Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

33. Kinh Phúng Tụng

17/05/202014:46(Xem: 2135)
33. Kinh Phúng Tụng

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRƯỜNG BỘ KINH
(Dìgha Nikàya)
Tập III
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli
Chuyển thể Thơ: Giới Lạc MAI LẠC HỒNG
NHÀ XUẤT BẢN PHƯƠNG ĐÔNG PL. 2555 - DL 2010


33. Kinh PHÚNG TỤNG

(Sangiti-sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

 1.      Một thời nọ Thế Tôn Ứng Cúng  (1)

          Du hành cùng Đại Chúng tịnh, hòa  (2)

              Khoảng năm trăm vị Tăng Già

       Đến tại Thành phố tên là Pa-Va  (3)

          Thuộc bộ tộc Man-La  (4) làm chủ

          Cùng an trú trong một vườn xoài

              Của người thợ rèn nơi đây

       Chun-Đa (5) – tên của người này, hiền lương.

      

 2.       Lúc bấy giờ, địa phương nơi đó

          Hội trường nọ : Úp-Phá-Ta-Ka  (6)

              Dựng lên bởi dân Man-La

       Đang sinh sống tại Pa-Va thành này.

          Hội trường mới có đầy đủ cả.

          Chưa một vị khách lạ đáng tôn

              Như Sa-môn, Bà-la-môn

       Được mời trú ngụ Hội môn nơi này.

 

          Dân Man-La khi hay Đại Giác

          Đang du hành cùng các Tăng Già

              Hiện Ngài đã đến Pa-Va

       Đang trú ngụ tại Chun-Đa vườn xoài.

          Các người này liền đi đến chỗ

    _______________________________

(1) : Hai trong 10 danh hiệu của Đức Phật : Bhagava (Thế Tôn)

        và Araham (Ứng Cúng, Vô Học, Vô Sinh).

(2) :Bản tính của Tăng-Già (Sangha) là thanh tịnh và hòa hợp .

(3)  Thành Pava .        (4) : Bộ tộc Mallà .      (5) : Chunda .

                                   (6) : Upbhataka .

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  304

 

          Đấng Giác Ngộ an trụ tại vườn.

              Đến nơi đảnh lễ Pháp Vương

       Một bên ngồi xuống, an tường thưa qua :

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Thật là phước quả

          Hội trường mới Úp-Phá-Ta-Ka

              Được dựng lên tại Pa-Va

       Chưa có Phạm-chí (1) hay là Sa-môn

          Được thỉnh đến Hội môn an trú.

          Nay hội đủ duyên phước tròn đầy

              Thỉnh Thế Tôn ngự đến đây

       Là người dùng hội trường này trước tiên

          Nhờ uy đức vô biên của Phật

          Chúng con tất hưởng phước lâu đời ”.

 

              Thế Tôn im lặng nhận lời.

 

 3.   Biết Phật chấp thuận thỉnh mời vừa qua

          Nên các vị Man-La hoan hỷ

          Rời vị trí, đứng dậy khoan thai

              Đảnh lễ, hữu nhiễu quanh Ngài

       Từ giã, cùng đi đến ngay hội trường

          Họ hân hoan, an tường tràn ngập

          Dùng đệm để trải khắp hội trường

              Sắp đặt sàng tọa, chiếu giường

       Đặt các ghè nước, tinh tươm dầu đèn.

 

          Xong đâu đấy, họ bèn đến tiếp

          Bạch với Phật mọi việc sẵn sàng.

 

 4.           Thế Tôn đúng dậy nghiêm trang

       Đắp y mang bát, cùng đoàn Tỷ Kheo

          Đến hội trường thể theo lời thỉnh

    _______________________________

(1) : Phạm-Chí  hay  Bàn-Môn  tức là Bà-la-môn .

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  305

 

          Đến nơi rồi an tịnh rửa chân

              Khi vào nhà, Đấng xuất trần

       An tọa chính giữa, dựa lưng vào tường

          Mặt hướng về đông phương chính diện

          Ngồi đối diện, Tăng hướng về tây

 

              Đoạn Thế Tôn thuyết giảng ngay

       Những pháp cần thiết hàng ngày hành theo

          Nghe thuyết pháp họ đều phấn khởi

        ( Xin thọ giới để nguyện sinh Thiên )

              Thế Tôn thuyết giảng mãn viên

       Tất cả Cư-sĩ hiện tiền hân hoan

          Cho đến khuya vẫn còn hoan hỹ

          Nhưng Phật bảo các vị đang ngồi :

 

        – “ Này các Gia chủ ! Khuya rồi !

       Hãy làm những việc phải thời, hợp cơ ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Bây giờ khuya quá

          Chúng con xin từ giã, lại nhà ”.

 

              Đứng dậy đảnh lễ Phật-Đà

       Quanh Ngài hữu nhiễu, trở ra về nhà.

 

 5.       Dân Man-La đi chưa lâu lắm

          Thế Tôn ngắm Đại Chúng Tỷ Khưu (1)

              Đang ngồi yên lặng vô ưu

       Phật bảo Tôn Giả thượng lưu Tăng Già :

 

    – “ Này Sa-Ri-Pút-Ta (1) ! Hiện tại

          Chúng Tỷ Kheo vô ngại, tĩnh tâm

    _______________________________

(1) : Bhikkhu phiên âm là Tỳ-Khưu  hay Tỷ-Kheo ,dịch là Khất-sĩ

       là vị đã thọ Đại giới hay Cụ-túc-giới , nhập vào Tăng Đoàn .

(2) : Sariputta phiên âm là Xá-Lợi-Phất hay Xá-Lợi Tử , là vị Đại

     Đệ tử của đức Phật , bậc Trí Tuệ đệ nhất .    

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  306

 

              Không có thụy miên hôn trầm

       Ông hãy thuyết pháp đúng tầm, lợi chung.

          Ta cảm thấy sau lưng đau tức

          Muốn nằm nghỉ lấy sức một hồi ”.

 

              Sau khi nghe Phật nói rồi    

       Tôn Giả lên tiếng vâng lời Thế Tôn.

          Rồi Thế Tôn gấp y làm bốn

          Tăng-Già-Lê y vốn kề bên

              Rồi Ngài nằm xuống an nhiên

       Dáng như sư tử, nằm nghiêng gối đầu

          Hai chân để lên nhau, an tịnh

          Với ý định sẽ dậy an hòa.

 

 5.           Lúc bấy giờ, nhân xảy ra

       Việc Na-Ga-Thá Na-Tha-Pút-Tá  (1)

          Tại Pa-Va mới vừa tạ thế

          Ni-Kiền-Tử chia rẽ hai phe

              Các vị đệ tử chấp nê

       Dùng binh khí miệng nặng nề tấn công :

 

     – “ Ngươi đã không biết đây pháp luật

          Ta hiểu biết pháp luật này rành

              Sao ngươi có thể biết rành

       Ngươi theo tà hạnh, ta hành chánh chân

          Lời nói ta tương ưng là thế

          Lời ngươi nói không thể tương ưng

              Ngươi nói trước sau vô chừng

       Điều đáng nói trước ngươi từng nói sau

          Điều nói sau bỗng dưng nói trước

    _______________________________

  (1) :  Nigantha Nàtaputta  – Ni-Kiền-Tử  là một trong Lục Sư  

       Ngoại đạo thời Phật tại thế . Phái này còn được gọi là Lõa  

   Hình Ngoại Đạo vì chủ trương trần truồng không mặc quần áo .

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  307

 

          Ngươi quan niệm đảo ngược trình bày

              Bị thách đố quan niệm này

       Ngươi bị đánh bại. Giải vây đi nào !

          Hãy tự thoát điều vào bế tắc

          Nếu ngươi chắc có thể thực hành ”.

              Hình như họ muốn giao tranh

       Với nhau tàn hại, để dành quyền uy

          Ngay sau khi vắng vì Giáo chủ.

          Các đệ tử áo trắng  (1) phái này

              Chán ngấy trước hiện tượng đây

       Chống các Ni-Ganh-Thá ngay tức thì

          Phản đối vì trình bày pháp, luật 

          Hay tuyên bố pháp, luật vụng về

              Không vì an tịnh hướng về

       Hiệu năng hướng dẫn mọi bề cũng không.

          Lại cũng không do từ một bậc

          Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết, trình bày

              Pháp y chỉ đổ vỡ ngay

       Không nơi nương tựa cho rày bạch y  (1).

 

 7.      Ngài Tôn Giả Sa-Ri-Pút-Tá

          Bảo rằng : “ Này Hiền Giả Chúng Tăng !

              Việc Ni-Kiền-Tử từ trần

       Đã làm phái ấy rẽ phân, bất hòa

          Các đệ tử xảy ra tranh chấp

          Tàn hại nhau, tràn ngập sân si

              Dùng binh khí miệng tức thì

       Khiến các đệ tử bạch y bất bình

          Họ phản đối, miệt khinh, chán ngấy

    _______________________________

(1) : Bạch Y cư sĩ  hay Cư sĩ áo trắng  vì theo phong tục Ấn-Độ

        người tại gia thường mặc đồ trắng .  

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  308

 

          Vì Pháp và Luật ấy mọi bề

              Trình bày, tuyên bố vụng về

       Hiệu năng không có, không hề tịnh an.

          Không do vị Phật Toàn Giác thuyết

          Pháp Y chỉ bị triệt, vỡ ra.

 

              Các Hiền Giả ! Nhưng chúng ta 

       Pháp được Thiện Thệ thuyết ra trọn lành,

          Khéo trình bày, khéo phần giảng dạy

          Một Chánh Pháp tự tại, từ hòa

              Hiệu năng hướng dẫn sâu xa

       Hướng đến an tịnh, Phật Đà thuyết răn,

          Mọi người cần cùng nhau tụng đọc

          Không tranh luận, bực dọc sân si,

              Để Phạm hạnh được duy trì

       Lâu dài thanh tịnh, uy nghi mọi thì.

          Vì hạnh phúc và vì an lạc

          Vì thương tưởng đến các chúng sinh

              Chư Thiên, loài Người, hữu tình

       Đó là Chánh Pháp siêu minh, nhiệm mầu.

 

* * *

          Các Hiền-giả ! Thế nào Một Pháp

          Được Thế Tôn diễn đạt, trình bày ?       

 

              Ngài dạy Một pháp như vầy

       Mọi người cần phải theo đây hành trì :

 

 8.      Loài hữu tình do vì ăn uống

      * Các món ăn mà muốn trú an.  

          * Do các Hành mà trú an.

 

       Đó là Một pháp Phật mang trình bày.

          Mọi người đây cần cùng tụng đọc

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  309

 

          Không tranh luận, bực dọc sân si,

              Để Phạm hạnh được duy trì

       Lâu dài thanh tịnh, uy nghi mọi thì.

          Vì hạnh phúc và vì an lạc

          Vì thương tưởng đến các chúng sinh

              Chư Thiên, loài Người, hữu tình

       Đó là Chánh Pháp siêu minh, nhiệm mầu.

 

* * *

 9.      Các Hiền-giả ! Thế nào Hai pháp

          Được Thế Tôn diễn đạt, trình bày ?

              Ngài dạy Hai pháp như vầy

       Mọi người cần phải theo đây hành trì :

 

      *  DanhSắc, liễu tri như vậy.

      *  Vô minhHữu ái  ở đây.

          *  Hữu kiến ; Vô hữu kiến  này,

   *  Vô Tàm ; Vô Quý rõ bày đáng khinh.

      *  TàmQuý, hành trình thành tựu,

      *  Ác ngôn  và Ác hữu  đáng chê,

          *  Thiện ngôn ; Thiện hữu cận kề.

   *  Nhập tội thiện xảo ; Xuất về tội đây.

      *  Đẳng chí hay Xuất lên đẳng chí

          Đều thiện xảo trong ý niệm này.

         *  Giới thiệuTác ý xảo đây

   *  Duyên khởi thiện xảo ; Xứ hay xảo hiền.

      *  Thiện xảo chuyên Xứ và Phi xứ.

      *  Chơn trực và hai thứ Quý, Tàm.   

         *  Nhu hòa cùng với nhẫn kham.

   *  Lời nói nhu thuận ; Tiếp bằng tình thân.

      *  Phần vô hại và phần từ ái.

      *  Thất niệm ấy và bất chánh tri.

         *  Chánh niệm ; tỉnh giác mọi thì.

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  310

 

   *  Không thể chế ngự tức thì các căn,

          Việc uống ăn lại không tiết độ.

      *  Căn chế ngự ; Tiết độ uống ăn.

          *  Tư duy & Tu tập lực cần. 

   *  Niệm lực & Định lực hai phần tịnh thanh.

      *  Chỉ và Quán, thiền hành vô lượng.

 

      *  Tinh cần tướng ; Chỉ tướng chánh chân.

          * Không dao động và Tinh cần.

   *  Giới & Kiến thành tựu, hai phần nói chung.

      *  Giới suy khuyết ; Kiến cùng suy khuyết.

      *  Giới thanh tịnh ; Kiến thiệt tịnh thanh.

          *  Kiến thanh tịnh và Tinh cần

       Theo tri kiến ấy, hai phần chủ trương.

      *  Dao động với pháp thường dao động 

          Chánh tinh cần dao động người này.

          *  Không tri túc thiện pháp đây

       Cũng không thối thất trong ngay tinh cần.

      *  Rồi hai phần : Minh tri ; Giải thoát.  

      *  Vô sinh trí, pháp khác : Tận tri.

 

              Này các Hiền-giả ! Vậy thì

       Hai pháp được Đấng Toàn Tri dạy rành

          Ngài là bậc Trọn lành Đại Giác

          A-La-Hán chứng đạt thanh cao

              Mọi người dù ở đâu đâu

       Cũng nên ghi nhớ cao sâu pháp mầu

          Và cần phải cùng nhau tụng đọc

          Không tranh luận, bực dọc sân si,

              Để Phạm hạnh được duy trì

       Lâu dài thanh tịnh, uy nghi mọi thì.

          Vì hạnh phúc và vì an lạc

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  311

 

          Vì thương tưởng đến các chúng sinh

              Chư Thiên, loài Người, hữu tình

       Đó là Chánh Pháp siêu minh, từ hòa.

 

* * *

10.      Các Hiền-giả ! Có Ba Pháp Thánh

          Được Thế Tôn chân chánh trình bày ?

