Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh Tiểu Không

11/10/201815:56(Xem: 3365)
Kinh Tiểu Không

KINH

TIỂU KHÔNG
(Cùlasunnata sutta)

Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

GIẢI NGHĨA

 

     Để cho dễ hiểu, chúng ta dùng chữ nghiêng là lời Phật nói, chữ thẳng đứng để giải thích, chúng ta cùng theo dõi dưới đây:

 

GIẢI NGHĨA KINH:

Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi (Xá-vệ), tại Pubbarama (Đông Viên), lâu đài của Migaramatu (Lộc Mẫu). Rồi Tôn giả Ananda, vào buổi chiều, từ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên.

    Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn

-- Một thời, bạch Thế TônThế Tôn trú giữa các Sakka (Thích-ca). Nagaraka là tên một thị trấn của các Sakka. Tại đấy, bạch Thế Tôn, con được nghe trước mặt Thế Tôn, con được ghi nhớ trước mặt (Thế Tôn) như sau: "Này Ananda, Ta nhờ an trú không, nên nay an trú rất nhiều". Phải chăng, bạch Thế Tôn, điều con đã nghe là nghe đúng, ghi nhớ đúng, tác ý (chú tâm) đúng, thọ trì (tiếp nhận và giữ lấy) đúng?

     Đức Phật đáp:

-- Thật vậy, này Ananda, điều ông đã nghe là nghe đúng, ghi nhớ đúng, tác ý đúng, thọ trì đúng. Thuở xưa và nay, này Ananda, Ta nhờ an trú (an định tâm thức không bị dao động) không, nên nay an trú rất nhiều. 

 

     Chúng ta thấy mở đầu Kinh nói đến những sự thành tựu về việc nói Kinh gồm: Sự tin tưởng (Tín), sự nghe thấy (Văn), thời gian (Thời), vị thuyết giảng (Chủ thể) là Đức Phật. Địa điểm tại lâu đài của Lộc Mẫu (Migaramatu) thuộc thành Xá Vệ (Nơi giảng), nhân việc trả lời câu hỏi của Tôn giả A Nan Đà (Nguyên nhân giảng) và Tôn giả A Nan Đà nghe giảng (Người nghe pháp); tất cả biểu tượng đầy đủ nhân duyên cho buổi nói Kinh.

     Đoạn Kinh trên đại ý Tôn giả A Nan Đà hỏi Phật rằng có phải Ngài đã nói Ngài an định chẳng dao động tâm thức (an trú) Không và thường xuyên an định chẳng dao động tâm thức? Đức Phật trả lời là điều Tôn giả A Nan Đà chú tâm (tác ý) nghe nhận gìn giữ (thọ trì) ghi nhớ là đúng, Ngài do an định chẳng dao động tâm thức “Không”, nên lúc nào Ngài cũng an định tâm thức “Không” rất nhiều.

1. LÂM TƯỞNG:

 

     Đức Phật bảo:

- Ví như lâu đài Migaramatu (Lộc Mẫu) này không có voi, bò, ngựa, ngựa cái, không có vàng và bạc, không có đàn bà, đàn ông tụ hội, và chỉ có một cái không phải không, tức là sự nhất trí (ekattam) do duyên chúng Tỷ-kheo.

 

     Nghĩa là thí dụ như trong lâu đài của Lộc Mẫu (Migaramatu) không có các loại voi bò ngựa, không có vàng bạc châu báu, không có người dân đàn ông đàn bà, mà chỉ có một cái không phải không, đó là duy nhất (sự nhất trí) có một nhóm chư Tăng (duyên chúng Tỷ kheo) mà thôi.

 

     Ở đây còn có ý nghĩa rằng Đức Phật lấy ngay khung cảnh của lâu đài Lộc Mẫu ra làm tiêu biểu rằng hành giả phải tư duy trừ bỏ các tạp loạn của tâm mình như gây phiền hà huyên náo của loài vật; lià bỏ tính tham tiền bạc của cải và dứt bỏ tính tham dục của con người v.v..., chỉ khi dừng được các loại tham muốn này thì tâm mới dễ an định.

 

     Ngài giảng:

- Cũng vậy, này Ananda, Tỷ-kheo không tác ý thôn tưởng, không tác ý nhân tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí, do duyên lâm tưởng. Tâm của vị ấy được thích thú hân hoan, an trú, hướng đến lâm tưởng.

 

     Nghĩa là, cũng như thế, vị Tăng không chú tâm (tác ý) nghĩ nhớ đến xóm làng (thôn tưởng), không chú tâm nghĩ nhớ đến người dân (nhân tưởng), chỉ chú tâm duy nhất (tác ý sự nhất trí) nghĩ nhớ đến khu rừng (lâm tưởng) mà thôi. Vị ấy vui thích hướng đến khu rừng với tâm thức an định không dao động (an trú).

