Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Con Đường Độc Nhất Đi Đến Niết Bàn

19/05/201817:38(Xem: 4457)
Con Đường Độc Nhất Đi Đến Niết Bàn


Jade Buddha_18_5_2018 (95)
CON ĐƯỜNG

ĐỘC NHẤT

ĐI ĐẾN NIẾT BÀN

 

Tiêu đề trên rút ra từ đoạn kinh TỨ NIỆM XỨ (Trung Bộ Kinh số 10) do ngài Thích Minh Châu dịch: “-- Này các Tỷ-kheo, đây là con đường ĐỘC NHẤT nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ NIẾT BÀN. Đó là Bốn Niệm xứ.”

Bài viết này nhắm giải thích 2 ý nghĩa quan trọng của pháp tu TỨ NIỆM XỨ: 1) Là con đường đi đến NIẾT BÀN.  2) Là con đường ĐỘC NHẤT để đi đến đó, không thể đi bằng một con đường nào khác được.

 

  1. I.              TỨ NIỆM XỨ LÀ CON ĐƯỜNG ĐI ĐẾN NIẾT BÀN

 

NIẾT BÀN là gì?  -- Nói cho dễ hiểu và cụ thể thì NIẾT BÀN là điểm đến, là mục tiêu của sự tu hành, chính là sự CHẤM DỨT KHỔ ĐAU như Đức Phật đã nói với ngài Anurada:

Lành thay, lành thay! Này Anuràdha. Trước đây và hiện nay, này Anuràdha, Ta chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ.”

(Kinh Tương Ưng 6 Xứ: http://budsas.net/uni/u-kinh-tuongungbo/tu4-44.htm)

TỨ NIỆM XỨ CHẤM DỨT KHỔ ĐAU  NHƯ THẾ NÀO?

Từ xưa tới nay ta khổ vì đã đồng hóa THÂN là TA, TÂM cũng là TA. Cho nên khi THÂN ĐAU thì liền nói TA ĐAU, khi TÂM KHỔ thì liền nói TA KHỔ, ta bị lôi cuốn tức khắc theo sự CẢM THỌ thăng trầm của chúng.  Sự đồng hóa đó gọi là VÔ MINH CHẤP NGÃ.

Đến khi tu pháp TỨ NIỆM XỨ, thường trực dùng TRÍ TUỆ để quan sát THÂN và TÂM cùng với những CẢM THỌ của chúng (tất cả những gì thuộc về TA) một cách KHÁCH QUAN để xem chúng biến đổi như thế nào, thì dần dần có một khoảng cách phát triển giữa TA và chúng.  Từ đó chúng không còn khả năng lôi cuốn TA  tức khắc và nhanh chóng nữa.

Nhờ thế TRÍ TUỆ bớt bị những CẢM THỌ làm lung lay, nên càng vững chãi quan sát sâu hơn.  Sự QUAN SÁT SÂU HƠN này gọi là MINH SÁT TUỆ hay HÀNH THÂM BÁT NHÃ.  Và khi QUAN SÁT SÂU thì mới khám phá ra rằng THÂN, TÂM, CẢM THỌ, hay nói chung là 5 thành phần cấu tạo TA (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) đều là những pháp DO DUYÊN SINHkhông liên hệ gì tới TA.

Khi khám phá ra sự thật THÂN và TÂM (nói gọn) hay tất cả 5 UẨN (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) đều sinh/diệt theo DUYÊN với các pháp khác, không liên hệ gì tới TA, không là TA, không là CỦA TA, thì đó gọi là giác ngộ SỰ THẬT VÔ NGÃ, thấy TA không hiện hữu trong bất cứ PHÁP HỮU VI có sinh diệt nào cả.  Đó kể như đã đến bờ mé của sự TỊCH TỊNH NIẾT BÀN.

Khi đã nhận ra NGÃ chỉ là một ẢO TƯỞNG và VÔ NGÃ mới là một SỰ THẬT  thì cái tư tưởng có một người chịu nhận đau khổ, cũng chỉ là ẢO TƯỞNG sai lầm.  Cho nên ai giác ngộ được VÔ NGÃ thì cũng giác ngộ được KHÔNG NHÂN, KHÔNG CHÚNG SANH, KHÔNG THỌ GIẢ, tức không có một nhân vật nhận chịu khổ đau.  Bên trong cái thân xác của ta, chắc chắn chỉ có thịt xương máu mủ, chứ không núp chứa một nhân vật nào cả.Đó chính là cách CHẤM DỨT ĐAU KHỔ của Đạo Phật bằngsức mạnh TRÍ TUỆ sống đúng với SỰ THẬT VÔ NGÃ, chứng nghiệm qua sự thực hành THIỀN QUÁN TỨ NIỆM XỨ.

Cũng nên lưu ý rằng VÔ NGÃ đang nói ở đây là một SỰ THẬT để khám phá, để GIÁC NGỘ, chứ không phải là một ĐỨC TÍNH để tập tành như tập sống với tánh Vị Tha, Hy Sinh, Nhường Nhịn, v.v.  Ngườitập sống với những Đức Tánh đó vẫn chỉ để xây dựng một cái NGÃ đẹp hơn thôi, chứ chưa ra khỏi CHẤP NGÃ, chưa đạt được VÔ NGÃ.  VÔ NGÃ của sự giải thoát coi PHÀM hay THÁNH đều chẳng phải là TA, đều chẳng phải là CỦA TA.