              Ngài dạy Ba Pháp như vầy

       Mọi người cần phải theo đây hành trì :

 

      *  Bất thiện pháp : Tham, Si, Sân hận.

      *  Ba thiện căn : Không Hận, Tham, Si.

          *  Ba ác hạnh phải tường tri :

       Khẩu ; Ý ác hạnh, đồng thì Ác thân.

      *  Ba thiện hạnh là Thân thiện hạnh,

          Khẩu thiện hạnh và Ý hạnh lành.

          *  Ba bất thiện tầm chẳng lành :

       Dục ; Sân tầm với phát sanh Hại tầm.

      *  Ba thiện tầm : Vô sân ; Ly dục

          Vô hại tầm – mọi lúc, mọi thì.

          *  Rồi đến Ba thiện tư duy :

       Vô hại ; Ly dục  đồng thì Vô sân. 

      *  Bất thiện tưởng ba phần tăng trưởng

          Dục & Sân tưởng ; Hại tưởng khó phân.

          *  Ba thiện tưởng là Vô sân

       Ly dục ; Vô hại tưởng, cần kể ra.

      *  Bất thiện gìới có ba : Dục giới,   

          Sân giới và Hại giới – chẳng hòa.

          *  Thiện giới cũng lại có ba :

       Ly dục ; Vô hại cùng là Vô sân.

      *  Ba giới khác là phần Dục giới

          Vô sắc giới ; Sắc giới – rõ bày.

          *  Ba giới khác : Sắc giới đây

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  312

 

       Vô sắc & Diệt giới – điều này nói chung.

      *  Ba giới khác : Liệt & Trung & Thắng giới.

      *  Ba ái với Dục & Hữu ái  này

              Cùng Vô-hữu-ái  ở đây.

   *  Lại ba ái khác như vầy bày phô :

          Dục & Sắc ái và Vô sắc ái.

      *  Ba Ái khác : Sắc ái  kể ra

          Vô sắc ái ; Diệt ái  qua.

   *  Với Ba kiết sử, đó là Hoài nghi ;

          Giới cấm thủ ; chấp trì Thân kiến.

      *  Ba lậu khiến : Dục lậu đinh ninh ;

              Hữu lậu ; và lậu vô minh.

   *  Ba hữu : Dục & Sắc hữu gìn khư khư

          Vô sắc hữu cũng từ so sánh.

      *  Ba cầu là : Phạm hạnh cầu này

              Dục cầu ; hữu cầu như vầy.

   *  Ba mạn : Thắng mạn, điều này đầu tiên

          Ty liệt mạn  đi liền Đẳng mạn.

      *  Ba thời đoạn : Quá khứ thời riêng ;

              Vị lai ; Hiện tại tiếp liền.

   *  Ba biên : Tập hữu thân biên một phần

          Hữu thân diệt ; hữu thân biên đó.

      *  Rồi Ba thọ : Lạc & Khổ thọ đây,

              Phi khổ phi lạc thọ này.

   *  Với Ba khổ tánh  như vầy kể ra :

          Hành & Hoại khổ cùng là Khổ khổ.

      *  Ba tụ  có : Tà định tụ này ;

              Chánh định & Bất định tụ đây.

   *  Ba nghi đối với ba kỳ thời gian

          Quá khứ sang Vị lai, Hiện tại

          Sinh do dự, nghi ngại trong lòng

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  313

 

              Không quyết định, không hài lòng.

   *  Ba điều Đại Giác sạch trong vô ngần

          Luôn thanh tịnh, không cần gìn giữ

          Vì Như Lai bất cứ điều gì

              Về thân, miệng, ý uy nghi

       Không có ác hạnh, chẳng chi lỗi lầm

          Không dấu thầm, sợ người khác biết

          Thân, khẩu. ý quả thiệt thiện hành.

          *  Ba Chướng : Tham chướng chẳng lành   

       Sân chướng, Si chướng phát sanh bao lần.

      *  Ba loại lửa : Tham, Sân, Si hỏa.

      *  Ba loại lửa khác đã kể ra :

           –  Lửa người hiếu kính mẹ cha.

    –  Lửa người Gia chủ trong nhà hiền lương.

       –  Lửa của người cúng dường đúng cỡ

         ( Bậc xuất gia, con, vợ, mẹ cha ).

           *  Ba loại sắc tụ, đó là :

       Hữu kiến hữu đối sắc qua mọi bề

          Vô kiến hữu thuộc về đối sắc.

          Vô kiến vô đối sắc hiểu rành.

          *  Ba Hành – đó là phước hành

       Phi phước hành ; bất động hành – cả ba.

      *  Ba loại người : Hữu và Vô học,

          Phi hữu học, phi vô học nhân.

          *  Ba vị Trưởng lão, kể dần :

       Sanh & Pháp trưởng lão tinh cần thanh cao

          Cùng trưởng lão thuộcvào nhập định.

      *  Phước nghiệp sự được tính như vầy :

              Thi hành phước nghiệp sự đây,

       Giới hành phước nghiệp sự này phát sanh.

          Phước nghiệp sự tu hành  như vậy.

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  314

 

      *  Cử tội sự : Nghe ; Thấy và Nghi.            

          *  Ba Dục Sanh  phải tường tri :

   –  Hữu tình do Dục tức thì trú an.

          Đối với dục, trú an lệ thuộc

          Bị chi phối phụ thuộc liên miên

              Như người ; một số Chư Thiên

       Một số đọa xứ họ liền tái sanh,

          Đây là loại Dục sanh thứ nhất.

 

      –  Có hữu tình sự vật họ làm

              Phát sinh lòng Dục vì tham

       Họ tạo sự vật và ham muốn liền

          Như Chư Thiên cõi Trời Hóa Lạc

          Niêm-Ma-Ná-Ra-Tí (1) nơi này,

              Là loại Dục sanh thứ hai.

 

   –  Hữu tình loại khác có rày dục tâm

          Với sự vật được làm từ các

          Những loài khác đã tạo nó ra

              Họ bị chi phối dần dà

       Trong những dục vọng người ta làm rồi

          Như Chư Thiên cõi Trời thanh thái

          Là Tha Hóa Tự Tại Thiên tòa

              Pa-Ri-Niêm-Mí-Ta-Va

       Sa-Vát-Tí (2). Dục sanh là thứ ba.

 

      *  Ba Lạc Sanh kể ra thứ tự :      

      –  Có hữu tình quá khứ tạo ra                                        

             Thiền định lạc, sống an hòa

       Như Bram-Má Ka-Di-Ka (3) thiện hành

    _______________________________

  (1) :  Nimmàna-Rati  ( cõi Trời Hóa Lạc Thiên ) .

  (2) :  Para-nimmitava-savatti  ( cõi Trời Tha Hóa Tự Tại ) .

  (3) :  Brahma-Kàyikà  ( cõi Trời Phạm Chúng ) .      

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  315

 

          (Phạm Chúng Thiên). Lạc sanh thứ nhất.

 

       –  Có hữu tình thì rất thấm nhuần

              Biến mãn, sung mãn, thịnh hưng

       Với an lạc đó, không ngưng kêu vầy :

       “ An lạc thay !  Ôi đầy an lạc ! ”.   

          Như Chư Thiên A-Phát-Sa-Ra  (1)

              Hay Quang Âm Thiên quang hoa,

       Hạng lạc sanh đó chính là thứ hai.

 

      –  Có hữu tình tràn đầy, nhuần thấm

          Và biến mãn, thịnh với lạc an

              Sống mãn túc với lạc an

       Cảm thọ an lạc đầy tràn, trải qua

          Như Su-Phá-Kin-Na (2) Thiên giới

         (Biến Tịnh Thiên ), cảnh giới an hòa,

              Là loại lạc sanh thứ ba.     

 

    *  Ba Tuệ : Hữu học tuệ là đầu tiên,

          Vô học tuệ đi liền một dọc

          Phi hữu học, phi vô học thành.

          *  Ba loại Tuệ khác hiểu nhanh :

       Là Tư sanh tuệ ; Văn sanh tuệ này,

          Tu sanh tuệ  như vầy thứ đệ.

      *  Ba binh khí : Nghe ; Tuệ ; Xa ly.

          *  Ba Căn : Vị trí đương tri ;

       Dĩ tri căn với Cụ tri căn này.

      *  Ba Nhãn  được trình bày : Nhục nhãn ;

          Rồi Thiên nhãn ; Tuệ nhãn siêu nhân.

          *  Ba Học : Tăng thượng giới phần ;

       Tăng thượng tâm học ; Tuệ tăng thượng phần.

    _______________________________

  (1) :  Àbhassarà  ( cõi Trời Quang-Âm Thiên ) .

  (2) :  Subhakinnà  ( cõi Trời Biến Tịnh Thiên ) .

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  316

 

      *  Ba Tu Tập : Tâm ; Thân tu ; Tuệ.

      *  Ba Vô Thượng được kể : Kiến ; Hành ;

              Giải thoát vô thượng tịnh thanh.

   *  Ba Định : Hữu tứ hữu tầm định đây ;

          Vô tầm hữu tứ  này thiền định 

          Vô tầm vô tứ định  thứ ba

              Đó là ba loại thiền-na

       Khác nhau ý nghĩa cùng là tế thô. 

      *  Ba Định khác, là Vô tưởng định ;

          Vô nguyện định ; Không định – thực hành.

          *  Ba Thanh Tịnh : Thân tịnh thanh ;

       Rồi Ngữ thanh tịnh ; Ý lành tịnh thanh.

      *  Ba Tịch Mặc là Thân tịch mặc ;

          Ngữ tịch mặc và Ý cũng vầy.

          *  Ba Thiện Xảo biết ở đây :

       Tăng ích thiện xảo ; lành thay điều này

          Tồn ích xảo ; đủ đầy thấu đáo

          Phương tiện xảo ; lợi lạc mọi điều.

          *  Ba Kiêu, là Vô bệnh kiêu ;   

       Niên tráng kiêu ; Hoạt mạng kiêu – ba đường.

      *  Ba Tăng Thượng : Ngã thường tăng thượng ;

          Thế tăng thượng ; Pháp cũng gia tăng.

          *  Ba Luận Sự  hay luận bàn :

       Luận bàn quá khứ ; Luận bàn tương lai ;

          Luận bàn ngay vấn đề hiện tại ;

          Những sự việc vẫn xảy thường tình.

          *  Ba Minh : Túc mạng trí minh ;

       Hữu tình sinh tửminh thứ nhì

          Lậu tận trí minh  tri đầy đủ.

      *  Ba Trú  là Thiên trú gồm trong

              Phạm trú ; Thánh trú thảy đồng.

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  317

 

   *  Ba Thần Thông : Thần túc thông thâm trầm,

          Tri tha tâm thần thông biết tới,

          Cùng Giáo giới sinh chúng thần thông.

              Các Hiền-giả ! Chính Thế Tôn

       Ba pháp giảng dạy Pháp môn ngọn ngành

          Ngài là bậc Trọn Lành Đại Giác

          A-La-Hán chứng đạt thanh cao

              Mọi người dù ở đâu đâu

       Cũng nên ghi nhớ cao sâu pháp mầu

          Và cần phải cùng nhau tụng đọc

          Không tranh luận, bực dọc sân si,

              Để Phạm hạnh được duy trì

       Lâu dài thanh tịnh, uy nghi mọi thì.

          Vì hạnh phúc và vì an lạc

          Vì thương tưởng đến các chúng sinh

              Chư Thiên, loài Người, hữu tình

       Đó là Chánh Pháp siêu minh, nhiệm mầu.

 

* * *

11.      Các Hiền-giả ! Thế nào Bốn pháp

          Được Thế Tôn diễn đạt, trình bày ?

              Ngài dạy Bốn pháp như vầy

       Mọi người cần phải theo đây hành trì

          Phải suy nghiệm uy nghi lời Phật :

 

      *  Bốn Niệm Xứ – duy nhất con đường

              Đưa đến thanh tịnh vô lường

       Đưa chúng sinh vượt sầu thương ngập tràn

          Diệt khổ ưu, khóc than, uất ức

          Diệt khổ thân, trừ dứt khổ tâm

              Chứng ngộ Niết Bàn cao thâm

       Bốn Niệm Xứ ấy, phải cần hiểu ngay :

          Vị Tỷ Kheo ở đây tu tập

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  318

 

       –  Phải như thật ‘Quán Thân trên thân’,   

              Chánh niệm, tỉnh giác, tinh cần

       Tham sân chế ngự, muôn phần tịnh yên.

      –  Rồi đến ‘Quán Thọ trên các thọ’,

          Luôn tỉnh giác và có tinh cần

              Chế ngự tham sân tự thân.

  –  ‘Quán Tâm trên chính tâm’, cần nhiệt tâm

          Luôn tỉnh giác và thầm chánh niệm

          Để chế ngự, dứt điểm sân tham.

          –  Quán Pháp trên các pháp trần

       Chánh niệm, tỉnh giác, tinh cần, nhiệt tâm 

          Để chế ngự sân tham lầm lạc.

      

      *  Bốn Chánh Cần : - Thấy Ác chưa sinh

              Cố gắng khiến ác đừng sinh.

   –  Ác, bất thiện pháp đã sinh, diệt trừ.

      –  Các thiện pháp nếu như chưa khởi

          Phải sinh khởi thiện pháp tức thời.

          –  Các thiện pháp đã sinh rồi

       Duy trì, tăng trưởng chẳng hồi nào ngưng.

          Được tu tập không ngừng cố gắng

          Được viên mãn, tinh tấn, kiên trì.

 

          *  Bốn Thần Túc cần liễu tri

       Tỷ Kheo liên tục mọi thì gắng tu

          Câu hữu với Dục như ý túc,

          Thực hiện Dục thiền định phát sanh

              Câu hữu tinh tấn thực hành

       Tâm như ý túc, tịnh thanh định thiền

          Cùng Tinh Tấn định thiền thần túc,

          Tu thần túc câu hữu tinh cần

              Tư Duy thiền định dự phần

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  319

 

       Bốn như ý túc chánh chân đủ đầy.   

 

      *  Bốn Thiền Định ở đây cụ túc :

      –  Vị Tỷ Kheo ly dục, an nhiên  

              Ly ác pháp, chứng & trú Thiền

       Là Thiền Đệ Nhất, cảm liền lạc an

          Do ly dục, với tầm, với tứ    

      –  Diệt tầm & tứ, chứng & trú Nhị Thiền.  