 

     Ở đây còn có ý nghĩa rằng nếu người tu sống chung trong “xóm làng”, thì phải chung đụng, gặp gỡ giao tiếp sinh hoạt hàng ngày với “người dân”, sinh ra việc nọ chuyện kia, gây ra phức tạp, khiến cho thời gian hành trì giáo pháp bị chia xẻ, làm cho việc tu hành không mang lại kết qủa. Đó là ý nghĩa Phật nói không chú tâm nghĩ đến “xóm làng” (không tác ý thôn tưởng) và không chú tâm nghĩ đến “người dân” (không tác ý nhân tưởng).

 

     Người tu chỉ nên vui thích ở những chỗ thanh vắng nơi rừng sâu yên tĩnh, vì ở đấy không có sự chung đụng, không có sự giao tiếp sinh hoạt ồn náo, khiến được dễ dàng, thuận lợi cho việc tiến tu. Đó là ý nghĩa Phật nói chỉ vui thích chú tâm duy nhất nghĩ đến “khu rừng” (Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến lâm tưởng).

 

Vị ấy tuệ tri như sau: "Các ưu phiền do duyên thôn tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên nhân tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên lâm tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có thôn tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có nhân tưởng". Và chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí (ekattam) do duyên lâm tưởng".

 

     Nghĩa là vị ấy biết rõ (tuệ tri) rằng các lo lắng buồn rầu (ưu phiền) do nghĩ nhớ “xóm làng” không có, các lo lắng buồn rầu do nghĩ nhớ “người dân” không có; chỉ có một lo lắng buồn rầu không phải không có, đó là chỉ duy nhất do nghĩ nhớ đến “khu rừng”. Vị ấy biết rõ rằng loại nghĩ nhớ này không có “xóm làng”, không có “người dân”.

 

Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây, vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có". Như vậy, này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnhkhông tánh.

 

     Nghĩa là cái gì không nghĩ nhớ đến (không có mặt) thì vị ấy coi là không có, cái gì nghĩ nhớ đến (có mặt) thì vị ấy biết là “cái này có, cái kia có”. Như vậy những cái nghĩ nhớ đến (cái có) là thật có, không dính mắc chấp trước, không tán loạn, được thanh tịnh, để thâm nhập chân thật (không điên đảo), sự thực là như vậy, do hành trì thiền quán như thế lâu dài được nhu nhuyễn hoàn toàn sẽ đưa tới thanh tịnh đạt bản thể các vật là không Tự Tính, là biến đổi không cố định, là Tính Không (Không Tánh). Tại sao?

 

     Vì Tính Không là thể tính của tất cả các pháp, mà thể tính của tất cả các pháp là Không, do duyên hợp nên mới có tất cả các pháp. Thí dụ một pháp như cái xe chẳng hạn, người đời cho là Có, hư không trống rỗng thì cho là Không, nhưng sự thực cả cái xe và hư không đều không ngoài Tính Không.

 

Chứng minh: Phật dạy: “Tất cả các pháp không tự có, mà do duyên hợp mới thành” Nghĩa là do duyên hợp mới có, nên không một pháp nào tự có nguyên thể của nó, mà đều từ cái không, do duyên hợp thành có, đây gọi là Tính Không. Như ban đầu không có cái xe, phải có bao nhiêu bộ phận khác nhau được ráp nối lại mới thành cái xe, đây là duyên hợp; khi cái xe hư hỏng hay bị tai nạn người ta tháo ra từng mảnh thì chẳng còn là cái xe nữa.

 

     Như thế, cái xe là không thật có, vì nếu thật có thì nó phải là có vĩnh viễn, do đó nó chỉ là tạm có, giả có, là hư dối mà thôi. Hơn nữa, nếu trong xe không có khoảng trống thì không có chỗ ngồi, không có khoảng trống thì xe không thể di chuyển được, như vậy thật sự cần phải có Tính Không mới được gọi là cái xe. Tất cả các pháp trong vũ trụ cũng đều tương tự như thế cả.

 

     Ở đây, vị ấy đã tu hành vượt qua được các hàng rào về cái tâm dính mắc tạp loạn rong ruổi theo ngoại cảnh, nên “Không” là không có các việc bên ngoài trong tâm, thì mức độ định đạt được bậc thiền thứ nhất.

 

     Ngài giảng tiếp:

 

2. ĐỊA TƯỞNG:

 

- Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không tác ý nhân tưởng, không tác ý lâm tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí do duyên địa tưởng. Tâm vị ấy thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến địa tưởng. Nghĩa là vị Tăng không chú tâm nghĩ nhớ đến “người dân”, không chú tâm nghĩ nhớ đến “khu rừng”, mà chỉ chú tâm duy nhất nghĩ nhớ đến “dải đất” (địa tưởng) mà thôi. Vị ấy vui thích an định tâm thức nghĩ nhớ đến “dải đất”.