Chính pháp THIỀN QUÁN TỨ NIỆM XỨ này nói lên đầy đủ tinh thần KHOA HỌC THỰC NGHIỆM của Đạo Phật, và chứa đựng đầy đủ 5 ÂN ĐỨC PHÁP:  1) Thiết Thực Hiện Tại, 2) Không có Thời gian, 3) Đến để mà thấy, 4) Có khả năng hướng thượng, 5) Người TRÍ có thể chứng nghiệm được.

 

1)    THIẾT THỰC HIỆN TẠI:  Bởi vì khi thường xuyên quan sát mình, khổ đau sẽ giảm bớt ngay tức khắc, bởi tâm bị cắt đứt khỏi các đối tượng làm mình Tham, Sân, Si.

 

2)    KHÔNG CÓ THỜI GIAN:  Bởi có hiệu quả ngay tức khắc, không chờ đợi thời gian, và luôn luôn đúng trong cả 3 thời:  Quá khứ, Hiện tại, và Tương lai.

 

3)    ĐẾN ĐỂ MÀ THẤY:  Bởi vì là một pháp tu THỰC NGHIỆM được, chứ không cần TIN.

 

4)    CÓ KHẢ NĂNG HƯỚNG THƯỢNG:  Bởi vì càng quan sát chính mình, càng phát lộ những điều không tốt để cải thiện.

 

5)    NGƯỜI TRÍ CÓ THỂ CHỨNG NGHIỆM ĐƯỢC:  Bởi những ai có TRÍ TUỆ đều sẽ chứng nghiệm đươc SỰ THẬT VÔ NGÃ để giải thoát như nhau.

 

  1. II.            TẠI SAO TỨ NIỆM XỨ LÀ CON ĐƯỜNG ĐỘC NHẤT ĐI ĐẾN NIẾT BÀN

 

Nói như thế có nghĩa là không thể đi đến CHẤM DỨT KHỔ ĐAU bằng một con đường nào khác.  Nói như vậy có cực đoan lắm không?  Không lẻ các Pháp tu khác đều không đạt đến NIẾT BÀN được ư?  -- Tôi không cực đoan đâu, tôi sẽ giải đáp rõ từng thắc mắc.  Nhưng trước hết tôi xin đưa ra 3 lý do dễ hiểu, để thấy TỨ NIỆM XỨ phải là CON ĐƯỜNG ĐỘC NHẤTmà ai cũng phải đi qua đó, trên đường đi đến NIẾT BÀN:

 

1)    MỘT BẬC GIÁC NGỘ PHẢI HIỂU RÕ CHÍNH MÌNH:  Không thể có một bậc giác ngộ, biết rõ mọi pháp mà chính mình thì chưa biết hết.  Phải hiểu rõ chính mình thì mới có thể hiểu rõ mọi pháp.  Bởi vì mọi pháp khác đều do mình mà thấy.  Cho nên tất cả các bậc giác ngộ khi đi tìm kiếm con đường giải thoát, luôn luôn trở lại tìm hiểu chính mình. Mà tìm hiểu chính mình chính là phải thực hành TỨ NIỆM XỨ.  Điều đó Đức Phật đã  tâm sự qua 2 câu kinh Pháp cú 153, 154 như sau:

153.     Lang thang bao kiếp sống

Ta tìm nhưng chẳng gặp

Người xây dựng nhà này

Khổ thay phải tái sanh.

 

154      Ôi người làm nhà kia

            Ngươi không làm nhà nữa

            Đòn tay ngươi bị gãy

            Kèo cột ngươi bị tan

            Tâm ta đạt tịch diệt

            Tham ái thảy tiêu vong

                       

Tâm ta đạt TỊCH DIỆT, tham ái thảy tiêu vong, chính là thời điểm chứng ngộ VÔ NGÃ không còn thấy ta hiện diện ở nơi đâu: “Như lai không từ đâu tới, Như lai chẳng đi về đâu”.

 

2)    PHẢI THỰC HÀNH TỨ NIỆM XỨ MỚI CÓ THỂ CHỨNG NGỘ VÔ NGÃ.  VÔ NGÃ là THỰC TƯỚNG của BÃN NGÃ.  Thực tướng này chỉ có thể khám phá ra khi BÃN NGÃ được khảo sát thấu đáo.  Sự khảo sát BÃN NGÃ chính là sự thực hành thiền quán TỨ NIỆM XỨ.  Do đó TỪ NIỆM XỨ đúng là CON ĐƯỜNG ĐỘC NHẤT để đi đến NIẾT BÀN.  Vì đó là CON ĐƯỜNG phải đi để chứng ngộ VÔ NGÃ.