              Trạng thái hỷ lạc vô biên

       Không tầm, không tứ, định liền do sanh.

          Với nội tỉnh nhất tâm, vẹn cả.

          Rồi ly hỷ trú xả tức thời

              Chánh niệm, tỉnh giác chẳng lơi

       Thân cảm lạc thọ, sáng ngời, an nhiên

          Sự lạc thọ Thánh Hiền gọi đủ

          Là ‘xả niệm lạc trú’, vô phiền

              Chứng và an trú Tam Thiền.

   –  Xả lạc, xả khổ, diệt liền hỷ ưu

          Đã cảm thọ trước, lưu như thế

          Chứng và trú vào Đệ Tứ Thiền,

              Không khổ, không lạc an nhiên

       Xả niệm thanh tịnh, hiện tiền thắng duyên.

 

      *  Bốn Tu Tập cần chuyên Thiền định

          Nhờ tu tập thiền định, hành trì :

          –  Đưa đến lạc trú tức thì,

       Ngay trong hiện tại chẳng chi so bì.

      –  Nhờ tu tập, hành trì Thiền định 

          Sẽ chứng chính Tri kiến, điều này.

          –  Chánh niệm, tỉnh giác đủ đầy.   

   –  Diệt tận lậu hoặc, thấy rày lý chân.

 

          Các Hiền-giả ! Hãy phân tích rõ

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  320

 

          Thế nào có tu tập, hành Thiền                       

              Nhờ sự nỗ lực, cần chuyên

       Đưa đến lạc trú hiện tiền có ngay ?

          Vị Tỷ Kheo ở đây nhất mực   

          Ly ác pháp, ly dục cần chuyên

              Chứng và trú bốn bậc Thiền

       Từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền viên thông, 

          Hưởng lạc trú ngay trong hiện tại.

 

      –  Thế nào lại Tri kiến chứng tri ?

              Tỷ Kheo vị ấy kiên trì

       Tác ý quang minh tưởng thì trú an

          An trú tưởng ban ngày tương tác

          Với ban đêm không khác mọi đàng

              Với tâm mở rộng hoàn toàn

       Tạo ra Tâm có vô vàn hào quang. 

          Nhờ Thiền định dẫn sang chứng đắc

          Tri kiến này quả thật thiện duyên.

 

          –  Thế nào nhờ sự hành Thiền

       Chánh niệm ; tỉnh giác đạt liền ở đây ?

          Vị Tỷ Kheo biết ngay thọ khởi

          Biết thọ trú dẫn tới diệt ngay.

              Biết tưởng khởi ; tưởng trú này

       Biết được tưởng diệt ở đây đồng thời.

          Biết tầm khởi ; biết nơi tầm trú

          Biết tầm diệt, đầy đủ mọi phần,

              Đưa đến tỉnh giác, niệm chân.

 

   –  Diệt tận lậu hoặc phải cần ra sao ?

          Vị Tỷ Kheo nhờ vào an trú

          Quán đầy đủ tánh sinh diệt này

              Trên Năm Thủ Uẩn như vầy :

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  321

 

       Đây Sắc ; Sắc tập ; Sắc này diệt nhanh.

          Đây Thọ ; Tưởng ; đây Hành ; đây Thức

          Có Thức tập và Thức diệt liền,  

              Do sự tu tập, hành thiền

       Diệt các lậu hoặc do chuyên hành trì.

 

      *  Vô Lượng Tâm : Từ ; Bi ; Hỷ ; Xả 

          Vị hành giả thực hiện tinh tường

              An trú, biến mãn một phương

       Với tâm câu hữu thanh lương với Từ.

          Và cũng như phương hai ; ba ; bốn

          Cùng khắp chốn thế giới vô biên

              Hết thảy phương xứ, dưới trên

       Cả bề ngang – Vị ấy liền trú an.

          Biến mãn toàn với tâm câu hữu

          Với Hỷ ; Xả ; câu hữu Từ ; Bi

              Quảng đại vô biên, đồng thì

       Không sân, không hận, chẳng chi muộn phiền.

 

      *  Vô Sắc giới ở riêng bốn cõi

          Mọi sắc tưởng vượt khỏi như vầy,

              Diệt mọi chướng ngại tưởng này

       Không tác ý dị tưởng này dính đeo.

          Vị hành giả Tỷ Kheo thầm nghĩ :

       “ Hư không này đích thị vô biên”

              Chứng, trú Xứ Không Vô Biên.

       Vượt lên, lại nghĩ Vô biên Thức này

          Chứng, trú ngay Thức Vô Biên Xứ.

          Rồi Vô Sở Hữu Xứ vượt lên.

              Vượt Vô sở hữu xứ trên 

       Liền chứng và trú an nhiên tức thì

          Vào Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  322

 

          Bốn Vô Sắc tuần tự đạt dần.

 

          *  Bốn Y Chỉ cho tự thân :

       Tỷ Kheo thọ dụng sau phần nghĩ suy ;

          Sau suy nghĩ, tức thì nhẫn thọ ;

          Sau suy nghĩ, lại có viễn ly ;

              Khiển trừ, sau khi nghĩ suy.

 

   *  Có Bốn Thánh Chúng hành trì viên thông :

      –  Vị Tỷ Kheo bằng lòng thọ nhận  

          Các loại Y, không gắng tìm cầu

              Không được Y, không não sầu.

       Được Y, không nhiễm-trước vào Y đây

          Không mê say, không hề phạm tội.

          Khi dùng Y, thấy lỗi hiểm nguy,

              Rõ sự giải thoát quang huy

       Bằng lòng với bất cứ Y loại nào,

          Không khen mình, chê vào người khác

          Vị Tỷ Kheo tỉnh giác, tinh cần

              Chánh niệm, khéo léo mọi phần

       Gọi là vị đã trung thành sớm trưa

          Với Thánh chủng kế thừa truyền thống.  

 

      –  Các Hiền-giả ! Nếp sống Chư Tăng

              Tự bằng lòng với thức ăn

       Do sự khất thực ; và hằng tán dương

          Không kiếm phương tìm cầu vật thực

          Không xứng đáng với bực xuất gia

              Không có áo não phiền hà

       Nếu không có món ăn mà mình ưa.

          Khi khất thực, món vừa ý được

          Không nhiễm-trước, phạm tội, say mê.

 

          –  Cũng như vậy, khi nói về

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  323

 

       Chỗ ở trú ngụ mọi bề cũng xong                    

          Tự bằng lòng trú trong phòng xá

          Mà mình đã trú ngụ lâu, mau.

          –  Cũng không cố gắng tìm cầu

       Một cách không xứng, mặc dầu cố công.

          Không áo não nếu không trú xứ,

          Có phòng xá không tự say mê

              Không có phạm tội thuộc về

       Luôn luôn quán tưởng mọi bề hiểm nguy

          Để phát huy việc tu giải thoát

          Trú an lạc bất cứ mọi nơi

              Không khen mình, không chê người

       Vị này khéo léo mọi thời chánh chân

          Luôn tỉnh giác, tinh cần, chánh niệm

          Đây là điểm đáng gọi vị này

              Là vị trung thành  ở đây

       Đối với Thánh chủng sâu dày sớm trưa

          Theo truyền thống kế thừa quá khứ.

       

          Các Hiền-giả ! Phích-Khú an từ

              Ưa thích, hoan hỷ đoạn trừ

       Ưa thích, hoan hỷ sự tu tập này.

          Nhờ hoan hỷ như vầy, vị ấy

          Không khen mình, không lại chê người

              Khéo léo, tinh cần mọi thời

       Tỉnh giác, chánh niệm chẳng lơi tâm lành

          Được gọi là trung thành Thánh chủng

          Theo truyền thống quá khứ, chánh chân.

 

          *  Tiếp theo là Bốn Tinh Cần

       Tinh cần chế ngự, tinh cần trừ đi

          Rồi Tu tập, Hộ trì tinh tấn.

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  324

 

      –  Thế nào là Chế ngự tinh cần ?

              Này các Hiền-giả Chúng Tăng !

       Ở đây, Phích-Khú này hằng tịnh an

          Mắt thấy Sắc không màng nắm giữ

          Tướng chung, riêng. Bất cứ nguyên nhân

              Nhãn căn không được cản ngăn

       Khiến cho các ác, ái tham khởi liền

          Khiến ưu phiền, chẳng lành pháp khởi

          Tự chế ngự từ bởi nguyên nhân

              Hộ trì, chế ngự nhãn căn.

 

   –  Hay Tai nghe Tiếng ; Mũi hằng ngửi Hương   

          Lưỡi nếm Vị ; Thân thường cảm Xúc.

          Ý nhận thức các Pháp, hiểu sâu.

              Nhưng năm căn ấy duyên vào

       Không hề nắm giữ tướng nào chung, riêng

          Nguyên nhân gì khi duyên như vậy

          Các căn ấy không được cản ngăn

              Khiến tham ái, ưu bi tăng

       Các bất thiện pháp dần dần khởi lên.

          Vị Tỷ Kheo nói trên chế ngự

          Nguyên nhân ấy ; chế ngự các căn,

              Gọi là chế ngự tinh cần.

 

   –  Còn gọi trừ đoạn tinh cần là sao ? 

          Vị Tỷ Kheo không sao nhẫn nại

          Với Dục tầm ; Sân & Hại tầm kia

              Từ bỏ, tiêu diệt, đoạn lìa

       Không cho hiện hữu sớm khuya mọi phần,

          Là Tinh cần đoạn trừ  đề cập.

 

     –  Còn Tinh cần tu tập là sao ?

              Tỷ Kheo tâm ý thanh cao

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  325

 

       Tu tập bảy pháp thuộc vào Giác Chi :

          Niệm giác chi ; Giác chi Trạch pháp ;

          Tu tập pháp Tinh tấn giác chi ;

              HỷKhinh an giác chi ;

       Tu tập Định & Xả giác chi đủ đầy.

          Những pháp này y vào ly dục

          Y xả ly, thành thục đoạn trừ

              Y đoạn diệt ; giữ khư khư

       Như vậy được gọi danh từ chánh chân

          Là Tu tập tinh cần pháp ấy.

 

      –  Các Hiền-giả ! Nay hãy nói vào 

              Hộ trì tinh cần là sao ?

       Tỷ Kheo vị ấy thanh cao hộ trì

          Khởi lên vì tốt tươi định tướng

          Cốt tưởng ; trùng hám tưởng rõ bày

              Thanh ứ  & đoạn hoại tưởng này

       Đến trương bành tưởng ( quán rày tử thi )

          Như vậy gọi Hộ trì tinh tấn.        

 

      *  Bốn Trí thắng : Pháp-trí thậm thâm

              Loại-trí và trí-tha-tâm

       Cùng thế-tục-trí thăng trầm kể ra.

      *  Bốn Trí khác : Khổ và Tập-trí

          Cùng Diệt-trí ; Đạo-trí  đồng thì.

          *  Có Bốn Dự Lưu quả chi :

       Vị Thánh đệ tử hành trì trải qua

          Tin tuyệt đối Phật Đà Chánh Giác

          Tin tuyệt đối Giáo Pháp cao xa

              Tuyệt đối tin tưởng Tăng-Già

     ( Thanh-tịnh Tăng-chúng hay là Thánh Tăng ).

 

      –  Tin tưởng Phật, lòng hằng kính ngưỡng

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  326

 

          Bậc Thế Tôn, Vô Thượng Đạo Sư

              Thiện Thệ, Điều Ngự Trượng Phu

       Thế Gian Giải, Thiên Nhân Sư, Phật Đà

          Chánh Đẳng Giác, Đại A-La-Hán

          Minh Hạnh Túc viên mãn trí bi.

 

          –  Tin tưởng Giáo Pháp hành trì  

       Được Thế Tôn khéo thích nghi trình bày

          Thuyết giảng Pháp hiện nay thiết thực

          Vượt thời gian, uy lực thanh cao

              Đến để mà thấy pháp mầu

       Hiệu năng hướng thượng (nhắm vào trí minh) 

          Người có trí tự mình giác hiểu.

 

      –  Tăng đệ tử tiêu biểu Phật Đà

              Đầy đủ diệu hạnh từ hòa

       Đầy đủ trực hạnh trải qua như vầy

          Như lý hạnh ; thẳng ngay chánh hạnh

          Hàng Tăng Bảo bốn hạnh là đây.

              Bốn đôi, tám vị. Lành thay !

       Chúng Tăng đệ tử của Ngài Thế Tôn.

          Đáng lễ bái, đáng tôn, kính ngưỡng

          Đáng cung dưỡng, đáng được chấp tay,

              Phước điền vô thượng đời này,

       Thành tựu giới đức, đêm ngày tịnh thanh.

          Các bậc Thánh sẵn dành ái mộ

          Không tỳ vết, không chỗ hoại hư.

              Thực hành liên tục chẳng từ

       Không bị khiếm khuyết, tâm tư an bình

          Được bậc Thánh nhiệt tình khen ngợi

          Không nhiễm ô, hướng tới thiền tu.

 

          *  Bốn Sa-Môn Quả đặc thù :

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  327

 

   –  Là Dự Lưu quả tức Tu-Đà-Hoàn.

      –  Tư-Đà-Hàm – Nhất Lai quả vị.  

      –  A-Na-Hàm – quả vị Bất Lai.         

          –  A-La-Hán – quả vị này

       Ứng Cúng, Vô Học, rõ bày Vô Sanh.

      

      *  Bốn Giới này hiểu rành : Địa giới

          Thủy & Hỏa giới ; Phong giới như vầy.

              Đất, nước, lửa, gió – chính đây.

 

   *  Bốn Thực : Đoàn thực, tế hay thô này

          Xúc thực đây và tư niệm thực

          Cùng thức thực – bốn thứ hiện tiền.

 

          *  Bốn Thức Trú  biết căn nguyên

       Khi duyên vào Sắc, thức liền khởi lên

          Rồi an trú ; thức bèn lấy sắc

          Làm sở y, lấy sắc cảnh quan

              Làm căn cứ thọ hưởng an

       Tăng trưởng, tăng thịnh, tăng quang dạt dào.

 

          Các Hiền-giả ! Duyên vào uẩn khác        

          Thọ, Tưởng, Hành-thức phát khởi lên

              Lấy uẩn ấy làm cảnh liền

       Làm sở y của thức trên dần dà,

          Làm căn cứ để mà thọ hưởng

          Được tăng trưởng, tăng thịnh, tăng quang.