 

Ví như, này Ananda, tấm da con bò được căng thẳng trên một trăm cọc gỗ, đặc tánh tấm da được đoạn trừ (vigatavasika); cũng vậy, này Ananda, Tỷ-kheo, không tác ý đối với tất cả vật gì trên đất này: đất khô và vùng lầy, sông và vùng lầy, các cây có thân và có gai, núi và đất bằng, vị ấy tác ý snhất trí do duyên địa tưởng.

     Nghĩa là ví như căng da con bò cho bằng phẳng bởi vô số cọc thì không còn đặc tính của da theo hình thù con bò; ở đây vị ấy không chú tâm nghĩ nhớ đến các chi tiết trên đất như đất khô hay lầy, cao hay thấp, có cây hay cỏ, là sông hồ hay núi rừng v.v… mà vị ấy chỉ chú tâm duy nhất nghĩ nhớ đến “dải đất” bng phẳng mà thôi.

 

Vị ấy tuệ tri như sau: "Các ưu phiền do duyên nhân tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên lâm tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, sự nhất trí do duyên địa tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có nhân tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có lâm tưởng, và chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí do duyên địa tưởng".

     Nghĩa là vị ấy biết rõ (tuệ tri) rằng các lo lắng buồn rầu về “người dân” không nghĩ nhớ đến (không có mặt ở đây), các lo lắng buồn rầu về “khu rừng” cũng không nghĩ nhớ đến, mà chỉ có một cái lo lắng buồn rầu không phải là không có, đó là duy nhất (nhất trí) nghĩ nhớ đến “dải đất” bng phẳng mà thôi.

     Đến đây thì các dính mắc về người dân và khu rừng đã dẹp sạch sẽ, nên không còn nghĩ nhớ đến các thứ này nữa.

 

Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có". Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnhkhông tánh.

     Nghĩa là cái gì không nghĩ nhớ đến (không có mặt), vị ấy coi là không có, nhưng đối với cái nghĩ nhớ đến (cái còn lại), vị ấy biết rõ rằng “Có cái này, có cái kia”, là thật có, không dính mắc chấp trước, không tán loạn, được thanh tịnh, để thâm nhập chân thật (không điên đảo), sự thực là như vậy, do hành trì thiền quán như thế lâu dài được nhu nhuyễn hoàn toàn sẽ đưa tới thanh tịnh đạt bản thể các vật là không Tự Tính, là biến đổi không cố định, là Tính Không (không Tánh).

3. KHÔNG VÔ BIÊN

    XỨ TƯỞNG

 

- Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo không tác ý lâm tưởng, không tác ý địa tưởng, tác ý sự nhất trí do duyên Không vô biên xứ. Tâm vị ấy được thích thúhân hoanan trú, hướng đến Không vô biên xứ.

 

     Nghĩa là vị ấy không chú tâm nghĩ nhđến “khu rừng”, không chú tâm nghĩ nhớ đến “dải đất”, chỉ chú tâm duy nhất đến “Chỗ Không không tận cùng” (Không vô biên xứ) mà thôi, tức là do muốn tiêu diệt chướng ngại của thân nên hướng đến Không. Do đó vị ấy vui thích an định hướng đến “Chỗ Không không tận cùng”.

 

Vị ấy tuệ tri như sau: "Các ưu phiền, do duyên lâm tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên địa tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên Không vô biên xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có lâm tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có địa tưởng, và chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí do duyên Không vô biên xứ tưởng".

 

     Nghĩa là vị ấy biết rõ rằng các lo buồn do nghĩ nhớ “khu rừng” không có, các lo buồn do nghĩ nhớ “dải đất” cũng không có. Chỉ có một cái lo buồn không phải là không có, đó là tâm nghĩ nhớ đến “Chỗ Không không tận cùng” (Không vô biên xứ).

 

Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị ấy biết: "Cái kia có, cái này có". Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnhkhông tánh.

 

     Nghĩa là cái gì không nghĩ nhớ đến (không có mặt), vị ấy coi là không có, nhưng đối với cái nghĩ nhớ đến (cái còn lại), vị ấy biết rõ rằng “Có cái này, có cái kia”, là thật có, không dính mắc chấp trước, không tán loạn, được thanh tịnh, để thâm nhập chân thật (không điên đảo), sự thực là như vậy, do hành trì thiền quán như thế được nhu nhuyễn hoàn toàn sẽ đưa tới thanh tịnh đạt bản thể các vật là không Tự Tính, là biến đổi không cố định, là Tính Không (Không Tánh).

 

4. THỨC VÔ BIÊN XỨ TƯỞNG:

 

- Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo không tác ý địa tưởng, không tác ý Không vô biên xứ tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí do duyên Thức vô biên xứ. Tâm vị ấy được thích thúhân hoanan trú, hướng đến Thức vô biên xứ.