 

3)    PHẢI THỰC HÀNH TỨ NIỆM XỨ MỚI CHẤM DỨT ĐƯỢC VÔ MINH.  Đến NIẾT BÀN tức phải chấm dứt VÔ MINH.  Mà VÔ MINH theo định nghĩa của Phật ở trong Tương Ưng Bộ Kinh là sự thiếu hiểu biết về 4 SỰ THẬT của TỨ THÁNH ĐẾ:  1) Sự thật về KHỔ, 2) sự thật về NGUYÊN NHÂN của KHỔ, 3) sự thật về CHẤM DỨT KHỔ, và 4) Sự thật về CON ĐƯỜNG đi đến CHẤM DỨT khổ.  Mà tất cả 4 Sự thật đó đều được nhận ra từ trong chính TA.  Nếu không quan sát chính TA bằng TỨ NIỆM XỨ thì làm sao nhận chân được “đây là KHỔ”, “đây là NGUYÊN NHÂN của KHỔ”, “Đây là sự CHẤM DỨT KHỔ”, hoặc “đây đích thực là CON ĐƯỜNG đi đến CHẤM DỨT KHỔ”.  Khi đã nhận ra đầy đủ tất cả 4 SỰ THẬT, đó là lúc đã bắn xuyên thủng VÔ MINH, tận diệt mọi ĐAU KHỔ, chứng ngộ NIẾT BÀN.  Lúc đó cũng như một bệnh nhân đã thấy rõ thân mình hoàn toàn an lành, không còn chút bệnh hoạn nào nữa.

 

SO SÁNH TỨ NIỆM XỨVỚI CÁC PHÁP KHÁC

 

Để ý rằng chúng ta cũng thường nghe Đức Phật nhắc nhở:  Không có BÁT CHÁNH ĐẠO thì không thể có sự đắc chứng thánh quả nào hết, hoặc không thấu hiểu TỨ THÁNH ĐẾ thì không thể CHẤM DỨT ĐAU KHỔ.  Những lời tuyên bố đó không mâu thuẩn với lời tuyên bố TỨ NIỆM XỨ là CON ĐƯỜNG ĐỘC NHẤT đi đến NIẾT BÀN.   Bởi vì TỨ NIỆM XỨ chính là CHÁNH NIỆM ở trong BÁT CHÁNH ĐẠO, bởi vì VÔ NGÃ chính là DIỆT ĐẾ, là Sự Thật số 3 của TỨ THÁNH ĐẾ.   BÁT CHÁNH ĐẠO cũng chính là ĐẠO ĐẾ, Sự Thật số 4, của TỨ THÁNH ĐẾ.  Như vậy nếu bỏ qua TỨ NIỆM XỨ thì kể như chưa đầy đủ BÁT CHÁNH ĐẠO, chưa đầy đủ TỨ THÁNH ĐẾ, do đó không đi đến NIẾT BÀN là chuyện tất nhiên.

Còn với các pháp khác, ví dụ như pháp NIỆM PHẬT A DI ĐÀ cầu về TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC, hoặc pháp THIỀN VÔ NIỆM của THIỀN TÔNG TQ để đi đến “HOÁT NHIÊN ĐẠI NGỘ” thì sao?  Những pháp đó đều ra ngoài TỨ NIỆM XỨ nên khôngCHẤM DỨT KHỔ ĐAU được sao?  Có người còn tuyên bố: “PHẬT PHÁP VỐN VÔ PHÁP” hoặc “VẠN PHÁP ĐỀU LÀ PHẬT PHÁP” thì sao nữa?  -- Với các pháp vừa nói đó, thì tôi chỉ có một cách trả lời tổng quát, chung cho tất cả, là như thế này: 

Trước hết người Phật tử nên phân biệt một pháp môn đưa đến sự AN LẠCmột pháp môn đưa đến TÂN DIỆT KHỔ ĐAU.  Nếu chỉ nhắm mục đích tu hành để được AN LẠC hay AN VUI trong cuộc sống,thì có vô số pháp môn tu.  NGOẠI ĐẠO cũng có cách tu thể đạt đến AN LẠC.  Hầu hết các pháp môn mà Phật tử VN đang tu đều đưa đến AN VUI, AN LẠC.   Nhưng AN LẠC hay AN VUI thì không phải là mục tiêu tu hành của Đạo Phật, bởi đó vẫn chỉ là một HẠNH PHÚC TẠM BỢ không hơn gì các HẠNH PHÚC THẾ GIAN.

Phải hiểu chính xác rằng.  Đạo Phật ra đời chỉ để TẬN DIỆT KHỔ ĐAU cho chúng sanh chứ không chỉ đem đến AN LẠC TẠM BỢ.   Bởi thế Đức Thế Tôn mới tuyên bố rằng “Trước đây và hiện nay, Ta chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ.”  Mà muốn CHẤM DỨT KHỔ thì dĩ nhiên phải thấu rõ tất cả 4 SỰ THẬT của TỨ THÁNH ĐẾ như Đức Phật đã tuyên bố trong kinh Chuyển Pháp Luân: “Này chư tỳ kheo, từ xưa tới nay ta và các ngươi không ra khỏi khổ bởi không hiểu rõ đầy đủ 4 THÁNH ĐẾ”.Tức bởi không hiểu đầy đủ 4 sự thật này:  1) Sự thật về KHỔ, 2) Sự thật về NGUYÊN NHÂN của KHỔ, 3) Sự thật về CHẤM DỨT KHỔ, và 4) Sự thật về CON ĐƯỜNG đi đến CHẤM DỨT KHỔ.