 

          *  Bất hành xứ hạnh  bao hàm :

       Bất hành xứ hạnh về tham dục phần

          Bố úy & sân bất hành xứ hạnh

          Cùng bất hành xứ hạnh về si.

 

          *  Bốn Ái Sanh  do duyên vì :

   –  Do nhân Y phục, khởi thì ái tham,                   

      –  Nhân vật thực, khởi tham ái luyến,

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  328

 

      –  Nhân chỗ ở nên khiến ái tham,

          –  Nhân hữu, phi hữu bao hàm

       Tỷ Kheo vị ấy khởi tham ái tà.

 

      *  Bốn Hành là : Khổ-hành trì-chứng,

          Rồi khổ-hành tốc-chứng, biết qua

              Lạc-hành trì-chứng thứ ba,

       Lạc-hành tốc-chứng chính là thứ tư.

 

      *  Bốn hành khác đi từ từng mục :

          Kham-nhẫn-hành ; điều-phục-hành này,

              Bất-kham-nhẫn-hành như vầy

       Tịch-tịnh-hành nữa điều đây bao hàm.

 

      *  Bốn Pháp Túc : Vô-tham pháp-túc ;

          Rồi vô-sân pháp-túc trải sang

              Chánh-niệm pháp-túc rõ ràng

       Chánh-định pháp-túc lạc an tức thì.

 

      *  Bốn Pháp Thọ là chi ? Phải rõ :

      –  Có pháp thọ hiện tại khổ đau 

              Tương lai quả báo khổ đau.

   –  Pháp thọ hiện tại khổ đau rõ bày

          Nhưng quả báo tương lai an lạc.

      –  Có pháp thọ an lạc hiện đời

              Tương lai quả báo khổ thời.

   –  Pháp thọ an lạc ở đời hiện nay

          Và quả báo tương lai an lạc.

          Bốn pháp thọ tương tác như vầy.

 

          *  Bốn Pháp Uẩn được biết đây :

       Giới uẩn ; Định uẩn  dẫn rày lìa mê

          Công đức uẩn ; Uẩn về giải thoát.

 

      *  Có Bốn Lực là các điều này :

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  329

 

              Tinh-tấn-lực ; Niệm-lực đây

       Định-lực ; Tuệ-lực trình bày rõ ra.

 

      *  Bốn Thắng Xứ  hay là Bốn nguyện : 

          Tuệ thắng xứ diễn tiến đầu tiên

              Đế & Xả thắng-xứ tùy duyên

       Chỉ-tức thắng-xứ, đi liền chẳng lơi.

 

      *  Có Bốn cách trả lời câu hỏi :

      –  Bằng cách nói dứt khoát một đàng,

          –  Bằng cách phân tích rõ ràng,

   –  Bằng cách hỏi lại, chuyển ngang thế cờ,

      –  Hoặc bằng cách tảng lờ, không đáp.

 

      *  Có Bốn Nghiệp  là các điều này :

           –  Hắc nghiệp hắc báo ở đây,

   –  Bạch nghiệp bạch báo như vầy kể ra,

      –  Hắc bạch nghiệp ; hắc và bạch báo,  

      –  Phi hắc phi bạch nghiệp, cộng ngay  

              Phi hắc phi bạch báo này.

       Tận diệt các nghiệp như vầy trước sau.

 

      *  Bốn pháp cần phải mau chứng ngộ :

      – Túc mạng cần chứng ngộ bởi gì ?

              Bởi niệm – hành giả liễu tri.

   –  Sinh tử chứng ngộ do vì nhãn căn.

      –  Tâm giải thoát bởi thân, chứng ngộ.

      –  Lậu tận cần chứng ngộ cho mau

              Bởi tuệ - cứu kính làm đầu.

 

      *  Bộc lưu – nước lũ – kể vào bốn lưu :

          Dục-bộc-lưu ; bộc-lưu về hữu

          Kiến-bộc-lưu ; nước lũ vô-minh.

 

          *  Bốn Ách : – Dục ách phát sinh, 

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  330

 

       Hữu ách ; Kiến ách ; Vô minh ách này.

 

      *  Bốn Ly ách như vầy : Ly dục

          Ly hữu ách không lúc nào ngơi

              Ly kiến ách, chẳng đổi dời

       Ly vô minh ách để đời thanh tân.

 

      *  Bốn Hệ Phược : Tham-thân hệ-phược

          Đến Sân-thân hệ-phược như vầy

              Giới-cấm-thủ thân-hệ đây

       Thử-thực-chấp thân-hệ này kể ra.

 

      *  Có Bốn Thủ, đó là Dục thủ ;

          Kiến thủ ; Giới cấm thủ – cùng là

              Ngã thuyết thủ nữa kể ra.

 

   *  Bốn Sanh  là Noãn sanh và Thai sanh

          Cùng Thấp sanh, Hóa sanh – bốn loại.

 

      *  Bốn Nhập Thai –  Đại loại có loài :

          –  Không biết lúc nhập mẫu thai  

       Không biết mình trú mẫu thai bao ngày

          Xuất ra khỏi mẫu thai chẳng biết,

          Loại thứ nhất của việc nhập thai.

          –  Có loại biết lúc nhập thai

       Nhưng khi trú ở, xuất thai chẳng tường.

          Đó là phương nhập thai đệ nhị.

      –  Cũng có loài biết kỹ nhập thai

              Tỉnh giác khi trú mẫu thai

       Nhưng không biết lúc thai này xuất ra,

          Loại nhập thai thứ ba đề cập.

      –  Loại tỉnh giác khi nhập mẫu thai

              Tỉnh giác khi trú mẫu thai

       Tỉnh giác biết rõ lúc thai ra ngoài,

          Loại thứ tư nhập thai được kể.

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  331

 

      *  Phương cách được tự thể mới, do : 

          –  Ý chí của mình quyết lo

       Không phải có được là do ý người.

      –  Do ý chí của người quyết chí

          Không phải do ý chí của mình.

          –  Chính do ý chí của mình

       Cùng với ý chí đồng minh của người.

      –  Không do nơi chính mình ý chí

          Cũng không do ý chí người nào.

 

          *  Bốn sự cúng dường  là sao ?

       Thế nào bất tịnh ? Thế nào tịnh thanh ?

      –  Người cúng dường tâm thành, thanh tịnh 

          Người thọ nhận bất tịnh, mê si.

          –  Người cúng không thanh tịnh chi

       Nhưng người thọ nhận hành trì tịnh thanh.

      –  Người cúng dường không thanh tịnh hẳn 

          Người thọ nhận cũng chẳng tịnh thanh.

          –  Người cúng dường rất tịnh thanh

       Người thọ nhận cũng tâm lành tịnh thanh.

.

      *  Bốn nhiếp pháp biết rành : Ái ngữ ;

          Cùng Bố thí ; Đồng sự ; Lợi hành.

 

          *  Bốn Phi thánh ngôn  chẳng lành :

       Vọng ngữ ; lưỡng thiệt – tinh ranh hại người,

          Cùng ác khẩu và lời ỷ ngữ

       ( Nói dối ; sự đâm thọc lời tà ;

              Lời độc ác ; lời ba hoa

       Nói chuyện phù phiếm, dan ca phí thời ).

 

      *  Bốn Thánh ngôn :  – Tránh lời ác độc ;

      –  Tránh hai lưỡi đâm thọc bất hòa ;

          –  Tránh nói dối trá xấu xa ;

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  332

 

   –  Tránh nói vô ích ba hoa, phí giờ.

 

      *  Phi thánh ngôn khác  do bốn loại :

      –  Không thấy mà nói thấy mọi bề,

          –  Không nghe mà lại nói nghe,

   –  Không nghĩ nói nghĩ, dấu che thực tình,

      –  Điều không biết nói mình biết rõ.

 

      *  Bốn Thánh ngôn khác đó là chi ?

          –  Không thấy, nói không thấy gì,

   –  Không nghe, nói rõ mình thì không nghe,

      –  Không nghĩ về, nói mình không nghĩ,

      –  Không biết kỹ, nói không biết qua.

 

          *  Bốn Phi thánh ngôn khác là :

   –  Thấy nói không thấy, điêu ngoa mọi bề,

      –  Nghe mà nói không nghe, đáng bỉ,

      –  Nghĩ mà nói không nghĩ, tệ thay !

          –  Biết nói không biết, không hay.

 

   *  Bốn Thánh ngôn khác thẳng ngay mọi thời :

      –  Biết nói biết ; Thấy thời nói thấy ;

      –  Nghĩ nói nghĩ ; Nghe vậy nói nghe.

 

          *  Bốn loại người  được nói về :

   –  Người thường làm khổ mọi bề tự thân

          Siêng năng làm khổ thân, tự phạt.

      –  Người làm cho người khác khổ đau

              Siêng làm người khác khổ đau.

   –  Người siêng làm khổ nhắm vào tự thân

          Cũng siêng làm tha nhân đau khổ.

      –  Người không làm đau khổ cho mình

              Không siêng năng làm khổ mình,

       Cũng không làm khổ tội tình tha nhân

          Không siêng năng làm người khác khổ.

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  333

 

          Chính vì chỗ vị ấy mọi thời

              Không làm khổ mình, khổ người,

       Ngay trong hiện tại sống đời tịnh thanh

          Sống ly dục, thiện lành, tịch mặc

          Không dính mắc, thánh thiện, lạc an.

 

          *  Bốn loại người khác nói sang :

   –  Người hành tự lợi, không màng lợi tha.  

      –  Người lợi tha, không hành tự lợi.

      –  Không tự lợi, không cả lợi tha.

          –  Hành cả tự lợi, lợi tha.

 

   *  Bốn loại người khác kể ra thế nào ?

      –  Sống trong tối, hướng vào bóng tối.

      –  Sống trong tối, hướng ánh sáng ngay.

          –  Sống trong ánh sáng như vầy

       Hướng đến bóng tối đen dày chơi vơi.

      –  Lại loại người sống trong ánh sáng

          Luôn hướng đến ánh sáng quang hoa.

 

          *  Bốn loại người khác, kể ra :

   –  Một là bất động cũng là Sa-môn ;

      –  Xích liên hoa Sa-môn được thấy ;

      –  Bạch liên hoa vị ấy Sa-môn

          –  Bốn là Diệu thiện Sa-môn.

 

       Bốn Pháp đã được Thế Tôn giảng bày      

          Vị đã biết đủ đầy, đã thấy 

          Khéo giảng Pháp tự tại, từ hòa

              Hiệu năng hướng dẫn sâu xa

       Hướng đến an tịnh, Phật Đà giảng sâu,

          Mọi người cần cùng nhau tụng đọc

          Không tranh luận, bực dọc sân si,

              Để Phạm hạnh được duy trì

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  334

 

       Lâu dài thanh tịnh, uy nghi mọi thì.

          Vì hạnh phúc và vì an lạc

          Vì thương tưởng đến các chúng sinh

              Chư Thiên, loài Người, hữu tình

       Đó là Chánh Pháp siêu minh, nhiệm mầu.

 

 

-  II  -

 

          Các Hiền-giả ! Thế nào Năm Pháp

          Được Thế Tôn diễn đạt, trình bày ?       

              Ngài dạy Năm pháp như vầy

       Mọi người cần phải theo đây hành trì :

 

      *  Năm Uẩn thì đầu tiên Sắc uẩn ;

          Tiếp : Thọ uẩn ; Tưởng uẩn ở đây,

              Hành uẩn ; Thức uẩn đủ đầy.

 

   *  Có Năm Thủ uẩn như vầy, kể ra :

          Sắc thủ uẩn ; Thọ là thủ uẩn ;

          Tưởng thủ uẩn ; Hành thủ uẩn này 

              Cùng Thức thủ uẩn trình bày.

 

   *  Năm Dục Công Đức như vầy nói qua :

      –  Sắc do là nhãn căn nhận thức  

          Sắc này thực khả ái, mỹ miều

              Khả hỷ, khả lạc, yêu kiều

       Kích thích lòng dục, càng nhiều đắm say.

      –  Tiếng do tai nghe và nhận thức,

      –  Mũi nhận thức, phân biệt mùi hương,  

          –  Lưỡi nhận thức vị tinh tường,

   –  Xúc do thân cảm xúc, thường nhận ra.

          Là khả ái hay là khả hỷ

          Là khả lạc, khả ý trải qua

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  335

 

              Kích thích lòng dục xấu xa

       Duyên với ngũ uẩn cùng là ngũ căn.

      *  Có năm Thú kể dần tiếp tục :

      –  Cõi địa ngục thọ khổ vô vàn,  

          –  Bàng sanh – xương sống nằm ngang,

   –  Ngạ quỷ đói khát than van kêu cầu,

      –  Còn loài Người khác nhau duyên phước,

      –  Cõi Chư Thiên hưởng được lạc an.

 

          *  Năm Xan tham hiểu rõ ràng :

   –  Xan tham trú xứ ; tham xan gia đình ;

      –  Xan tham những vật mình thu hoạch ;

      –  Xan tham đối với sắc một phần,

          –  Xan tham đối với pháp trần.

 

   *  Có năm Triền cái, ta cần nêu ra :

      –  Thứ nhất là Dục tham triền cái ;

      –  Sân triền cái ;  –  Hôn trầm thụy miên ;

          –  Trạo cử hối quá liên miên

   –  Hoài nghi triền cái đi liền chẳng phân.

 

      *  Rồi đến năm Hạ phần kiết sử

          Là Thân kiến , tuần tự Nghi phần,

              Giới cấm thủ cùng Tham ; Sân.

      

   *  Có năm Kiết sử thượng phần, trải qua  :

          Là Sắc tham ; Mạn và Trạo cử ;

          Vô sắc tham ; tuần tự : Vô minh.

 

          *  Năm Học xứ : Không sát sanh                                        

       Không hề trộm cắp ; Không hành tà dâm ;

          Không nói láo ; Không tầm uống rượu.

 

      *  Bất năng xứ  thành tựu ra sao ?

              Vị Lậu tận Tỷ Kheo nào

       Không thể cố ý phạm vào giới minh :

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  336

 

      –  Không sát hại hữu tình đang sống,

      –  Không chủ động trộm cắp của người, 

           –  Không hành dâm, trong sạch đời,

   –  Không nói vọng ngữ, những lời dối gian,

      –  Không tham gia những màn sát phạt

          Các thú vui dục lạc như đời.