 

     Nghĩa là vị ấy không chú tâm nghĩ nhớ đến dải đất, không chú tâm nghĩ nhớ đến “Chỗ Không không tận cùng”, mà chỉ chú tâm nghĩ nhớ đến “Chỗ Nhận biết không tận cùng” (Thức vô biên xứ); tức là sắc thân và sáu thức (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý thức) không còn chướng ngại. Do ý thức sắc và thân đều là giả có, là không, nên Sáu Căn không còn dính mắc Sáu Trần, như Nhãn thức không chạy theo khi mắt bị hình ảnh dung mạo quyến rũ, Nhĩ thức không dính mắc khi tai nghe bị tiếng lôi kéo v.v…. Chỉ còn A Lại Da thức (Tạng thức hay Thức thứ tám) và một phần Mạt Na thức (Thức thứ bảy chấp cái ta) nhỏ nhiệm mà thôi. Vị ấy vui thích an định tâm thức hướng đến “Chỗ Không không tận cùng”.

 

Vị ấy tuệ tri như sau: "Các ưu phiền do duyên địa tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên Không vô biên xứ tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền phiền này, tức là sự nhất trí do duyên Thức vô biên xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có địa tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Không vô biên xứ tưởng, và chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí do duyên Thức vô biên xứ tưởng".

 

     Nghĩa là vị ấy biết rõ rằng các lo buồn về “dải đất” không được nghĩ nhớ đến (không có mặt ở đây), các lo buồn về “Chỗ Không không tận cùng” cũng không được nghĩ đến (không có mặt ở đây), và chỉ có một cái lo buồn không phải không có, đó là duy nhất nghĩ nhớ đến “Chỗ Nhận biết không tận cùng” (Thức vô biên xứ).

 

Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có". Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnhkhông tánh.

 

     Nghĩa là cái gì không nghĩ đến (không có mặt), vị ấy coi là không có, nhưng đối với cái nghĩ đến (cái còn lại), vị ấy biết rõ rằng “Có cái này, có cái kia”, là thật có, không dính mắc chấp trước, không tán loạn, được thanh tịnh, để thâm nhập chân thật (không điên đảo), sự thực là như vậy, do hành trì thiền quán như thế được nhu nhuyễn hoàn toàn sẽ đưa tới thanh tịnh đạt bản thể các vật là không Tự Tính, là biến đổi không cố định, là Tính Không (Không Tánh).

 

5. VÔ SỞ HỮU TƯỞNG:

 

- Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo không tác ý Không vô biên xứ tưởng, không tác ý Thức vô biên xứ tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí do duyên Vô sở hữu xứ tưởng. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoanan trú, hướng đến Vô sở hữu xứ.

     Nghĩa là vị ấy không chú tâm nghĩ nhớ đến “Chỗ Không không tận cùng”, không chú tâm nghĩ nhớ đến “Chỗ Nhận biết không tận cùng”, chỉ một lòng chú tâm nghĩ nhớ đến “Chỗ Trống không” (Vô sở hữu xứ) mà thôi; tức là sắc và không đã diệt sạch, tâm thức đã dứt hết, được tịch lặng. Vị ấy vui thích an định hướng đến “Chỗ Trống không”.

 

Vị ấy tuệ tri như sau: "Các ưu phiền do duyên Không vô biên xứ tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên Thức vô biên xứ tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên Vô sở hữu xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Không vô biên xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Thức vô biên xứ tưởng, và chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí do duyên Vô sở hữu xứ tưởng".

 

     Nghĩa là vị ấy biết rõ rằng các lo buồn về “Chỗ Không không tận cùng” không được nghĩ nhớ đến (không có), các lo buồn về “Chỗ Nhận biết không tận cùng” cũng không được nghĩ nhớ đến (không có), và chỉ có một lo buồn không phải là không có, đó là duy nhất nghĩ nhớ đến “Chỗ Trống không” (Vô sở hữu xứ tưởng).

 

Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây, vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có". Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnhkhông tánh.

 

     Nghĩa là cái gì không nghĩ đến (không có mặt), vị ấy coi như không có, nhưng đối với cái nghĩ đến (cái còn lại), vị ấy biết rõ rằng “Có cái này, có cái kia”, là thật có, không dính mắc chấp trước, không tán loạn, được thanh tịnh, để thâm nhập chân thật (không điên đảo), sự thực là như vậy, do hành trì thiền quán như thế được nhu nhuyễn hoàn toàn sẽ đưa tới thanh tịnh đạt bản thể các vật là không Tự Tính, là biến đổi không cố định, là Tính Không (Không Tánh)

 

 

6. PHI TƯỞNG

PHI PHI TƯỞNG:

 

- Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo không tác ý Thức vô biên xứ tưởng, không tác ý Vô sở hữu xứ tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí do duyên Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Tâm vị ấy được thích thúhân hoanan trú, hướng đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ.  

 

     Nghĩa là vị ấy không chú tâm nhớ đến “Chỗ Nhận biết không tận cùng”, không chú tâm nhớ đến “Chỗ Trống không”, mà chỉ một lòng chú tâm đến “Chỗ, ở đó có không nghĩ nhớ chẳng không nghĩ nhớ” (Phi tưởng phi phi tưởng xứ) mà thôi; tức là dùng tính tịch tĩnh của tính thức để dứt trừ sự suy gẫm, thành ra ở nơi vô tận lại tỏ bày tính tận, không tưởng lại bày có tưởng, đây là xét cái không nhưng chẳng tột lý không. Vị ấy vui thích an định tâm hướng đến “Chỗ, ở đó Không có nghĩ nhớ chẳng không nghĩ nhớ”.