 

Phật xác nhận lý do không ra khỏi khổ như vậy rất chí lý.  Cũng ví như khi bạn bị đau khổ vì Bệnh, muốn tìm đến một ông bác sĩ để chửa trị, nhưng khi gặp ông bác sĩ khám bệnh xong ông ta tuyên bố “Tôi không biết BỆNH này là BỆNH gì?”, hoặc “Tôi không biết NGUYÊN NHÂN bệnh này do đâu ra?”, hoặc “Tôi không biết bệnh này có CHỬA LÀNH được hay không?”, hoặc “Tôi không biết CÁCH CHỬA cho bệnh này được lành”, thì chắc chắn bạn sẽ phải từ giả ông bác sĩ vô dụng đó.  Bởi ông ta sẽ không giúp bạn chấm dứt đau khổ.

 

Hoặc cúng như một anh chàng sinh viên vào trường y khoa, học hành để thành một bác sĩ giỏi để có thể chửa hết mọi bệnh hoạn cho xã hội.  Nhưng nếu trường đó không cung cấp cho anh ta đầy đủ kiến thức để định BỆNH, hoặc không đủ kiến thức để hiểu rõ NGUYÊN NHÂN của các thứ bệnh, hoặc không đủ kiến thức để hiểu về các sự LÀNH BỆNH, hoặc không đủ kiến thức để hiểu những PHƯƠNG CÁCH chửa lành bệnh, thì anh ta chắc chắn không bao giờ có thể trở thành một bác sĩ giỏi với trường y khoa đó.

 

Cũng thế, nếu một pháp môn không giúp ta biết rõ SỰ THẬT về KHỔ, không giúp ta biết rõ SỰ THẬT về NGUYÊN NHÂN của KHỔ, không giúp ta biết rõ SỰ THẬT về CHẤM DỨT KHỔ, không giúp ta biết rõ về SỰ THẬT CON ĐƯỜNG đi đến CHẤM DỨT KHỔ, thì chắc chắn pháp môn đó không có khả năng CHẤM DÚT KHỔ ĐAU.  Đó là cách bạn tự tìm ra câu trả lời cho các pháp môn khác, ra ngoài TỨ NIỆM XỨ, để xem nó có thể đi đến NIẾT BÀN được hay không?

 

Còn đối với những lời tuyên bố “PHẬT PHÁP VỐN VÔ PHÁP” hoặc “VẠN PHÁP LÀ PHẬT PHÁP” thì tôi xin miễn bàn.  Vì những lời tuyên bố như vậy chẳng khác gì lời khuyên một bệnh nhân đang đau khổ rằng:  “Không cần tìm cách chửa với một bác sĩ nào, bệnh anh cũng sẽ tự lành” hoặc: “cứ đi đến bất cứ ông bác sĩ nào, họ đều sẽ chửa lành cho anh”.  Thực tế có như vậy không?

 

CHÁNH PHÁP của Phật thật sự đã được Phật xác định rất rõ ràng minh bạch.   Trong Tương Ưng Bộ Kinh, Phật đã định nghĩa thế nào là TU HÀNH CHƠN CHÁNH (đưa đến chấm dứt khổ đau)như sau:

 

Những thiện nam tử nào trong thời quá khứ, này các Tỷ-kheo, đã chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình; tất cả những vị ấy đã làm như vậy để như thật chứng ngộ bốn Thánh đế.

Những thiện nam tử nào trong thời vị lai, này các Tỷ-kheo, sẽ chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình; tất cả những vị ấy sẽ làm như vậy để như thật chứng ngộ bốn Thánh đế.

Những thiện nam tử nào trong thời hiện tại, này các Tỷ-kheo, chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình; tất cả những vị ấy làm như vậy để như thật chứng ngộ bốn Thánh đế. Thế nào là bốn?

Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các Tỷ-kheo, không như thật rõ biết: "Đây là Khổ", không như thật rõ biết: "Đây là Khổ tập", không như thật rõ biết: "Đây là Khổ diệt", không như thật rõ biết: "Đây là Con Đường đưa đến Khổ diệt", thời này các Tỷ-kheo, các vị Sa-môn hay Bà-la-môn ấy không được Ta chấp nhận là Sa-môn trong các hàng Sa-môn, hay Bà-la-môn trong các hàng Bà-la-môn.

 

SỰ LIÊN HỆ GIỮA TỨ NIỆM XỨ, BÁT NHÃ, VÀ TỨ THÁNH ĐẾ.