 

          *  Năm sự tổn thất, các nơi :

   –  Thân thuộc tổn thất, đổi dời biết nhiêu !

      –  Tài sản tổn ; Giới nhiều tổn thất ;

      –  Kiến tổn thất ; Bệnh tật tổn hao.

 

              Các Hiền-giả ! Phải hiểu sâu :

       Các loại tổn thất thuộc vào : người thân

          Thuộc tài sản hay phần bệnh tật

          Sau khi mất, người ấy không hề

              Khổ giới, địa ngục sinh về.

       Nhưng loại tổn thất thuộc về Giới đây,

          Và Kiến tổn điều này cũng vậy,

          Sau khi chết, người ấy đọa trầm

              Sinh vào địa ngục tối tăm

       Khổ giới, ác thú – khó tầm lạc an.

 

      *  Sự thành tựu rõ ràng năm hạng

          Là Thân-thuộc ; Tài-sản tựu-thành

              Vô-bệnh thành-tựu – an lành

       Giới & Kiến-thành-tựu tịnh thanh vô cùng.

 

          Các Hiền-giả ! Nói chung cố hữu

          Hữu tình nào thành tựu các phần :

              Tài sản, vô bệnh, người thân

       Không sinh thiện thú, cõi trần, cõi Thiên.

          Nhưng chỉ riêng tựu thành về Giới &

          Kiến-thành-tựu dẫn tới cõi Thiên,

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  337

 

              Thiện thú, cõi đời lạc yên.                  

 

   *  Năm điều nguy hiểm dành riêng những người :

          Người ác giới hay người phạm giới.

          Các Hiền-giả ! Ác giới người nào

              Vì phạm giới luật thanh cao

       Do sự phóng dật, biết bao hại điều :

      –  Thiệt hại nhiều về phần tài sản,

      –  Tiếng xấu đồn vô hạn xấu xa,

          –  Khi vào hội chúng như là

       Chúng Sát-đế-lỵ hay Bà-la-môn

          Thường sợ sệt, tâm hồn dao động,

      –  Khi mạng chung mê vọng loạn tâm,

          –  Sau khi chết, bị đọa trầm

       Khổ giới, địa ngục – khó tầm lạc an.

 

      *  Năm lợi ích của hàng giữ giới :

          Người đủ giới, giữ giới tịnh thanh

              Nhờ không phóng dật thực hành :

   –  Tài sản sung túc sẵn dành vinh hoa,

      –  Tiếng tốt được lan xa đồn khắp,

      –  Khi đến gặp hội chúng nơi nào

              Bàn-môn & Sát-đế-lỵ nào

       Vẫn giữ bình tỉnh, không dao động gì,

      –  Lúc sắp chết chẳng chi dao động

          Không mê vọng, sợ sệt lung tung,

          –  Sau khi thân hoại mạng chung

       Sinh vào thiện thú, Thiên cung, cõi đời.

 

      *  Pháp Nội Tâm  năm nơi, mục đích

          Tỷ Kheo cần khi chỉ trích ai :

          –  Tôi nói đúng thời, hòa hài 

       Không phải chỉ trích vị đây phi thời.   

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  338

 

      –  Tôi nói lời đúng vào sự thật

          Nói không sai sự thật chút nào.

          –  Tôi nói từ tốn, ngọt ngào

       Không nói ác khẩu, cay sâu ngang tàng.

      –  Tôi nói lời hoàn toàn lợi ích

          Không phải không lợi ích, thừa dư.

          –  Tôi nói với cả tâm Từ

       Không lời sân hận, đoạn trừ sân tâm.

 

      *  Năm Cần Chi  thâm trầm cao thượng :

      –  Vị Tỷ Kheo tin tưởng sâu xa  

              Sự giác ngộ của Phật-Đà

       Đại A-La-Hán cũng là Thế Tôn

          Đại Sa-môn, bậc Minh Hạnh Túc

          Chánh Đẳng Giác điều phục, thuần từ,

              Thiện Thệ , Điều Ngự Trượng Phu,

       Thế Gian Giải, Thiên Nhân Sư nghiêm hòa.

          Ngài cũng là bậc Vô Thượng Sĩ,

          Tin tưởng bậc Đại trí vô biên.

 

          –  Vị ấy thiểu bệnh, vô phiền

       Điều hòa tiêu hóa, an nhiên tự mình

          Không lạnh, nóng, trung bình giới hạn

          Hợp với sự tinh tấn nhiệt tình.

 

          –  Vị ấy không dối, bất minh

       Lường đảo, nêu rõ tự mình như chân

          Đối với Chân Đạo Sư chứng đạt ;

          Đối với các vị khác cao minh

              Các đồng Phạm hạnh với mình.

 

    –  Vị ấy tinh tấn giữ gìn siêng năng

          Trừ ác pháp và hằng thành tựu

          Các thiện pháp, trường cữu kiên trì

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  339

 

              Cương quyết nỗ lực thực thi

       Với các thiện pháp chẳng chi e dè.

 

      –  Vị ấy có mọi bề tuệ trí

          Thành tựu trí hướng đến diệt sanh

              Của các pháp đều rõ rành

       Đạt Thánh quyết trạch đưa nhanh đến phần

          Sự đoạn diệt chánh chân các khổ.

          Đây công bố về năm Cần chi.

 

          *  Năm Tịnh Cư Thiên là gì ?

   –  Vô Phiền Thiên giới uy nghi cõi Trời.  

      –  Vô Nhiệt Thiên và Trời Thiện Hiện.

      –  Sắc Cứu Cánh & Thiện Kiến Thiên đàng.

  

          *  Thế nào là Năm Bất Hoàn ?

   –  Là : Trung gian Bát Niết-bàn nghiêm trang,

      –  Vô hành Bát Niết-bàn an lạc,

      –  Rồi Sanh Bát Niết-bàn tịnh hòa,

          –  Hữu hành Bát Niết-bàn, và

   –  Cùng Thượng lưu thú A-Ca-Ni-Sà.

 

      *  Tâm Hoang Vu chính là năm thứ : 

      –  Vị Tỷ Kheo do dự, nghi nan

              Không quyết đoán, tin dở dang

       Không thỏa mãn đối với hàng Đạo Sư.

          Tỷ Kheo ấy do từ nghi tới

          Không tin tưởng tuyệt đối Như Lai

              Không hướng nỗ lực hăng say

       Không có tinh tấn, quyết hay kiên trì.

          Tâm hoang vu được ghi thứ nhất.

 

      –  Cũng như vậy, ngoài Phật Bảo ra

              Đối với Pháp, với Tăng-Già

       Đối với Học Pháp sâu xa vô bờ

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  340

 

          Vị Tỷ Kheo nghi ngờ, do dự

          Không quyết đoán, không tự tinh cần

              Hăng hái, kiên nhẫn giảm dần

       Tâm hoang vu có ba phần thêm đây.

 

      –  Vị Tỷ Kheo thường hay tức giận

          Với các bạn Phạm hạnh đồng tu

              Không hoan hỷ, tâm hoang vu

       Không hướng nỗ lực công phu, kiên trì

          Không tinh tấn chỉ vì do dự.

          Tâm hoang vu đơn cử thứ năm.

 

          *  Tâm Triền Phược cũng có năm :

 

   –  Tỷ Kheo vị ấy có tâm thuộc về

          Không ly tham, không hề ly dục

          Không ly ái, tiếp tục khát khao

              Không ly dục tình chút nào

       Không ly ái nhiễm, dâng trào dục tâm.

          Vị Tỷ Kheo có tâm như vậy

          Thì vị ấy không hướng tinh cần

              Hăng hái, kiên nhẫn giảm dần

       Là tâm triền phược thuộc phần đầu tiên.

 

      –  Vị Tỷ Kheo não phiền do bởi

          Không ly tham đối với các thân

              Đối với các Sắc thiết thân

       Không ly tham với Sắc phần chi chi,

          Không ly dục, không ly khao khát

          Không ly ái, phó mặc dục tình,

              Không ly ái nhiễm vô minh

       Nên tâm không thiết tận tình làm chi

          Không nỗ lực, kiên trì, tinh tấn

          Tâm triền phược ghi nhận : hai, ba.

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  341

 

          –  Các Hiền-giả ! Tiếp theo là

       Tỷ Kheo vị ấy ăn đà quá no

          Không tri túc, khiến cho bao tử

          Không chịu nổi bởi sự ăn nhiều.

              Vị ấy lại hưởng thọ nhiều

       Về sự sung sướng với điều ngủ nghê

          Sự sung sướng thuộc về xúc chạm

          Sự sung sướng đeo bám thùy miên

              Tâm triền phược thứ tư liền.

 

   –  Vị Tỷ Kheo sống triền miên cầu tìm

          Sống Phạm hạnh với niềm hy vọng :

         ‘Với pháp, luật tôi sống hiện nay

              Với giới luật, phạm hạnh này

       Tôi sẽ đạt được như vầy ý riêng  :

          Thành Chư Thiên cõi này cõi khác

          Sống an lạc với các Chư Thiên’.  

              Tâm của Tỷ Kheo này liền

       Không hướng đến sự cần chuyên, kiên trì

          Không tinh tấn, không vì hăng hái

          Tâm triền phược thuộc loại thứ năm.

 

          *  Năm Căn : Nhãn căn ; nhĩ căn ;

       Tỷ & thiệt căn với thân căn – năm phần.

 

      *  Năm Căn khác kể dần thứ vị :  

          Lạc & Khổ & Ưu cùng Hỷ & Xả căn.

    

          *  Năm Căn khác nữa tinh cần :

       Tín & Tấn & Niệm & Định và phần Tuệ căn.

 

      *  Xuất Ly giới năm phần nhớ kỹ :

          Các Hiền-giả ! Vị Tỷ Kheo đây

          –  Tác ý với dục vọng ngay

       Tâm không hướng nhập dục này ở trong

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  342

 

          Không tín lạc, cũng không an trú

          Không chi phối bởi dục vọng ni.

              Tác ý ly dục tức thì

       Và tâm hướng nhập vào ly dục này

          Có tín lạc, nơi đây an trú

          Bị chi phối bởi ly dục ni,

              Nên tâm vị ấy khéo ly

       Khéo tu, khéo khởi những chi phải cần

          Khéo giải thoát, khéo phần ly hệ

          Với dục lạc, cốt để an nhiên

              Và các lậu-hoặc duyên liền

       Tổn hại, nhiệt não ưu phiền khởi lên

          Đều do duyên các điều dục lạc

          Nhưng vị ấy được thoát chúng ngay,

              Dứt cảm thọ cảm giác này.

       Như vậy được gọi ở đây chính là

          Giải thoát ra khỏi bao dục vọng.

 

          Cũng như vậy, do sống tinh cần   

          –  Tỷ Kheo tác ý với Sân ;

   –  Tác ý đối với Hại tâm âm thầm ;

      –  Tác ý với Tự thân & với Sắc

          Không hướng nhập với bốn điều này

              Không tín lạc, trú an đây

       Không bị chi phối bởi đầy hận sân

          Bởi hại tâm & tự thân, bởi sắc.

          Vị ấy thật tác ý Vô sân

              Tác ý với ly hại tâm        

       Tác ý Vô sắc và Thân diệt này

          Có tín lạc ở đây, an trú

          Bị chi phối bởi các nguyên nhân

              Khi tâm hướng nhập vô sân

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  343

 

       Vô sắc cùng ly hại tâm nơi này

          Hướng nhập thân diệt đây tức khắc,

          Tâm Tỷ Kheo ấy thật khéo ly

              Khéo tu, khéo khởi đồng thì

       Lại khéo giải thoát, khéo ly hệ vào

          Sân & hại tâm và vào thân diệt 

          Ly hệ sắc, cần thiết làm ngay.

 

              Các lậu-hoặc, tổn hại này

       Và các nhiệt não đêm ngày khởi lên

          Do từ duyên các phần : sân hận ;

          Sắc ; hại tâm kia, lẫn tự thân

              Vị ấy đối với các phần

       Được giải thoát khỏi, không cần lo toan.

          Cảm giác ấy không còn cảm thọ

          Được gọi đó Giải thoát các phần

              Sân ; hại tâm ; sắc ; tự thân.

       Năm xuất ly giới chánh chân đồng thời.

 

      *  Giải Thoát Xứ năm nơi chân thật :

      –  Vị Tỷ Kheo nghe bậc Đạo Sư

              Hay đồng Phạm hạnh thuần từ

       Thuyết pháp đúng với chân như Pháp mầu

          Với pháp ấy, hiểu sâu nghĩa lý

          Cả văn cú hiểu kỹ và nhanh

              Nhờ hiểu văn, nghĩa rõ, rành

       Liền sinh khoan khoái, hỷ sanh dễ dàng.

          Nhờ hỷ tâm, khinh an liền có

          Nhờ khinh an, lạc thọ sinh ngay.

              Chính nhờ vào lạc thọ này

       Tâm được định tỉnh, như vầy trải qua.

          Giải thoát xứ này là thứ nhất.

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  344

 

      –  Vị Tỷ Kheo chân thật bất hư                   

              Không nghe được bậc Đạo Sư

       Hay đồng Phạm hạnh thuần từ thuyết ra

          Pháp vi diệu sâu xa như vậy,

          Nhưng vị ấy theo sự học qua

              Theo điều nghe, thấy gần xa

       Thuyết pháp rộng rãi khắp ra nhiều người.

 

      –  Hay vị ấy là người chân thật

          Không được nghe từ bậc Đạo Sư

              Hay đồng Phạm hạnh thuần từ

       Thuyết pháp đúng với Chân như Pháp mầu

          Cũng không theo điều nào đã học

          Hay đã nghe, chọn lọc thuyết ra,

              Vị ấy theo điều học qua

       Theo điều nghe, tụng đọc ra Pháp này.

 

      –  Hoặc vị đây không theo cách ấy

          Theo điều học, nghe thấy Pháp Từ

              Dùng tâm tầm cầu, suy tư

       Quán sát Pháp ấy để ‘như pháp’ hành.

