, những khiếm khuyết và chỗ thừa trong đó, chuyển dịch nó phù hợp theo các Tụng ngôn, như thế các nguyên tắc trở nên xác định, mặc dù ở vài chỗ ngôn ngữ vẫn còn chưa hoàn hảo.

Bách Luận đào luyện người ngoại đạo (Tirthikas) và ngăn chận những sai lầm. Bản văn này giải thoát người trong đạo (Phật giáo) và giải trừ các chướng ngại của họ. Đại Trí Độ Luận thì sâu xa và quảng đại. Thập Nhị Môn Luận thì gọn rõ và đúng tâm điểm. Khi quí vị khảo sát bốn luận này, thì thật là như mặt trời và mặt trăng đi vào lòng của quí vị. Không có gì không được soi chiếu rõ ràng.

Tôi đã chịu trách nhiệm và tham cứu (sách này) và không thể để nó rời khỏi tay tôi. Vậy, hãy bỏ qua sự thấp kém và không thích hợp của tôi, tôi đã biểu lộ nội kiến và tình cảm của mình trong lời tựa, và đã lập một bản mục lục ở đầu [sách]. Nhưng tôi hy vọng gì mà giải thích được! Chỉ là để biểu lộ sự hân hoan vì cảm xúc thỏa thuận của riêng tôi.



Dịch theo bản dịch tiếng Anh của Richard Robinson trong quyển Early Madhyamika in India and China do Brian Bocking cho in lại trong quyển Nagarjuna in China, A Translation of the Middle Treatise.

Sự nhận diện “Thanh Mục,” tác giả của luận thích về Trung Luận, đã được thảo luận và đi đến kết luận rằng “Thanh Mục” có lẽ không phải là “Pingala” (Pin-cha-lo) mà là Vimalaksa (Pin-lo-chia), vị thầy Ba-la-môn trước kia ở Kasmir của Pháp sư Cư-ma-la-thập.







Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/01/2023(Xem: 2238)
Dan Lusthaus là nhà văn và giáo sư người Mỹ chuyên về Phật Giáo. Ông chuyên nghiên cứu về Du-già-hành Tông (Yogācāra – hay còn gọi là Duy Thức Tông). Ông là tác giả của nhiều bài viết và sách. Ông dạy tại Đại Học University of California at Los Angeles (UCLA), Đại Học Tiểu Bang Florida, Đại Học Tiểu Bang Missouri, và vào mùa thu năm 2020 ông là Phó Khoa Nghiên Cứu về Nam Á tại Đại Học Harvard, Massachusetts. Tác phẩm “Buddhist Phenomenology” đã được xuất bản vào năm 2002.
22/12/2020(Xem: 6270)
Duy Thức Học là môn triết học và cũng là môn tâm học. Duy Thức Học được gọi là môn triết học vì môn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh thì rộng lớn bao la không bờn bến và nguyên lý lại nằm trong lãnh vực tánh không, không có hiện hữu và lại còn phức tạp. Duy Thức Học cũng gọi là môn tâm học vì môn học này đứng trên lập trường tâm linh để lý giải vạn pháp mà tâm linh lại sinh hoạt không hiển lộ, khó đưa lên trên bình diện thực tại như khoa học vật lý, nhưng không thể thiếu mặt nó trong mọi sinh hoạt của vạn hữu vũ trụ nhân sanh. Vì muốn định rõ giá trị sự cấu trúc đa dạng cũng như sự sinh hoạt của vạn hữu vũ trụ nhân sanh trên lãnh vực tâm linh, Duy Thức học thiết lập rất nhiều danh từ chuyên môn để minh giải tường tận mọi mặt từ sự tướng đến lý tánh, từ sai biệt cá thể đến tổ hợp tổng thể và từ cụ thể đơn giản đến chỗ thâm sâu bí ẩn. Trường hợp đây của Duy Thức Học so sánh không khác khoa học vật lý, khoa
06/05/2020(Xem: 5664)
Kính thưa quý đọc giả thân mến, tác phẩm Duy Thức Tam Thập Tụng của Bồ Tát Thế Thân đã được rất nhiều Hoà Thượng, Thượng Toạ Đại Đức Tăng Ni hữu học dịch giải ra Việt Ngữ và cũng đã trình bày qua nhiều lăng kính tư tưởng sáng tạo và nhờ đó nền văn học Duy Thức càng ngày trở nên càng phong phú.
19/05/2018(Xem: 4883)
Tiêu đề trên rút ra từ đoạn kinh TỨ NIỆM XỨ (Trung Bộ Kinh số 10) do ngài Thích Minh Châu dịch: “-- Này các Tỷ-kheo, đây là con đường ĐỘC NHẤT nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ NIẾT BÀN. Đó là Bốn Niệm xứ.” Bài viết này nhắm giải thích 2 ý nghĩa quan trọng của pháp tu TỨ NIỆM XỨ: 1) Là con đường đi đến NIẾT BÀN. 2) Là con đường ĐỘC NHẤT để đi đến đó, không thể đi bằng một con đường nào khác được.
12/05/2018(Xem: 5802)
Ai là người kế thừa sau khi Phật nhập diệt, Từ lời Phật dạy trong kinh, các ngươi lấy pháp làm nơi nương tựa, cho đến lúc Phật sắp nhập Niết-bàn biến thànhcâu: sau khi Như Lai nhập diệt các ngươi lấy Pháp và Luật làm thầy, cho đến Luật tạng thì lại đề cập: Sau khi Như Lainhập diệt các ngươi lấy giới luật làm thầy. Từ lấy Pháp làmnơi nương tựa, đến lấy ‘Pháp’ và ‘Luật’ làm nơi nương tựa,cuối cùng ‘lấy giới luật’ làm thầy rõ ràng là sự diễn biến kháphức tạp.
01/04/2018(Xem: 3975)
YÊU THƯƠNG VÀ TRÁCH NHIỆM THƯỜNG DÂN Nguyên tác: Compassion and Civic Responsibility Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Budapest 2010 Chuyển ngữ: Tuệ Uyển Thực tế, tôi rất vui mừng và cảm thấy vinh dự lớn để đón nhận giá trị này và cũng có cơ hội để nói với những thanh thiếu niên nam nữ. Tôi nghĩ tất cả trông rất rạng rở trong đôi mắt. Một học sinh rất sáng sủa cũng ở đây. (Chỉ vào đầu của ngài và đến một học sinh sói đầu) Tôi nghĩ hai chúng tôi đang tranh đua với nhau. (Cười) Xin lỗi nhe! Vậy thì những thanh thiếu niên này – các cháu là niềm hy vọng căn bản của chúng tôi. Tôi sinh năm 1935, ngay trước thế chiến thứ II; rồi thì chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam, sự chia cắt Ấn Độ và nội chiến ở Trung Hoa. Những cuộc chiến tiếp tục cho đến bây giờ, ở châu Phi và Trung Đông.
31/03/2018(Xem: 5609)
Những bài kệ của các thiền sư trong triều đại nhà Lý dưới đây thấy tưởng như là thơ, nhưng không phải hẳn là thơ. Cho nên, nó nên thơ. Nói theo thiền ngôn, thấy vậy chứ không phải vậy nên nó như vậy! Luận theo bạch thoại, thiền sư không làm thơ chỉ ra kệ. Nhưng kẻ nghe kệ tưởng nhầm là thơ ... mộng. Bất chợt, trong khoảng khắc, tâm tư bổng nhiên tịch, tĩnh, tỉnh, tịnh lặng, an nhiên, thanh tịnh nhất. Khi nhậm vận, quan sát những thăng trầm của thế sự trôi qua trước mắt mà trong lòng thanh thản, không còn bận tâm nữa. Khi mà cảnh vui buồn không còn chi phối tâm lòng, được mất không còn tham cầu, thành bại hết hãi sợ. Khi mà quán thấu sinh tử vô thường và khi mà chỉ chiếu kiến nhưng không sở trụ vào sự biến thiên tùy duyên của vạn hữu vô thường đó. Ấy là lúc lấp ló, nhi sinh tánh bất sinh bất diệt của chân tâm.
15/12/2017(Xem: 137869)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
17/10/2017(Xem: 7996)
Niềm vui của việc gặp gở những người ta yêu, nổi buồn của việc mất mát người thân, sự phong phú của của những giấc mơ đầy sức sống, sự an bình của những bước chân qua khu vườn vào một ngày xuân, sự hoàn toàn an định trong một thể trạng thiền tập sâu xa – những thứ này và những thứ nọ giống như chúng cấu thành một thực tại kinh nghiệm của chúng ta về [tâm] thức. Bất chấp nội dung của bất cứ kinh nghiệm nào trong ấy là gì, thì không ai trong tâm nhạy cảm của họ có thể nghi ngờ về thực tại ấy.
06/09/2017(Xem: 7463)
Hạt hồ đào (walnut) ăn rất ngon nhưng cái vỏ của nó rất cứng. Ở Tây phương người ta có chế ra một cái kẹp sắt, chỉ cần bóp mạnh cái kẹp thì vỏ hồ đào vỡ và ta có thể thưởng thức ngay hương vị thơm ngọt và bùi của hồ đào. Có những kẻ trong chúng ta đã từng bị lúng túng trong khi đọc những bài kệ Trung Quán Luận. Nhưng trong hai mùa Đông năm 2001-2002 và 2002-2003, thầy của chúng tôi là thiền sư Nhất Hạnh đã giảng giải cho chúng tôi nghe và hiểu được những bài kệ ấy một cách dễ dàng và thích thú. Sách này ghi lại những bài giảng của thầy về sáu phẩm căn bản của Trung Quán Luận, các phẩm Nhân Duyên, Khứ Lai, Tứ Đế, Hữu Vô, Nhiên Khả Nhiên và Niết Bàn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]