 

Vì thiếu sót trong sự thực hànhTỨ NIỆM XỨ nhiều vị Thầy, Tổ, TQ đã hiểu sai kinh tạng ĐẠI THỪA, ví dụ họdùng kinh BÁT NHÃ để chê bai và hạ thấp giáo lý TỨ THÁNH ĐẾ.  Một giáo lý mà chỉ các bậc Chánh Đẳng Chánh Giác mới có thể toàn triệt được.  Tôi đã từng nghe nhiều vị tu hành Bắc Tông tuyên bố rằng “Tiểu thừa tu pháp TỨ ĐẾ còn Bồ Tát Đại Thừa tu theo HẠNH BÁT NHÃ, nên KHÔNG CÓ PHÁP để tu, KHÔNG CÓ NIẾT BÀN để chứng”.  Họ tuyên bố như thế tại vì ở giữa kinh BÁT NHÃ có câu “không KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO”, “Không CHỨNG cũng không ĐẮC”.

 

Nếu BÁT NHà không có CHỨNG ĐẮC thì tại sao ở cuối kinh lại có câu “CHƯ PHẬT 3 ĐỜI ĐẮC VÔ THƯỢNG GIÁC” đều nương vào BÁT NHÃ?   Nếu BẮT NHà không có PHÁP để tu thì tại sao ở đầu kinh lại có “HÀNH THÂM BÁT NHÔ?  Tức không những có HÀNH mà còn phải HÀNH THÂM nữa.   Mà HÀNH như thế nào?  -- Đó chính là CHIẾU KIẾN NGỦ UẨN đến độ thấy các uẩn đều không có TỰ TÁNH, chẳng có THỰC THỂ, tức chứng ngộ VÔ NGÃ.

 

Cho nên BÁT NHÃ chính là MINH SÁT TUỆ chính là TỨ NIỆM XỨ, Do đó BÁT NHÃ cũng nằm trong ĐẠO ĐẾ của TỨ THÁNH ĐẾ chứ không ở ngoài TỨ THÁNH ĐẾ. Trong kinh TỨ NIỆM XỨ, phần QUÁN PHÁP, cũng có dạy về pháp QUÁN 5 UẨN.  Còn cái câu: “Chư Phật 3 đời đắc Vô Thượng Giác đều nương vào HÀNH THÂM BÁT NHÃ thì cũng một lần nữa xác nhận TỨ NIỆM XỨ là PHÁP ĐỘC NHẤT mà chư Phật 3 đời đều phải đi qua.  ĐẮC VÔ THƯỢNG GIÁC là sự chứng ngộ của các bậc CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC về 4 THÁNH ĐẾ như Đức Phật dã tuyên dương dưới đây.  Và sự chứng ngộ đó cũng do thực hành sung mãn TỨ NIỆM XỨ như đã nói ở trên.

"Này hỡi các Tỳ Khưu, ngày nào mà tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn pháp thánh đế, dưới ba sắc thái và mười hai phương thức chưa được hoàn toàn sáng tỏ thì, cho đến chừng ấy, Như Lai không xác nhận trước thế gian gồm chư Thiên, Ma Vương và Phạm Thiên, giữa các chúng sa môn, bà la môn, Trời và người, rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (anuttaram samma-sambodhim).

Đến khi, này hỡi các Tỳ Khưu, tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn pháp thánh đế, dưới ba sắc thái và mười hai phương thức, đã trở nên hoàn toàn sáng tỏ, chỉ đến chừng ấy, Như Lai mới xác nhận trước thế gian gồm chư Thiên, Ma Vương và Phạm Thiên, giữa các chúng sa môn, bà la môn, Trời và người, rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác” 

 

Còn lý do tại sao BẮT NHÃ lại có câu “không KHỔ THẬP DIỆT ĐẠO”, “KHÔNG CHỨNG KHÔNG ĐẮC”?  -- Vì đó là trình độ thấy của một bậc đã đạt đến VÔ NGÃ.  Bởi VÔ NGÃ cho nên không còn thấy có ai để KHỔ, có ai gây ra sự khổ (TẬP), có ai  Chứng (DIỆT), có ai Tu (ĐẠO). Do đó mà nói không KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO.  Cũng bởi thế mà kinh KIM CANG mới có câu “Bồ Tát độ vô số chúng sanh vào NIẾT BÀN nhưng KHÔNG CÓ CHÚNG SANH NÀO vào niết bàn hết.  Bởi vì đến NIẾT BÀN là đạt VÔ NGÃ là không còn ai để đến hay đi, ra hay vào.

 

VÔ NGÃ của TỨ NIỆM XỨ cũng chính là KHÔNG, VÔ TƯỚNG, VÔ NGUYỆN.  Nhưng cái KHÔNG củaVÔ NGÃ, là một SỰ THẬT ở ngoài TÂM và THÂN,với một CON ĐƯỜNG RÕ RÀNG đểđi đến đó.  chứ không phải là cái KHÔNG do “TÂM KHÔNG” của một người còn phàm trần lý luận và suy diễn ra (KHÔNG này là một sản phẩm của TÂM phàm phu nên không phải là “CHƠN KHÔNG”).