 

Vị ấy tuệ tri như sau: "Các ưu phiền do duyên Thức vô biên xứ tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên Vô sở hữu xứ tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng”. Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Thức vô biên xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Vô sở hữu xứ tưởng, và chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí do duyên Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng”.

 

     Nghĩa là vị ấy biết rõ rằng các lo buồn về “Chỗ Nhận biết không tận cùng” không có, các lo buồn về “Chỗ Trống không” cũng không có. Và chỉ có một lo buồn không phải là không có, đó là duy nhất nghĩ đến “Chỗ, ở đó có không nghĩ nhớ chẳng không nghĩ nhớ” (Phi tưởng phi phi tưởng xứ).

 

Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây, vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có". Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.

 

     Nghĩa là cái gì không nghĩ đến (không có mặt), vị ấy coi như không có, nhưng đối với cái nghĩ đến (cái còn lại), vị ấy am hiểu rằng “Có cái này, có cái kia”, là thật có, không dính mắc chấp trước, không tán loạn, được thanh tịnh, để thâm nhập chân thật (không điên đảo), sự thực là như vậy, do hành trì thiền quán như thế được nhu nhuyễn hoàn toàn sẽ đưa tới thanh tịnh đạt bản thể các vật là không Tự Tính, là biến đổi không cố định, là Tính Không (Không Tánh).

 

Đức Phật nói: “Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo không tác ý Vô sở hữu xứ tưởng, không có tác ý Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tác ý sự nhất trí do duyên Vô tướng tâm định Tâm; vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Vô tướng tâm định”

 

     Nghĩa là vị ấy không chú tâm nghĩ nhớ đến “Chỗ Trống rỗng” (Vô sở Hữu Xứ), không nghĩ đến “Chỗ, ở đó có không nghĩ chẳng không nghĩ” (Phi Tưởng Phi Phi Tưởng). Chỉ chú tâm duy nhất nghĩ đến “Tâm không hình dạng dung mạo” (Vô tướng tâm định), tức là không chấp thật, cảnh giới do sáu căn tiếp xúc sáu trần, ví như không chấp thật khi thấy hình ảnh đẹp hay xấu, không chấp thật khi nghe tiếng khen hay chê v.v…. Vị ấy vui thích an định hướng đến “Tâm không hình dạng dung mạo”.

 

     Ở đây có sự khác biệt về từ ngữ: Kinh Tiểu Không Nam Truyền (Pali) này nói “Vô tướng tâm định”, còn Kinh Tiểu Không Bắc truyền (Sankrist) nói “Vô tưởng tâm định”, nhưng xét về ý thì không sai biệt, vì “Vô tướng” tức là không có hình tướng dung mạo các pháp trong tâm, tức là trong tâm trống rỗng. Còn “Vô tưởng” thì không nghĩ nhớ đến các pháp, mà không nghĩ nhớ các pháp thì trong tâm cũng trống rỗng, do không có hình tướng dung mạo các pháp vậy.

 

Vị ấy tuệ tri như sau: "Các ưu phiền do duyên Vô sở hữu xứ tưởng không có mặt ở đây, các ưu phiền do duyên Phi tưởng phi phi tưởng xứ không có mặt ở đây; và chỉ có một ưu phiền này, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này".

 

     Nghĩa là vị ấy biết rõ các lo buồn về “Chỗ Trống rỗng” không được nghĩ đến (không có mặt ở đây), các lo buồn về “Chỗ, ở đó có không nghĩ chẳng không nghĩ” không được nghĩ đến; chỉ có một lo buồn về Sáu nhập là Sắc đối với Mắt, Thanh đối với Tai, Hương đối với Mũi, Vị đối với Lưỡi, Xúc đối với Thân thể, Pháp đối với Ý, hiện diện mà thôi. Tại sao lại lo buồn?

 

     Vì khi Mắt thấy hình dạng dung mạo (Sắc), Nhãn thức liền sinh khởi chấp thật đẹp yêu, xấu ghét, rồi nghĩ cách chiếm đoạt hoặc tránh né, nên gây ra buồn phiền. Khi Tai nghe lời nói âm thanh, liền sinh khởi chấp thật là hay thì ưa, dở thì chê, rồi tìm cách cho có hoặc dứt bỏ, nên tạo ra lo buồn. Đối với Mũi ngửi Mùi, Lưỡi nếm Vị, Thân tiếp cận (Xúc), Ý nhớ nghĩ hình ảnh âm vang cảm giác (Pháp) cũng gây ra lo buồn tương tự như vậy cả.

 

Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Vô sở hữu xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng; và chỉ có một cái này không phải không, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này".