      

      –  Không thực hành như trên bốn cách

          Vị Tỷ Kheo dùng cách nhắm vào

              Nắm giữ một định tướng nào

       Và khéo tác ý, khéo mau thọ trì

          Khéo thể nhập do vì trí tuệ,

          Vị Tỷ Kheo nhờ thế hiểu rành

              Nên đối với pháp thiện lành

       Hiểu được nghĩa lý, cú văn rõ ràng

          Nhờ hiểu vậy nên càng khoan khoái

          Nhờ khoan khoái nên hỷ tâm sinh

              Nhờ hỷ, thân khinh an sinh

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  345

 

       Nhờ khinh an, lạc thọ sinh dễ dàng           

          Nhờ lạc thọ, tâm càng định tỉnh.

          Giải thoát xứ ở chính đây ra.

          *  Giải thoát thành thục tưởng  là :

       Khổ tưởng trong vô thường và tiếp, như :  

          Vô thường tưởng ; Đoạn trừ tưởng đó

          Vô ngã tưởng trong khổ, vẫn còn

              Cùng Vô tham tưởng – vuông tròn.

 

       Năm Pháp đã được Thế Tôn dạy rành

          Vị đã biết ngọn ngành, đã thấy 

          Khéo giảng Pháp tự tại, từ hòa

              Hiệu năng hướng dẫn sâu xa

       Hướng đến an tịnh, Phật Đà giảng sâu,

          Mọi người cần cùng nhau tụng đọc

          Không tranh luận, bực dọc sân si,

              Để Phạm hạnh được duy trì

       Lâu dài thanh tịnh, uy nghi mọi thì.

          Vì hạnh phúc và vì an lạc

          Vì thương tưởng đến các chúng sinh

              Chư Thiên, loài Người, hữu tình

       Đó là Chánh Pháp siêu minh, nhiệm mầu.

 

 

* * *

 2.      Các Hiền-giả ! Thế nào Sáu Pháp

          Được Thế Tôn diễn đạt, trình bày ?       

              Ngài dạy Sáu pháp như vầy

       Mọi người cần phải theo đây hành trì :

 

      *  Sáu Nội Xứ tường tri : Nhãn xứ ;

          Nhĩ & Tỉ xứ ; Thiệt xứ ; Ý & Thân.

 

          *  Sáu Ngoại Xứ được kể dần :

       Sắc & Thinh & Hương-xứ, ba phần đầu tiên

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  346

 

          Vị & Xúc & Pháp-xứ liền hiểu tận.

 

      *  Sáu Thức Thân là Nhãn thức phần

              Nhĩ & Tỉ & Thiệt thức ; Ý & Thân.

 

   *  Sáu Xúc Thân  cũng lâng lâng, sáu phần :

          Nhãn & Nhĩ & Tỉ & Thiệt & Thân & Ý xúc.

 

      *  Sáu Thọ Thân : ‘Nhãn xúc sở sanh’,

            ‘ Nhĩ xúc sở sinh thọ’ nhanh

       Tỷ & Thiệt & Thân & Ý xúc sanh thọ cùng.

 

      *  Sáu Tưởng Thân : Sắc cùng Thanh tưởng ;

          Hương & Vị & Xúc & Pháp tưởng đồng cư.        

 

          *  Sáu Tư Thân : Sắc & Thanh tư 

       Hương tư ; Vị & Xúc & Pháp tư sáu phần.

 

      *  Sáu Ái Thân : Sắc & Thanh & Hương ái

          Vị & Xúc ái ; Pháp ái kể ra.

 

          *  Sáu không cung kính Pháp là :

   –  Tỷ Kheo đối với Phật-Đà Đạo Sư

          Không cung kính, chối từ tùy thuận,

      –  Với Pháp, không cung kính thuận hằng,

          –  Không cung kính, tùy thuận Tăng,

   –  Học pháp không kính, thuận hằng cũng không,

      –  Bất phóng dật cũng không cung kính,

      –  Không tùy thuận, cung kính lễ nghi.

 

         *  Sáu cung kính Pháp, thuận tùy :

   –  Cung kính, tùy thuận với vì Đạo Sư,

      –  Với Pháp & Tăng cũng như Học pháp,

          Bất phóng dật – cung kính, thuận tùy

          –  Cung kính, tùy thuận lễ nghi

      (Xã giao, lễ phép), hành trì chánh chân.  

 

      *  Sáu Suy Tư – căn & trần với Hỷ :

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  347

 

          Mắt thấy sắc, hoan hỷ khởi lên

              Sắc ấy được suy tư nên.

       Khi tai nghe tiếng ; mũi liền ngửi hương ;

          Lưỡi nếm vị ; thân thường xúc chạm ;

          Ý nhận pháp ; hoan hỷ khởi lên.

              Khi các hoan hỷ khởi lên

       Các trần như thế được liền suy tư.

 

      *  Sáu suy tư đến Ưu, được kể :

          Mắt thấy sắc, ưu sẽ khởi lên.

              Khi ưu vì Thinh khởi lên

       Hương & Vị & Xúc & Pháp được liền suy tư.

 

      *  Sáu suy tư đến phần Xả  ấy :

          Mắt thấy sắc ; mũi lại ngửi hương ;

              Tai nghe tiếng ; thân xúc thường ;

       Và lưỡi nếm vị ; ý vương pháp trần 

          Xả khởi lên – Sáu trần như thế

          Được suy tư, thứ đệ thực hành.

 

          *  Sáu  Pháp Hòa Kính tịnh thanh :

       Này các Hiền-giả ! Thường hành trì theo

          Vị Tỷ Kheo ở đây thành tựu :

      –  Từ thân nghiệp hiện hữu thực hành

              Trước mặt, sau lưng đều lành

       Với đồng Phạm hạnh tịnh thanh các vì

          Là một pháp thực thi hòa kính

          Tạo từ ái, cung kính, thuận lành

              Đưa đến đoàn kết thuần thành

       Tâm đồng ý hợp, không tranh luận gì.

 

      –  Các Hiền-giả ! Rồi thì khẩu nghiệp

      –  Cùng ý nghiệp – trước mắt, sau lưng   

              Với đồng Phạm hạnh sống chung

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  348

 

       Thành tựu Hòa kính Pháp cùng trải qua

          Tạo từ ái, tạo ra cung kính

          Khiến đoàn kết, thanh tịnh vô tranh,

              Tâm đồng ý hợp, an lành.

   

   –  Đối với đồ vật tịnh thanh cúng dường

          Đúng pháp, do tứ phương tín thí

          Hoặc vật thí khất thực hằng ngày

              Đều đem chia đồng đều ngay

       Giữa các Phích-Khú đủ đầy giới nghiêm

          Sống cùng nhau một niềm hòa kính.

 

      –  Lại Tỷ Kheo thanh tịnh thọ trì

              Giới Luật không bị hoại đi

       Không để phạm giới, kiên trì khâm tuân

          Không tỳ vết, không phần uế tạp

          Mong giải thoát, người trí tán dương

              Hướng đến Thiền định thường thường

       Cùng nhau giữ giới, chủ trương hợp hòa,

          Đó cũng là pháp hòa kính nữa.

 

      –  Các Hiền-giả ! Lại nữa, vị này   

              Sống đời sống chung thẳng ngay

       Hướng dẫn bởi Chánh Kiến đầy thanh cao

          Ý đoạn diệt khổ đau thực hiện

          Thành tựu với chánh kiến điều này

              Thực hành chân chánh thẳng ngay

       Đem đến lợi lạc đủ đầy viên dung 

          Cùng sống chung với đồng Phạm hạnh

          Cùng luận giải chân chánh Pháp mầu

              Trước mặt, sau lưng như nhau,

       Sáu pháp hòa kính thanh cao thiện lành.

 

       * Sáu Tránh Căn sẵn dành được kể :

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  349

 

          Vị Tỷ Kheo thường để tâm mình

          –  Phẫn nộ, uất hận bất bình

       Sống không cung kính trí minh Phật-Đà

          Không tùy thuận Phật và Pháp tịnh

          Không tùy thuận, cung kính Tăng-già

              Học pháp không thành tựu qua,

       Vị ấy tranh luận giữa hòa hợp Tăng

          Do tranh luận nên hằng từ đó

          Khiến mọi người không có lạc an

              Không có lợi ích, nghiêm trang

       Chư Thiên, Nhân loại cũng toàn không vui

          Không hạnh phúc, dập vùi đau khổ.

 

          Các Hiền-giả ! Phải cố đoạn trừ

              Ác tránh căn ấy, chẳng từ  

       Nếu thấy căn ấy cho dù ở đâu,

          Giữa các vị, trước sau các vị.

          Nếu không thấy, giữ kỹ đêm ngày

              Đừng cho ác tránh căn đây

       Có dịp làm hại tương lai sau này.

          Làm như vầy là ngăn nguy hại

          Ác tránh căn đến mãi tương lai.

 

          –  Lại nữa, Tỷ Kheo vị này

       Che dấu, giả dối với ngay mọi người

      –  Thường xan tham, tính thời tật đố,

      –  Thường lừa đảo và cố gạt lường,   

          –  Có ác dục, tà kiến thường.

   –  Chấp trước sở kiến, khó phương bỏ rời

          Kiên trì giữ gìn nơi sở kiến

          Cứ khư khư thực hiện ý mình.

 

              Những tính xấu xa bất minh

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  350

 

       Sống không cung kính trí minh Phật-Đà

          Không tùy thuận Phật và Pháp tịnh

          Không tùy thuận, cung kính Tăng-già

              Học pháp không thành tựu qua,

       Vị ấy tranh luận giữa hòa hợp Tăng

          Do tranh luận nên hằng từ đó

          Khiến mọi người không có lạc an

              Không có lợi ích, nghiêm trang

       Chư Thiên, Nhân loại cũng toàn không vui

          Không hạnh phúc, dập vùi đau khổ.

 

          Các Hiền-giả ! Phải cố đoạn trừ

              Các Ác tránh căn, chẳng từ  

       Nếu mà thấy chúng cho dù ở đâu

          Giữa các vị, trước sau các vị.

          Nếu không thấy, giữ kỹ đêm ngày

              Đừng cho các tránh căn đây

       Có dịp làm hại tương lai sau này.

          Làm như vầy là ngăn nguy hại

          Ác tránh căn đến mãi tương lai.

 

          *  Sáu Giới : Địa & thủy giới này

       Hỏa & phong & không & thức giới đây đủ đầy.

 

      *  Sáu Xuất Ly Giới đây có đủ :

          Có Phích-Khú nọ nói lầm bầm :

            “ Tôi đã tu tập Từ tâm ;

       Bi tâm tu tập ; Hỷ tâm thực hành ;

          Tu Xả tâm ; tu tâm Vô tướng ;

         ‘Tôi có mặt’ là hướng lập trường

              Hay là quan điểm khác thường

      ‘Cái này tôi đó’ tương đương như vầy,

          Tôi từ khước cả hai đã dẫn

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  351

 

          Không được tôi chấp nhận ở đây.

 

          –  Nhưng khi tu Từ tâm này 

       Làm cho sung mãn, ở đây làm thành

          Cỗ xe vững, làm thành căn cứ

          Để an trú, khéo léo tinh cần

              Tuy vậy vẫn có Sân tâm

       Thường xuyên ngự trị trong tâm tôi hoài.

 

      –  Còn tu hoài Bi tâm nỗ lực

          Thì Hại tâm cứ chực tuôn tràn.

 

          –  Tu tập Hỷ tâm tinh cần

       Bất lạc tâm vẫn nhiều lần phát huy.

 

      –  Tu Xả tâm kiên trì cố sức

          Nhưng tâm tôi hừng hực Tham tâm.

 

          –  Tu Giải thoát Vô tướng tâm

       Nhưng Thức tôi vẫn âm thầm chạy theo

          Với các tướng, bám đeo theo đó.   

 

      –  Còn quan điểm ‘Tôi có mặt’ đây

              Quan điểm ‘Tôi là cái này’

       Tôi không chấp nhận cả hai bấy giờ,

          Nhưng mũi tên nghi ngờ, do dự

          Vẫn ám ảnh, an trú trong tôi ”.

 

              Các Hiền-giả ! Nghe vậy thời

       Các vị cần phải nói lời trực ngôn :

       “ Chớ hiểu lầm Thế Tôn như thế !

          Chớ vu khống Thiện Thệ Phật-Đà !

              Thế Tôn không hề nói ra

       Những điều như thế, thật là lầm sai ”.

          Sự kiện này vốn không như vậy

          Trường hợp cũng không phải thế này.

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  352

 

          –  Nếu tu tập Từ tâm này

       Làm cho sung mãn, ở đây làm thành

          Cỗ xe vững, làm thành căn cứ

          Để an trú, khéo léo tinh cần

              Thế mà vẫn có tâm Sân

       An trú, ngự trị lớn dần trong ta.

          Sự kiện không xảy ra như vậy

          Từ tâm ấy thừa có khả năng

              Giải thoát sân tâm đằng đằng.

 

   –  Cũng vậy, tu tập về phần Bi tâm

          Cho sung mãn, thậm thâm quảng bác

          Có khả năng giải thoát Hại tâm.

          –  Còn như tu tập Hỷ tâm

       Sung mãn, khéo léo tinh cần nhiệt tâm

          Giải thoát bất lạc tâm, nhất định. 

      –  Tu tập chính giải thoát Xả tâm

              Nỗ lực , sẽ thoát Tham tâm.

   –  Tu giải thoát Vô tướng tâm điều này

          Làm sung mãn, đủ đầy vô lượng

          Có khả năng các tướng thoát xa.

 

          –  Còn như quan điểm kể qua

      ‘Tôi có mặt’ với ‘Tôi là chính đây’.

          Sự kiện này không hề xác đáng

          Nhờ khước từ ngạo mạn ngập tràn

             ‘Tôi có mặt’ đầy kiêu gàn

       Mũi tên do dự, nghi nan tiêu liền,

          Được giải thoát hoàn toàn như vậy.

 

      *  Sáu Vô Thượng  điều ấy thế nào ? 

              Kiến & Văn vô thượng thanh cao

       Lợi đắc vô thượng thuộc vào tịnh thanh

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  353

 

          Niệm & Học giới và Hành vô thượng.

 

      *  Sáu Niệm Xứ  vô lượng chánh chân :

              Niệm Phật ; niệm Pháp ; niệm Tăng ;

       Niệm Giới ; niệm Thí và hằng niệm Thiên.

 

      *  Sáu Hằng Trú  uyên nguyên chân thật :

      –  Mắt Tỷ Kheo thấy sắc rõ liền  

              Không hoan hỷ, không ưu phiền

       Trú xả, chánh niệm và liền giác an.