 

Một bậc có sự GIÁC NGỘ thật sự, phải có khả năng diễn tả ĐẠO ĐẾ rõ ràng như là một SỰ THẬT để người TRÍ có thể CHỨNG NGHIỆM được.  Chứ không lý luận loanh quanh như một thứ “TRIẾT LÝ TÁNH KHÔNG”mơ hồ, KHÔNG CHÁNH, KHÔNG TÀ, KHÔNG ĐÚNG, KHÔNG SAI.  Nếu không ĐÚNG không SAI mà vẫn ĐẮC được ĐẠO thì sự thật NHÂN QUẢ và BÁT CHÁNH ĐẠOđều VÔ GIÁ TRỊ.   Tri Kiến kiểu đó chính là loại KIẾN HOANG VU, KIẾN TRÙ LÂM, KIẾN TRIỀN PHƯỢC, không thể CHẤM DỨT ĐAU KHỔ.

 

Cho nên các vị tu hành cần biết dứt khoát rằng phải tinh tấn thực hành TỨ NIỆM XỨ mới có thể có sự CHỨNG ĐẮC thực sự để hộ trì GIÁO PHÁP.  Mỗi khi không còn ai thực hành TỨ NIỆM XỨ thì GIÁO PHÁP sẽ bị SUY TÀN.   Đó là điều mà Phật đã khẳng định ở trong TƯƠNG ƯNG Bộ Kinh, phẩm Tương Ưng TỨ NIỆM XỨ:

 

--"Do nhân gì, do duyên gì, thưa Tôn giả Gotama, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp không được tồn tại lâu dài? Do nhân gì, do duyên gì, thưa Tôn giả Gotama, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài?"

--"Do bốn niệm xứ không được tu tập, không được làm cho sung mãn, này Bà-la-môn, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp không có tồn tại lâu dài. Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.”

Bởi sự quan trọng đó của pháp TỨ NIỆM XỨ mà  ở trong kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN của cả NAM TÔNG lẫn BẮC TÔNG, Đức Phật đã di giáo rằng, sau khi ngài diệt độ người tu hành phải lấy pháp TỨ NIỆM XỨ làm ĐUỐC để soi sáng đường tu hành của mình, không cần nương tựa một gì khác.  Nói như thế có nghĩa rằng với TỨ NIỆM XỨ ta sẽ thấy rõ các pháp khác mà không bị hiểu lầm như trường hợp hiểu lầm KINH BÁT NHÃ của các vị Thầy, Tổ Trung Hoa đã đưa ra ở trên.

 

26. Vậy nên, này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác. Này Ananda, thế nào là vị Tỷ-kheo hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác?

Này Ananda, ở đời, vị Tỷ-kheo, đối với thân quán thân, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời; đối với các cảm thọ... đối với tâm... đối với các pháp, quán pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời(đó chính là 4 NIỆM XỨ).  Này Ananda, như vậy vị Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác.

Này Ananda, những ai sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác, những vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi.

Phải thấy rằng TỨ NIỆM XỨ là pháp tối quan trọng cho người tu hành. Người tu hành mà không thực hành TỨ NIỆM XỨ thì kể như một đứa trẻ đã lạc ra khỏi Trú Xứ của cha mẹ mình, rất dễ bị (Ác Ma) bắt cóc.    Cho nêntrong những lời di giáo trên, Đức Phật đã xác định thêm:  Ai tinh tấn THỰC HÀNH TỨ NIỆM XỨ, thì được coi như là những vị TỐI THƯỢNG TỲ KHEO.  Ngoài ra, cũng chưa có một pháp nào như pháp TỨ NIỆM XỨ, mà  trong đó Phật đã khẳng định sự thành công trong một khoảng thời gian nhất định, cho những ai thực hành tinh tấn:

Này các Tỷ-kheo, vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.

Này các Tỷ-kheo, không cần gì đến bảy năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong sáu năm, trong năm năm, trong bốn năm, trong ba năm, trong hai năm, trong một năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.

Này các Tỷ-kheo, không cần gì đến một năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, không cần gì bảy tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong sáu tháng, trong năm tháng, trong bốn tháng, trong ba tháng, trong hai tháng, trong một tháng, trong nửa tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.

Này các Tỷ-kheo, không cần gì nửa tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hai là nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu Chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn Niệm xứ.

 

LỜI KẾT:

 

Trên đây là những lời chia xẻ chân thành của tôi về CHÁNH PHÁP TỨ NIỆM XỨ.  Pháp đã giúp cho tôi chứng nghiệm đượcnhiều điêu lợi lạc và phát triển trí tuệ để hiểu chính xác những lời dạy sâu sắc của Phật trong cả 2 hệ thống kinh tạng NAM TÔNG và BẮC TÔNG.  Muốn tu TỨ NIỆM XỨ một cách thành công, bạn nên tu với tinh thần TRÍ TUỆ, chỉ mong hiểu rõ cái BÃN NGÃ của mình, chứ đừng tu với tinh thần THAM ÁI, muốn đạt được cái gì hay cho BÃN NGÃ.  Khi tu với tinh thần TRÍ TUỆ bạn sẽ không hề chán nãn, trái lại còn thú vị, như một ông KHOA HỌC GIA say sưa nghiên cứu ở trong phòng thí nghiệm, quên ăn, quên ngủ, quên vợ, quên con.  Bằng tu theo tinh thần THAM ÁI bạn sẽ mãi mãi bị che lấp bởi VÔ MINH CHẤP NGÃ và sẽ không bao giờ giác ngộ được VÔ NGÃ.