 

     Nghĩa là vị ấy biết rõ loại này không có nghĩ đến “Chỗ Trống không” (Vô Sở Hữu Xứ Tưởng). Vị ấy biết rõ loại này không có nghĩ đến “Chỗ, ở đó có không nghĩ chẳng không nghĩ” (Phi Tưởng Phi Phi Tưởng); và chỉ có một cái không phải không có, đó là “Sáu nhập của Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp đối với Sáu Căn là Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, và Ý” (Sáu nhập duyên mạng).

 

Cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có; nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có". Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.

 

     Nghĩa là cái gì không nghĩ đến (không có mặt ở đây) coi là không có, nhưng đối với cái nghĩ đến (cái còn lại), vị ấy biết rõ “cái này có, cái kia có” là thật có, không dính mắc chấp trước, không tán loạn, được thanh tịnh, để thâm nhập chân thật (không điên đảo), sự thực là như vậy, do hành trì thiền quán như thế được nhu nhuyễn hoàn toàn sẽ đưa tới thanh tịnh đạt bản thể các vật là không Tự Tính, là biến đổi không cố định, là Tính Không (Không Tánh).

 

     Không Tính đây là đối với hai loại nghĩ, đó là “Chỗ Trống không” (Vô sở hữu xứ tưởng) và “Chỗ, ở đó không nghĩ chẳng không nghĩ” (Phi tưởng phi phi tưởng), chứ không phải là đối với “Sáu nhập của Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp đối với Sáu Căn là Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, và Ý” (Sáu nhập duyên mạng).  Vì vậy Đức Phật nói cái “vô tướng tâm định” này là hữu vi ở dưới đây.

 

7. VÔ TƯỚNG TÂM ĐỊNH

 

- Lại nữa, này Ananda, vị Tỷ-kheo không tác ý Vô sở hữu xứ tưởng, không tác ý Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng, tác ý sự nhứt trí do duyên Vô tướng tâm định. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Vô tướng tâm định.

 

     Nghĩa là vị Tăng không chú tâm nghĩ đến “Chỗ Trống không”, không chú tâm nghĩ đến “Chỗ, ở đó có không nghĩ chẳng không nghĩ”, chỉ chú ý duy nhất đến “Tâm không hình dạng dung mạo trong lặng” (Vô tướng tâm định); vị ấy không chấp thật cảnh giới do Sáu Căn tiếp xúc Sáu Trần. Vị ấy vui thích an định hướng đến “Tâm không hình dạng dung mạo trong lặng” như sau:

 

- Khi Mắt thấy hình dạng dung mạo (Sắc) không sinh khởi đẹp hay xấu, không yêu thích hay chê bai, mà biết hình dạng dung mạo là biến đổi không cố định, là giả có, ảo huyển, không thật, là Không.

 

- Đối với Tai khi nghe những tiếng ca lời nói (Thanh) không sinh khởi ý hay hay dở, không khen hay chê, mà biết tiếng ca hoặc lời nói này là biến đổi không cố định, là giả có, ảo huyển, không thật, là Không.  

 

- Khi Mũi ngửi Mùi thơm (Hương), Lưỡi nếm thức ăn uống (Vị), Thân tiếp cận (Xúc), không có cảm giác ưa thích hay ghét bỏ, mà biết mùi hương này, thức ăn uống này, sự xúc chạm này đều là biến đổi không cố định, là giả có, ảo huyển, không thật, là Không.   

 

- Ý không nghĩ nhớ các hình ảnh dung mạo, âm vang cảm giác trong tâm thức (Pháp), mà biết các hình ảnh dung mạo, âm vang cảm giác trong tâm thức này đều là biến đổi không cố định, là giả có, ảo huyển, không thật, là Không.

 

Vị ấy tuệ tri như sau: "Vô tướng tâm định này thuộc hữu vi, do tâm tự tạo nên. Phàm cái gì thuộc hữu vi, do tâm tự tạo nên, cái ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt"

 

     Nghĩa là vị ấy biết rõ như sau: Tâm định không hình dạng dung mạo này thuộc dính mắc sinh lo buồn (hữu vi), do tâm tự tạo nên; vì có cái không hình dạng dung mạo thì đối đãi với cái có hình dạng dung mạo, tức là hai (nhị biên) thuộc hữu vi, Hữu vi thì vô thường chịu sự đoạn diệt.

 

Do vị ấy tuệ tri như vậy, thấy như vậy, tâm được giải thoát khỏi dục lậu, tâm được giải thoát khỏi hữu lậu, tâm được giải thoát khỏi vô minh lậu. Trong sự giải thoát, là sự hiểu biết (nana) rằng đã được giải thoát.

 

     Nghĩa là vị ấy biết rõ như vậy, thấy như vậy, thì xa lià dính mắc tham dục (dục lậu), tâm được thoát khỏi lo buồn; xa lià các thói quen của phàm phu (hữu lậu), tâm được giải thoát khỏi ô nhiễm sự tồn tại; xa lià các si mê ác kiến (vô minh lậu), tâm được thoát khỏi ô nhiễm vô minh. Trong sự giải thoát biết rõ rằng đã được giải thoát.