      –  Lưỡi nếm vị ; tai đang nghe tiếng ;

      –  Thân cảm xúc ; mũi hiện ngửi hương ;

          –  Ý nhận thức pháp thường thường…

      

       Không có hoan hỷ, không vương ưu phiền

          An trú xả và liền chánh niệm

          Luôn tỉnh giác, vô nhiễm tịnh thanh.

 

          *  Sáu Sinh Loại, giải ngọn ngành :

   –  Người hắc sanh sống chẳng lành, tạo ra  

          Các hắc pháp trải qua cùng khắp.

      –  Người hắc sanh, bạch pháp tạo lành.

          –  Cũng có những người hắc sanh

       Phi hắc phi bạch pháp dành trải sang

          Và sống tạo Niết-bàn, uyên áo.

      –  Người bạch sanh sống tạo pháp lành,

          –  Tạo hắc pháp người bạch sanh,

   –  Người bạch sanh giữ pháp lành thực thi 

          Niết-bàn, phi hắc phi bạch pháp,

          Sáu sinh loại phức tạp nêu ra.

 

          *  Sáu quyết trạch phần tưởng là :

   –  Khổ tưởng trên vô thường và tiếp, như :

      –  Vô thường tưởng ; Đoạn trừ tưởng đó ;

      –  Vô ngã tưởng trên khổ, biết ngay 

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  354

 

          –  Vô tham tưởng ; diệt tưởng này.

 

       Sáu Pháp được Đức Như Lai dạy rành

          Vị đã biết ngọn ngành, đã thấy 

          Khéo giảng Pháp tự tại, từ hòa

              Hiệu năng hướng dẫn sâu xa

       Hướng đến an tịnh, Phật Đà giảng sâu,

          Mọi người cần cùng nhau tụng đọc

          Không tranh luận, bực dọc sân si,

              Để Phạm hạnh được duy trì

       Lâu dài thanh tịnh, uy nghi mọi thì.

          Vì hạnh phúc và vì an lạc

          Vì thương tưởng đến các chúng sinh

              Chư Thiên, loài Người, hữu tình

       Đó là Chánh Pháp siêu minh, nhiệm mầu.

 

* * *

 3.      Các Hiền-giả ! Thế nào Bảy Pháp

          Được Thế Tôn diễn đạt, trình bày ?       

              Ngài dạy Bảy pháp như vầy

       Mọi người cần phải theo đây hành trì :

 

      *  Bảy Tài Sản là chi được tính ?      

          Thất Thánh Tài cũng chính là đây :

              Tín tài ; Giới tài ; Tàm tài ;

       Quý tài ; Văn & Thí & Tuệ tài được ghi. 

 

      *  Bảy Giác Chi : Giác-chi Niệm trước

          Rồi có được Trạch-pháp giác-chi ;

              Tinh-tấn và Hỷ giác-chi ;

       Khinh-an & Định & Xả giác-chi – bảy phần.

 

      *  Bảy Định Cụ : Chánh chân tri kiến ;

          Chánh ngữ thiện và chánh tư duy ;

              Chánh nghiệp ; chánh mạng hành trì

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  355

 

       Chánh tấn, chánh niệm, vị chi bảy điều.

 

      *  Phi Diệu pháp bảy điều tất cả : 

          Các Hiền-giả ! Đều chẳng nên làm

              Tỷ Kheo bất tín ; vô tàm ;

       Vô quý ; giải đải ; bao hàm thiểu văn ;

          Cùng thất niệm và hằng liệt tuệ.

 

      *  Bảy Diệu Pháp được kể rõ ràng :

              Tỷ Kheo có tín vững vàng

       Có tàm ; có quý  ; bao hàm đa văn ;

          Có tinh tấn ; niệm hằng an trú

          Có trí tuệ  đầy đủ, minh quang

              Là bảy diệu pháp nghiêm trang. 

 

   *  Bảy Thượng Nhân Pháp vẹn toàn hành theo :

          Vị Tỷ Kheo tự tri ; tri pháp ;

          Tri nghĩa ; hạp tri lượng ; tri thời ;

              Tri chúng ; tri nhân nơi nơi.

 

   *  Bảy Thù Diệu Sự của người hành theo :

          Các Hiền-giả ! Tỷ Kheo tha thiết

      –  Cứ mãi miết học pháp hành trì

              Khát vọng học pháp hành trì

       Từ thì hiện tại đến thì tương lai.

      –  Tha thiết ngay và luôn khát vọng

          Về quán pháp, đời sống tương lai.

          –  Điều phục dục vọng cũng vầy,

   –  Tinh tấn & an tịnh kéo dài tương lai.

      –  Quán sát hoài về phần tự niệm,

      –  Với kiến giải, sở kiến hiểu dần.

              Vị ấy tha thiết ân cần

       Với các điều ấy, bao lần khát khao

          Để nhắm vào tương lai đạt được

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  356

 

          Các điều ấy sau trước nói trên.                 

          *  Bảy Tưởng lần lượt nêu lên :

       Bất-tịnh & Vô-ngã-tưởng bên Vô-thường &

          Hoạn-nạn-tưởng ; cùng phường Đoạn-tưởng ;

          Ly-tham-tưởng ; Diệt-tưởng đi liền.

 

          *  Bảy Lực : Tín lực đầu tiên

       Tinh tấn & Tàm & Quý lực liền kể ra

          Cùng Niệm & Định lực và Tuệ lực.

 

      *  Bảy Thức Trú chân thực thế nào ?

              Này các Hiền-giả ! Hiểu mau :

   –  Hữu tình có loại khác nhau vô cùng

          Thân sai biệt, tưởng cùng sai biệt 

          Như loài Người, chi tiết khác riêng

              Hay là một số Chư Thiên

       Một số đọa xứ, não phiền chúng sinh,

          Đây Thức trú phát sinh thứ nhất.

      –  Loài hữu tình thân rất khác nhau

              Nhưng tưởng đồng loại thuộc vào

       Như Trời Phạm Chúng lần đầu hóa sinh

        ( Đạt Sơ thiền tự mình thiền định ) 

          Loại Thức trú ấy chính thứ hai.

 

          –  Hữu tình thân đồng loại đây

       Nhưng tưởng sai biệt, như vầy cõi riêng

          Như chư Thiên Quang-Âm Thiên vậy,

          Thức trú ấy là loại thứ ba.

 

          –  Hữu tình thân đồng loại, và

       Tưởng cũng đồng loại trải qua đồng thời

          Như chư Thiên cõi Trời Biến Tịnh

          Thức trú bốn, được tính đến dần.

          –  Có những hữu tình tinh cần

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  357

 

       Điều phục các tưởng về Sân mọi bề

          Vượt mọi tưởng thuộc về Sắc ấy

          Không tác ý các tướng khác xa

              Không-vô-biên-xứ chứng qua

       Chỉ với niệm : ‘Hư không là vô biên’,

          Loại thứ năm tính riêng Thức trú.

      –  Loại hữu tình tự chủ vượt liền 

              Khỏi Không-vô-biên-xứ Thiên

       Rồi chứng vào Thức-vô-biên-xứ này

          Với niệm ngay : ‘Vô biên là Thức’,

          Thức trú thực thứ sáu tính sang.

 

          –  Có những hữu tình vững vàng

       Thức-vô-biên-xứ hoàn toàn vượt qua

          Vô-sở-hữu-xứ đà chứng thật

         ‘Không có vật gì cả’ ở đây,

              Thức trú thứ bảy loại này.

       Là bảy Thức trú như vầy nêu lên.

 

      *  Bảy loại người đáng nên kính trọng :

      –  Tuệ giải thoát, đáng trọng người này, 

          –  Câu phần giải thoát ở đây,

   –  Thân chứng & Kiến chí – cả hai thiện lành,

      –  Tùy pháp hành và hành Tùy tín,

      –  Cùng với Tín giải thoát – an nhiên.

 

          *  Thế nào là  Bảy tùy miên :

       Dục ái & Sân & Kiến tùy miên não phiền

          Nghi tùy miên ; Hữu tham và Mạn

          Cùng với khoản Vô minh tùy miên.

    

          *  Có Bảy Kiết Sử hiện tiền :

       Ái & Sân kiết sử đi liền đinh ninh

          Mạn & Hữu tham & Vô minh kiết sử

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  358

 

          Kiến kiết sử ; kiết sử về Nghi.

 

          *  Bảy Diệt tránh pháp hành trì

       Có thể đình chỉ tức thì, diệt đi

          Các tránh pháp những gì đang khởi

          Phải hiểu tới để cố thực thi :

           – Ưng dữ hiện tiền tỳ-ni,

    – Ưng dữ ức niệm tỳ-ni  bảo tồn,   

       – Cùng Ưng dữ tự ngôn trị ấy 

       – Rồi Đa-mích tội tướng, đồng thì

           – Ưng dữ bất si tỳ-ni,

    – Đa nhân mích tội tương tùy ở đây,

       – Như thảo phú địa này được thấy,

          Bảy Diệt Tránh pháp ấy như vầy.

       

              Thế Tôn tuệ trí lành thay !

       Bảy Pháp được Đức Như Lai dạy rành 

          Vị đã biết ngọn ngành, đã thấy 

          Khéo giảng Pháp tự tại, từ hòa

              Hiệu năng hướng dẫn sâu xa

       Hướng đến an tịnh, Phật Đà giảng sâu,

          Mọi người cần cùng nhau tụng đọc

          Không tranh luận, bực dọc sân si,

              Để Phạm hạnh được duy trì

       Lâu dài thanh tịnh, uy nghi mọi thì.

          Vì hạnh phúc và vì an lạc

          Vì thương tưởng đến các chúng sinh

              Chư Thiên, loài Người, hữu tình

       Đó là Chánh Pháp siêu minh, nhiệm mầu.

 

 * * *

 

 

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  359

 

 

- III –

 

 1.      Các Hiền-giả ! Thế nào Tám Pháp

          Được Thế Tôn diễn đạt, trình bày ?       

              Ngài dạy Tám pháp như vầy

       Mọi người cần phải theo đây hành trì :

 

      *  Tám Tà  là Tà tri kiến, tiếp

          Tà tư duy ; Ngữ & Nghiệp & Mạng tà

              Tà tinh tấn ; Niệm & Định tà.

 

   *  Bát Chánh cần phải nghiêm hòa thực thi :

          Chánh tri kiến ; Tư duy chân chánh ;

          Rồi Chánh ngữ và Chánh nghiệp này,

              Chánh mạng ; Chánh tinh tấn đây,

       Chánh niệm ; Chánh định, ; như vầy mãn sung.

 

      *  Tám hạng người đáng cung kính nhất :

      –  Hạng Dự Lưu hay bậc Thất Lai

              Chứng đạo, chứng quả hòa hài

       Tu-Đà-Hoàn quả có hai bậc này.

      –  Tư-Đà-Hàm – Nhất Lai đạo, quả

          Cũng hai bậc với quả vị này.

          –  A-Na-Hàm – bậc Bất Lai

       Hạng đã thành tựu đạo hay chứng rồi.

      –  A-La-Hán chứng ngôi Ứng Cúng 

          Bậc Vô Học và cũng Vô Sinh

              Chứng đạo, chứng quả tự mình

       Bốn đôi tám vị, cao minh trên đời.

 

      *  Giải đãi sự, tám nơi cần biết :

      –  Vị Tỷ Kheo có việc phải làm   

              Nhưng vị này lại nghĩ thầm :

      ‘Ta nay có việc phải làm rồi đây !

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  360

 

          Nếu làm việc, thân này mệt mỏi

          Ta hãy nằm để khỏi làm chi !’.

              Vị ấy nằm xuống tức thì

       Không có tinh tấn, chỉ vì bản thân

          Chưa thành tựu điều cần thành tựu

          Chưa đạt tới hiện hữu điều cần

              Cũng chưa chứng ngộ những phần

       Phải cần chứng ngộ, chánh chân việc này,

          Giải đãi sự như vầy thứ nhất.

 

      –  Các Hiền-giả ! Biếng nhát, lòng vòng

              Tỷ Kheo vị ấy nhủ lòng :

      ‘Công việc ta đã làm xong hài hòa

          Do làm việc, thân ta mệt mỏi

          Ta hãy nẳm để khỏi mệt thêm’.

              Rồi thì vị ấy nằm êm.

 

   –  Hay là vị ấy không thèm đi ngay

          Việc phải đi đường dài thiên lý

          Vị ấy nghĩ : ‘Đường ấy phải đi

              Với ta, dằng dặc gian nguy

       Thân ta mỏi mệt nếu đi như vầy

          Vậy ta hãy nằm ngay xuống nghỉ’.

 

      –  Hay một vị Phích-Khú đã đi

              Con đường thiên lý phải đi

       Nghĩ rằng : ‘Ta mới vừa đi dặm dài

          Thân ta nay rã rời mỏi mệt

          Hãy vất hết, nằm xuống nghỉ thôi !’

              Nghĩ xong, nằm xuống tức thời

       Không có tinh tấn, biếng lười kéo theo.

 

      –  Hay trường hợp Tỷ Kheo một vị

          Đi khất thực đô thị & xóm làng

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  361

 

              Không nhận vật thí dễ dàng

       Đồ ăn mềm, cứng  sẵn sàng thí ra

          Không đầy đủ như là mong muốn

          Khất thực vậy, thân luống mệt nhiều

              Không có lợi ích bao nhiêu

       Vậy ta nằm nghỉ, khỏi điều mệt thân’.  

 

      –  Vị Tỷ Kheo khi cần khất thực

          Tại thị xã, khất thực tại làng

              Đồ ăn mềm, cứng cúng dàng

       Đầy đủ như ý, muôn vàn an tâm.

          Nhưng vị ấy nghĩ thầm : ‘Quả thực

          Sau khi ta thọ thực đã xong

              Thân ta nặng nề như đồng

       Không làm gì được, chỉ mong nằm rồi !’

          Rồi vị ấy tức thời nằm xuống.

 

      –  Hay có vị trạng huống hiện đang

              Có bệnh đau bụng, cảm xoàng

       Nhưng lại tự nghĩ : ‘Ta đang bệnh rồi !

          Vậy ta phải tức thời nằm xuống’,

          Rồi vị ấy nằm xuống tức thì.

 

          –  Hoặc có Tỷ Kheo một vì

       Vừa mới khỏi bệnh, nghĩ suy xa gần :

         ‘Mới khỏi bệnh, ta cần nằm xuống

          Thân yếu đuối, chẳng muốn làm gì !’.  