 

Mong rằng sự chia xẻ này sẽ đem đến lợi ích cho nhiều Phật Tử. Nếu có điều gì tôi nói không đúng, xin cứ phê bình THẲNG THẮN.  Tôi sẽ hoan hĩ đón nhận với tấm lòng biết ơn. Đã tu theoĐẠO TRÍ TUỆ, ĐẠO SỰ THẬT, dĩ nhiên tôi phải TÔN KÍNH SỰ THẬT.  Không TÔN KÍNH SỰ THẬT thì làm sao có thể GIÁC NGỘ được.  Mọi câu hỏi, mọi góp ý, mọi phản biện xin email về GSNHUKHONG@GMAIL.COMTôi đang cố gắng thành lập môt HỘI PHẬT HỌC THỰC NGHIỆMrãi rác ở khắp nơi,để giúp nhau chứng nghiệm được những lời Phật dạy.  Nếucác bạn muốn tham gia thì xin cho biết, để tôi có thể chia xẻ thêm những PHÁP HỌCPHÁP HÀNH sâu sắc hơn trong sự tu tập.

 

Cầu mong tất cả Phật tử đều tinh tấn tu hành để đón mừng mùa VESAK đang về.  Hãy thệ nguyện tinh tấn hơn nữa từ đây cho đến sang năm, 2019, là ngày đến phiên nước VN ta tổ chức VESAK QUỐC TẾ.

 

Thân ái.