 

Vị ấy tuệ tri: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn phải trở lại trạng thái này nữa"

 

     Nghĩa “sinh đã tận” là không còn nghĩ đến “Chỗ Trống không” (Vô Sở Hữu tưởng), không còn nghĩ đến “Chỗ, ở đó có không nghĩ chẳng không nghĩ” (Phi Tưởng Phi Phi Tưởng); xa lià tham dục để đạt thanh tịnh (Phạm hạnh) đã làm xong (đã thành), không còn trở lại trạng thái này nữa, tức là đã làm xong việc dứt bỏ nghĩ đến “Chỗ Trống không” (Vô Sở Hữu tưởng) và đã làm xong việc dứt bỏ nghĩ đến “Chỗ, ở đó có không nghĩ chẳng không nghĩ” (Phi Tưởng Phi Phi Tưởng), chứ không phải đã làm xong những cái khác đâu, tức là không phải sự Sinh Tử của hành giả hết đâu.

 

Vị ấy tuệ tri: "Các ưu phiền do duyên dục lậu không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên hữu lậu không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên vô minh lậu không có mặt ở đây”

 

     Nghĩa là các lo buồn do dính mắc nghĩ nhớ những thứ ham thích muốn có (duyên dục lậu), như tham tài sản, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ; hoặc đắm nhiễm Sắc dục, Thanh dục, Hương dục, Vị dục, Xúc dục, không có mặt; các lo buồn do thói quen của phàm phu (duyên hữu lậu) như nghiện hút thuốc, ham đánh cờ bạc… không có mặt; các lo buồn do các si mê ác kiến (duyên vô minh lậu), như chấp ngã kiến, tà kiến, biên kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ, cũng không có mặt ở đây.

 

“Và chỉ ở một ưu phiền này, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này" Ở đây ý Phật là: chỉ có lo buồn do Sáu nhập là Sắc, Thanh, Hương, Vi, Xúc, Pháp đến nhập vào Sáu Căn là Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý, tức nhập vào Thân Tâm hành giả.

 

     Như Mắt thấy hình dạng dung mạo (Sắc) thì sinh khởi đẹp hay xấu, đẹp thì yêu thích muốn có, muốn gần gũi, xấu thì chê bai, liền muốn xa lánh. Vì muốn có, muốn gần gũi nên làm đủ mọi cách để có được, do đó gây phiền phức cho mình và người; nếu chê bai thì tìm mọi cách để xa lánh, do đó cũng gây phiền phức cho mình và cho người. Đối với Tai khi nghe những tiếng ca lời nói (Thanh) thì ý sinh khởi hay hay dở, khi nghe thấy hay thì khen, thấy dở thì chê, gây nên phiền hà cho mình và cho người. Mũi ngửi Mùi (Hương), Lưỡi nếm (Vị), Thân tiếp cận (Xúc), Ý nghĩ nhớ (Pháp) cũng đều đưa đến lo buồn cả.

 

Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có dục lậu” Nghĩa là vị ấy biết rõ không có tham dục ô nhiễm (dục lâu) về loại nghĩ đến “Chỗ Trống không” và “Chỗ, ở đó có không nghĩ chẳng không nghĩ” (Tưởng Vô Sở Hữu, và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng).

 

Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có hữu lậu". Là vị ấy biết rõ không có các thói quen của phàm phu (hữu lậu) về loại nghĩ đến “Chỗ Trống không” và “Chỗ, ở đó có không nghĩ chẳng không nghĩ” (Vô Sở Hữu Tưởng, và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng).

 

Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có vô minh lậu” Là vị ấy biết rõ không có các si mê ác kiến (vô minh lậu) về loại nghĩ đến “Chỗ Trống không” và “Chỗ, ở đó có không nghĩ chẳng không nghĩ” (Vô Sở Hữu Tưởng, và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng).

 

“Và chỉ có một cái này không phải không, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này". Nghĩa là chỉ có một cái không phải là không có, đó là Sáu Trần nhập vào Sáu Căn của Thân Tâm (sáu nhập duyên mạng)

 

“Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có”. Nghĩa là cái gì không nghĩ đến (không có mặt ở đây), vị ấy coi là không có, tức là cái gì không có ở trong tâm hành giả cái ấy là không có.

 

Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị ấy biết: "Cái kia có, cái này có". Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, Không tánh.”

 

     Nghĩa là đối với cái nghĩ đến (cái còn lại), vị ấy biết rõ “cái này có, cái kia có” là thật có, không dính mắc chấp trước, không tán loạn, được thanh tịnh, để thâm nhập chân thật (không điên đảo), sự thực là như vậy, do hành trì thiền quán như thế được nhu nhuyễn hoàn toàn sẽ đưa tới thanh tịnh đạt bản thể các vật là không Tự Tính, là biến đổi không cố định, là Tính Không (Không Tánh).

 

     Tại sao ở trên Đức Phật nói: “chỉ ở một ưu phiền này, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này”, ở đây lại nói “cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, Không tánh”?

 

     Nghĩa là cái lo buồn là thật có, vẫn còn nghĩ đến trong tâm, nhưng những cái gì không nghĩ đến không có mặt trong tâm thì hoàn toàn được thanh tịnh, đó là Không Tính đối với những cái không có mặt mà thôi, chứ không phải những cái lo buồn.

     Đọan dưới đây chứng minh cho câu ở trên, Phật nói:

Vô tướng tâm định này thuộc hữu vi, do tâm tự tạo nên. Phàm cái gì thuộc hữu vi, do tâm tư tạo nên, cái ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt"; nghĩa là vì những cái nghĩ đến có mặt trong tâm thì không thể nói là không, như hình ảnh, tiếng nói, mùi vị, cảm giác đang ở trong tâm, nên không thể nói là không. Cái gọi là Không Tính chỉ là đối với những cái không nghĩ đến, những cái đã loại ra khỏi tâm mà thôi.

 

     Người tu phải tu tập để Sáu Căn không còn dính mắc Sáu Trần, nghĩa  là tu để chấm dứt tất cả sự hiện diện trong tâm các hình dạng dung mạo đẹp hay xấu, lời nói khen hay chê, mùi vị ưa hay không ưa, cảm giác yêu hay ghét v.v… Mục đích để đạt đến chỗ bình đẳng, không hai, được Tâm Không.

 

     Kinh Tiểu Không này tu theo thứ lớp, bắt đầu từ hữu lậu định, nên Không ở đây là đối lập với tưởng; khi có tưng thì vắng mặt Không, khi không có tưởng thì Không hiện diện. Khi có tướng, thì có lo buồn, nên lấy vô tướng hay vô tưởng tâm định làm đối tượng tu cuối cùng, vì khi không còn tướng hay tưởng nữa thì phiền não chấm dứt, được thanh tịnh giải thoát, tức là đạt Không Tính.

 

     Đến đây thì chúng ta hiểu rõ thế nào là Không Tính hay Tính Không, hai chữ nói đảo qua đảo lại nhưng nghĩa vẫn như nhau. Tới đoạn chót của Kinh Tiểu Không, Đức Phật nói về sự chứng đạt của người tu trong qúa khứ, tương lai và hiện tại, tóm gọn nhưng ý nghĩa không khác Phật nói như sau:

 

Này Ananda, phàm có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong quá khứ, trong tương lai, trong hiện tại, sau khi chứng đạt, đã an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh (Sunnatam), tất cả các vị ấy sau khi chứng đạt đều chỉ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh này. Do vậy, này Ananda, sau khi chứng đạt Ta sẽ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh; như vậy, này Ananda, các ông cần phải học tập”.

 

     Nghĩa là các hành giả trong quá khứ, tương lai và hiện tại, sau khi chứng đạt được đến đâu thì an trú đến đó trong mục đích (cứu cánh) thanh tịnh Không Tính, còn Phật đã đạt mục đích tối hậu (tuyệt đối) rồi và Ngài luôn luôn an trú trong mục đích thanh tịnh “vô thượng Không Tính”. Do đó Ngài bảo tất cả mọi người nên học và tu tập.

 

     Ở đây, Tính Không gạt bỏ tất cả cái tốt lẫn cái xấu, tất cả các hình tướng trong thế giới kể cả Năm Uẩn của mỗi người. Nó dứt sạch mọi thứ ô nhiễm của tri thức, không có dấu vết của nghiệp, không còn một sự tạo dựng nào được hình thành, tất cả chỉ là tịch tĩnh, trong sáng của Tính Không. Nghĩa là khi chúng sinh còn dính mắc bất tịnh, tất cả những hiện tướng của các pháp có thể hóa hiện bên trong tính trong sáng này; khi đã loại bỏ tất cả những dính mắc thì tính trong sáng hiển hiện chiếu soi.

 

     Để kết luận, tâm chúng ta có muôn nghìn sai khác, như lá rừng, như chỉ rối, nhặt bỏ lá này còn lá kia, gỡ được chỗ rối này còn chỗ rối khác, phải công phu không ngưng nghỉ lâu ngày mới mong giải quyết được. Vì vậy cho nên Kinh Tiểu Không, Đức Phật dạy từ dễ đến khó, từ nông đến sâu, an trú Không Tính từng phần một, loại bỏ dính mắc trong tâm được đến đâu thì nên an trú đến đó, cho tới khi nào không còn gì cả. Khi tâm được thanh tịnh tịch tĩnh, trong lặng phẳng bằng như mặt nước mùa thu không một tí sóng gió, thì lúc đó tiến tới cái Không Tính hoàn toàn như Phật vậy.

 

GIẢI NGHĨA

KINH TIỂU KHÔNG

HẾT

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567