NHƯ KHÔNG

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/01/2023(Xem: 1666)
Dan Lusthaus là nhà văn và giáo sư người Mỹ chuyên về Phật Giáo. Ông chuyên nghiên cứu về Du-già-hành Tông (Yogācāra – hay còn gọi là Duy Thức Tông). Ông là tác giả của nhiều bài viết và sách. Ông dạy tại Đại Học University of California at Los Angeles (UCLA), Đại Học Tiểu Bang Florida, Đại Học Tiểu Bang Missouri, và vào mùa thu năm 2020 ông là Phó Khoa Nghiên Cứu về Nam Á tại Đại Học Harvard, Massachusetts. Tác phẩm “Buddhist Phenomenology” đã được xuất bản vào năm 2002.
22/12/2020(Xem: 5764)
Duy Thức Học là môn triết học và cũng là môn tâm học. Duy Thức Học được gọi là môn triết học vì môn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh thì rộng lớn bao la không bờn bến và nguyên lý lại nằm trong lãnh vực tánh không, không có hiện hữu và lại còn phức tạp. Duy Thức Học cũng gọi là môn tâm học vì môn học này đứng trên lập trường tâm linh để lý giải vạn pháp mà tâm linh lại sinh hoạt không hiển lộ, khó đưa lên trên bình diện thực tại như khoa học vật lý, nhưng không thể thiếu mặt nó trong mọi sinh hoạt của vạn hữu vũ trụ nhân sanh. Vì muốn định rõ giá trị sự cấu trúc đa dạng cũng như sự sinh hoạt của vạn hữu vũ trụ nhân sanh trên lãnh vực tâm linh, Duy Thức học thiết lập rất nhiều danh từ chuyên môn để minh giải tường tận mọi mặt từ sự tướng đến lý tánh, từ sai biệt cá thể đến tổ hợp tổng thể và từ cụ thể đơn giản đến chỗ thâm sâu bí ẩn. Trường hợp đây của Duy Thức Học so sánh không khác khoa học vật lý, khoa
06/05/2020(Xem: 4100)
Kính thưa quý đọc giả thân mến, tác phẩm Duy Thức Tam Thập Tụng của Bồ Tát Thế Thân đã được rất nhiều Hoà Thượng, Thượng Toạ Đại Đức Tăng Ni hữu học dịch giải ra Việt Ngữ và cũng đã trình bày qua nhiều lăng kính tư tưởng sáng tạo và nhờ đó nền văn học Duy Thức càng ngày trở nên càng phong phú.
12/05/2018(Xem: 5227)
Ai là người kế thừa sau khi Phật nhập diệt, Từ lời Phật dạy trong kinh, các ngươi lấy pháp làm nơi nương tựa, cho đến lúc Phật sắp nhập Niết-bàn biến thànhcâu: sau khi Như Lai nhập diệt các ngươi lấy Pháp và Luật làm thầy, cho đến Luật tạng thì lại đề cập: Sau khi Như Lainhập diệt các ngươi lấy giới luật làm thầy. Từ lấy Pháp làmnơi nương tựa, đến lấy ‘Pháp’ và ‘Luật’ làm nơi nương tựa,cuối cùng ‘lấy giới luật’ làm thầy rõ ràng là sự diễn biến kháphức tạp.
01/04/2018(Xem: 3561)
YÊU THƯƠNG VÀ TRÁCH NHIỆM THƯỜNG DÂN Nguyên tác: Compassion and Civic Responsibility Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Budapest 2010 Chuyển ngữ: Tuệ Uyển Thực tế, tôi rất vui mừng và cảm thấy vinh dự lớn để đón nhận giá trị này và cũng có cơ hội để nói với những thanh thiếu niên nam nữ. Tôi nghĩ tất cả trông rất rạng rở trong đôi mắt. Một học sinh rất sáng sủa cũng ở đây. (Chỉ vào đầu của ngài và đến một học sinh sói đầu) Tôi nghĩ hai chúng tôi đang tranh đua với nhau. (Cười) Xin lỗi nhe! Vậy thì những thanh thiếu niên này – các cháu là niềm hy vọng căn bản của chúng tôi. Tôi sinh năm 1935, ngay trước thế chiến thứ II; rồi thì chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam, sự chia cắt Ấn Độ và nội chiến ở Trung Hoa. Những cuộc chiến tiếp tục cho đến bây giờ, ở châu Phi và Trung Đông.
31/03/2018(Xem: 5074)
Những bài kệ của các thiền sư trong triều đại nhà Lý dưới đây thấy tưởng như là thơ, nhưng không phải hẳn là thơ. Cho nên, nó nên thơ. Nói theo thiền ngôn, thấy vậy chứ không phải vậy nên nó như vậy! Luận theo bạch thoại, thiền sư không làm thơ chỉ ra kệ. Nhưng kẻ nghe kệ tưởng nhầm là thơ ... mộng. Bất chợt, trong khoảng khắc, tâm tư bổng nhiên tịch, tĩnh, tỉnh, tịnh lặng, an nhiên, thanh tịnh nhất. Khi nhậm vận, quan sát những thăng trầm của thế sự trôi qua trước mắt mà trong lòng thanh thản, không còn bận tâm nữa. Khi mà cảnh vui buồn không còn chi phối tâm lòng, được mất không còn tham cầu, thành bại hết hãi sợ. Khi mà quán thấu sinh tử vô thường và khi mà chỉ chiếu kiến nhưng không sở trụ vào sự biến thiên tùy duyên của vạn hữu vô thường đó. Ấy là lúc lấp ló, nhi sinh tánh bất sinh bất diệt của chân tâm.
15/12/2017(Xem: 120836)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
17/10/2017(Xem: 6278)
Niềm vui của việc gặp gở những người ta yêu, nổi buồn của việc mất mát người thân, sự phong phú của của những giấc mơ đầy sức sống, sự an bình của những bước chân qua khu vườn vào một ngày xuân, sự hoàn toàn an định trong một thể trạng thiền tập sâu xa – những thứ này và những thứ nọ giống như chúng cấu thành một thực tại kinh nghiệm của chúng ta về [tâm] thức. Bất chấp nội dung của bất cứ kinh nghiệm nào trong ấy là gì, thì không ai trong tâm nhạy cảm của họ có thể nghi ngờ về thực tại ấy.
06/09/2017(Xem: 5848)
Hạt hồ đào (walnut) ăn rất ngon nhưng cái vỏ của nó rất cứng. Ở Tây phương người ta có chế ra một cái kẹp sắt, chỉ cần bóp mạnh cái kẹp thì vỏ hồ đào vỡ và ta có thể thưởng thức ngay hương vị thơm ngọt và bùi của hồ đào. Có những kẻ trong chúng ta đã từng bị lúng túng trong khi đọc những bài kệ Trung Quán Luận. Nhưng trong hai mùa Đông năm 2001-2002 và 2002-2003, thầy của chúng tôi là thiền sư Nhất Hạnh đã giảng giải cho chúng tôi nghe và hiểu được những bài kệ ấy một cách dễ dàng và thích thú. Sách này ghi lại những bài giảng của thầy về sáu phẩm căn bản của Trung Quán Luận, các phẩm Nhân Duyên, Khứ Lai, Tứ Đế, Hữu Vô, Nhiên Khả Nhiên và Niết Bàn
14/05/2017(Xem: 6517)
Duy thức nhị thập luận Tạo luận: Bồ Tát Thế Thân Hán dịch: Pháp Sư Huyền Trang Việt dịch: Quảng Minh dịch - Duy thức nhị thập luận (唯識二十論, विम्शतिकाविज्ञप्तिमात्रतासिद्धि, Ñi-śu-paḥi ḥgrel-pa, Viṃśatikā-vijñapti-mātratā-siddhi, Twenty Verses on Consciousness Only) có 1 quyển, do bồ tát Thế Thân (世親, Vasubandhu, Dbyig-gñen, 315-395) soạn, ngài Huyền trang (玄奘) dịch vào đời Đường; cũng gọi là Nhị thập duy thức luận (二十唯識論), Tồi phá tà sơn luận (摧破邪山論), được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590. Luận này dẫn dụng câu “Tam giới duy tâm” (ba cõi chỉ do tâm) trong kinh Thập địa để luận chứng ngoại cảnh do thức hiển hiện, nói rõ nghĩa “Duy thức vô cảnh” (chỉ do thức không có cảnh) để bác bỏ sự thiên chấp của Tiểu thừa và ngoại đạo. Duy thức nhị thập luận chủ yếu khai thị về pháp vô ngã, không phải về nhân vô ngã. Đây là một trong 11 bộ luận của tông Pháp tướng, một trong 10 chi luận của Du già. Luận này được trích dẫn trong Thành duy thức luận như là một luận điểm trọng yếu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567