              Vị ấy nằm xuống tức thì

       Không có tinh tấn, chỉ vì bản thân

          Chưa thành tựu điều cần thành tựu

          Chưa đạt tới hiện hữu điều cần

              Cũng chưa chứng ngộ những phần

       Phải cần chứng ngộ, chánh chân việc này.

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  362

 

          Giải đãi sự như vầy tám thứ.

       

      *  Tinh Tấn Sự cũng tám điều này : 

              Một vị Tỷ Kheo ở đây

   –  Có việc cần phải làm ngay chẳng chờ

          Vị ấy nghĩ : ‘Bây giờ có việc

          Ta phải làm mãi miết cho mau

              Nếu ta làm việc dài lâu

       Không dễ suy nghĩ Pháp mầu cao siêu

          Ta phải cố đạt điều chưa đạt

          Phải tinh tấn hoàn tất cho nhanh

              Chứng ngộ điều chưa tựu thành’,

       Là Tinh tấn sự thiện lành đầu tiên.

 

      –  Vị Tỷ Kheo cần chuyên làm việc 

          Đã hoàn tất công việc của mình.

 

          –  Hoặc sắp trải qua hành trình

       Trên đường xa tắp tự mình phải đi.

 

      –  Hoặc vị ấy đã đi qua khỏi

          Con đường dài với mọi gian nan,

              Nghĩ rằng : ‘Ta đã trải sang

       Con đường mệt nhọc hoàn toàn vượt qua .

          Khi đi đường thì ta không thể

          Suy tư đến liên hệ Pháp mầu

              Của chư Phật truyền dạy sâu

       Phải cố tinh tấn chú vào thực thi.

          Phải đạt được những gì chưa đạt

          Cần nỗ lực hoàn tất cho nhanh

              Chứng ngộ điều chưa tựu thành.

 

   –  Hoặc Tỷ Kheo ấy thực hành ở đây

          Theo pháp chế hằng ngày khất thực

          Thị thành hay khất thực xóm làng

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  363

 

              Nhận được vật thực cúng dàng

       Không được đầy đủ, bĩ bàng như mong

          Tự nghĩ : ‘Trong khi ta khất thực

          Không đầy đủ vật thực để dùng

              Nhưng thân nhẹ nhàng ung dung 

       Để ta làm việc vô cùng hiệu năng’.

 

      –  Hoặc vị ấy vẫn hằng khất thực

          Thị thành hay khất thực xóm làng

              Nhận được vật thực cúng dàng

       Rất là đầy đủ, bĩ bàng như mong,

          Tự nghĩ : ‘Trong khi ta khất thực

          Rất đầy đủ vật thực mong chờ,

              Như vậy thân ta được nhờ 

       Cơ thể khỏe mạnh và thơ thới nhiều

          Để làm việc, những điều lợi lạc’.

 

      –  Các Hiền-giả ! Điều khác đáng bàn :

              Vị Tỷ Kheo đau bệnh xoàng

       Nhưng nghĩ : ‘Cơn bệnh ta đang mắc này

          Tuy là nhẹ nhưng rày có thể

          Trầm trọng hơn và dễ tăng dần,

              Vậy ta phải cố tinh cần’.

    

   –  Hoặc Tỷ Kheo nọ có thân yếu gầy

          Sau cơn bệnh, người đầy mệt mỏi

          Vị ấy nghĩ : ‘Vừa khỏi bệnh duyên

              Nhưng có thể tái phát liền

       Phải cố tinh tấn cần chuyên hành trì

          Phải đạt được điều gì chưa đạt

          Cần nỗ lực hoàn tất cho nhanh

              Chứng ngộ điều chưa tựu thành’.

       Tám Tinh tấn sự trong lành thanh cao.

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  364

 

      *  Bố thí sự khác nhau, tám cách :

      –  Người đến (xin hoặc khách, thân nhân)   

              Nên phải bố thí một phần.

   –  Vì sợ, nên phải tần ngần cho thôi.

      –  Vì ‘Người ấy cho tôi’ – bố thí.

      –  Thí vì nghĩ : ‘Người ấy sẽ cho’.

          –  Hoặc vì suy nghĩ đắn đo :

      ‘Bố thí lành tốt’, nguyên do như vầy.

      –  Vì suy nghĩ : ‘Ta nay đang nấu

          Họ không nấu, ta phải sớt ra. 

              Thật không phải đạo, nếu ta

       Không bố thí họ để mà có ăn’.

      –  Hoặc vị ấy vẫn hằng suy nghĩ :

         ‘Nếu bố thí, tiếng tốt đồn lan’.

          –  Bố thí thứ tám hoàn toàn     

       Trang nghiêm tâm, muốn chu toàn ở đây

          Tư trợ tâm, nên hay bố thí.

          Sự bố thí có tám điều này.

 

          *  Tám Thí Sanh là như vầy :

       Này các Hiền-giả ! Ở đây nghe đồn :

      –  Người bố thí Sa-môn, Phạm-chí

          Đồ ăn uống cho chí vải, hàng

              Xe cộ, đèn đuốc, hoa man

       Hương xông, phòng xá và sàng tọa riêng

          Cùng hương thoa, hiện tiền dâng cúng

          Vị ấy cũng nguyện ước quả lành

              Sẽ sung mãn khi tái sanh

       Được hưởng mọi thứ như mình thí ra.

          Vì thấy Bà-la-môn nhiều vị

          Sát-đế-lỵ, Gia chủ giàu sang

              Họ có tài sản muôn vàn

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  365

 

       Sung mãn, cụ túc, hiện đang hưởng nhàn

          Năm dục lạc hoàn toàn thụ hưởng

          Sống sung sướng, thoải mái vô cùng.   

              Vị này suy nghĩ mông lung :

 

      ‘Khi ta thân hoại mạng chung đời này

          Tái sinh ngay vào trong chủng hệ

          Làm Phạm-chí, Sát-đế-lỵ đây

              Hay Gia chủ, nhiều sản tài’.

       Từ đó an trú tâm ngay niệm này

          Luôn nắm vững tâm đây, tu tập

          Được giải thoát bậc thấp tâm này

              Trong tầm hạ liệt ở đây

       Không cao hơn nữa, nên rày tái sinh

          Đúng vào nơi mà mình mong ước,

          Nhưng cũng được xác nhận như vầy :

              Trường hợp vị bố thí này

       Không phá giới luật, đủ đầy giới kiêng.

          Các Hiền-giả ! Căn nguyên tâm nguyện

          Vị giữ giới đã khiến tựu thành

              Nhờ sự bố thí tịnh thanh.

 

   –  Lại nữa, có vị tâm lành đáng tôn

          Bố thí cho Sa-môn, Phạm-chí

          Tất cả mọi thứ quý như trên

              Với tâm an trú vững bền

       Mong được quả báo sinh liền Thiên cung

          Sau khi đã mạng chung thân hoại

          Sinh cõi Trời Tứ Đại Thiên Vương

              Vì nghe Chư Thiên đây thường

       Đẹp trai, an lạc, thọ trường dài lâu.

 

      –  Hoặc có người tin vào bố thí

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  366

 

          Đến Sa-môn, Phạm-chí mọi nơi

              Sẽ sinh Đao Lợi cõi Trời,

       Cõi Trời Đâu Suất, cõi Trời Dạ-Ma,

          Trời Hóa Lạc cao xa sinh lại,

          Hay Tha Hóa Tự Tại cõi Trời,

              Vì nghe Chư Thiên ở nơi

       Các Trời vừa kể đều thời sống lâu

          Rất đẹp trai, dồi dào an lạc,

          Nguyện sẽ đạt quả báo đến nhanh

              Sinh về các cõi Trời lành

       Như kể trên, phước sẵn dành hưởng ngay.  

          An trú tâm, tâm này tu tập

          Được giải thoát bậc thấp tâm này

              Trong tầm hạ liệt ở đây

       Không cao hơn nữa, nên rày tái sinh

          Đúng vào nơi mà mình ước nguyện.

 

      –  Các Hiền-giả ! Lại chuyện một người

              Với Sa-môn, Phạm-chí thời

       Bố thí đến các vị, rồi nguyện sanh

          Nơi cõi lành Thiên cung Phạm Chúng

          Vì nghe rằng Thiên chúng cõi này

              Thọ trường, an lạc, đẹp trai

       Suy nghĩ : ‘Bố thí như vầy, nguyện chung :

          Sau thân hoại mạng chung, sinh tới

          Nơi Phạm Chúng thiên giới, lành thay !

              Vị ấy nắm vững tâm này

       An trú, tu tập tâm đây tinh cần

          Được giải thoát trong tầm hạ liệt

          Không cao hơn ; Chi tiết tái sinh

              Chỉ trong tầm ấy đinh ninh.

       Trường hợp như vậy, quả tình ở đây

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  367

 

          Là vị ấy đủ đầy giới luật

          Không hề phá giới luật, thuần thành

              Tâm nguyện vị giữ giới lành

       Đã được thành tựu tịnh thanh như vầy.

 

      *  Tám Chúng được kể ngay tuần tự :

          Sát-đế-lỵ ; Gia chủ ; Bàn-môn ;

              Tứ Đại Thiên Vương ; Sa-môn ;

       Thiên chúng Đao Lợi ; và còn Thiên Ma

          Cùng Phạm Thiên cao xa Thiên chúng.

 

      *  Tám Thế Pháp – đây cũng chính là

              Bát phong xuy động, kể ra :

       Đắc ; bất đắc ; danh văn và ác văn ;

          Cùng tán thán ; bất bằng – phỉ báng

          Lạc và khổ vô hạn, nguồn cơn.

           ( Được ; thua ; tiếng xấu ; danh thơm ;

       Khen ; chê ; vui ; khổ – tám cơn gió đời ).

 

       *  Tám Thắng Xứ  đồng thời hiểu chắc : 

       –  Một vị quán nội sắc ở đây

              Thấy loại ngoại sắc như vầy :

       Hạn lượng, đẹp, xấu. Vị này suy ra :

         ‘Nhiếp thắng chúng, nên ta thấy, biết’.

          Là Thắng xứ cá biệt đầu tiên.

 

          –  Quán tưởng nội sắc, thấy liền

       Ngoại sắc đẹp, xấu, tuy nhiên vô lường.

          Nhận thức thường : ‘Sau khi nhiếp thắng

          Ta thấy, biết’. Là Thắng xứ hai.

 

          –  Một vị quán tưởng ở đây  

       Nội tâm vô sắc, thấy ngay như vầy :

          Các ngoại sắc ở đây hạn lượng

          Và đẹp, xấu. Suy tưởng tức thời :

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  368

 

             ‘Sau khi nhiếp thắng chúng rồi

       Ta biết, ta thấy’.  Xứ thời đệ tam.

 

      –  Quán vô sắc nội tâm, nhận thấy

          Các ngoại sắc vô lượng ở đây

              Đẹp, xấu –  Nhận thức như vầy :

      ‘Sau khi nhiếp thắng, thấy ngay, biết liền’.

          Thắng xứ riêng thứ tư được giảng.

 

      –  Một vị quán vô sắc nội tâm

              Thấy loại ngoại sắc màu xanh

       Sắc màu xanh nữa, sắc xanh tướng & hình

          Ánh sáng xanh lung linh, thật giống

          Bông gai sống màu xanh, sắc xanh

              Tướng & hình xanh, ánh sáng xanh

       Như Ba-la-nại lụa xanh, xanh rờn

          Cả hai mặt láng trơn, bóng lưởng

          Sắc màu xanh ; hình & tướng màu xanh

              Vị này nhận thức được rằng :

      ‘Sau khi nhiếp thắng, ta hằng biết ngay

          Ta cũng thấy’. Xứ này đệ ngũ.

 

      –  Một vị tự quán tưởng như vầy  

              Vô sắc ở nội tâm đây

       Thấy các ngoại sắc ở đây màu vàng

          Tướng & hình vàng ; cũng vàng ánh sáng

          Như lụa quý trơn láng hai bề

              Lụa Ba-la-nại thuộc về

       Sắc vàng ; hình & tướng đều vàng như y.

          Nên nhận thức : ‘Sau khi  nhiếp thắng

          Ta thấy, biết’. Sáu thắng xứ tầm.

 

         –  Quán tưởng vô sắc nội tâm

       Thấy các ngoại sắc lại nhằm đỏ tươi

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  369

 

          Sắc màu đỏ ; đỏ tươi hình & tướng           *

          Ánh sáng đỏ, mường tượng như hoa

              Tên Bân-Thú-Chi-Vá-Ka  (1)

       Tất cả đều đỏ ; hay là lụa trơn

          Ba-la-nại láng trơn màu đỏ

          Nhận thức rõ : ‘Nhiếp thắng chúng rồi

              Ta thấy, ta biết hết thôi !’.

       Thắng xứ thứ bảy đồng thời quan tâm.

 

      –  Một vị quán nội tâm vô sắc 

          Thấy ngoại sắc các loại trắng tinh

              Tướng & hình đều sắc trắng tinh

       Và ánh sáng trắng, cũng hình như đây :

          Ô-Ba-Thi (2) sao mai màu trắng,

          Ba-la-nại lụa trắng láng trơn

              Sắc trắng ; hình & tướng trắng trơn

       Ánh sáng cũng trắng. Thiệt hơn biết là :

         ‘Nhiếp thắng chúng, nên ta thấy, biết’.

          Thắng xứ thiệt thứ tám ở đây.

 

         *  Tám Giải Thoát  được hiểu ngay :

   –  Tự mình có sắc, thấy rày sắc đây.

          Giải thoát này chính là thứ nhất.

      –  Quán nội sắc là vô sắc ngay

              Và thấy các ngoại sắc này.

       Đó là giải thoát thứ hai như vầy.

      –  Quán tưởng Sắc ở đây là tịnh

          Chú tâm chính vào suy tưởng này.

              Giải thoát thứ ba là đây.

 

   –  Vượt khỏi các sắc tưởng đây hoàn toàn

          Tưởng hữu đối sẵn sàng trừ diệt

    _______________________________

   (1) :  Bông Bandhujìvaka .   (2) : Sao mai Osadhi .

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  370

 

          Không suy tư khác biệt tưởng nào

             ‘Hư không vô biên’ nhắm vào

       Không-vô-biên-xứ chứng vào an như.

          Là giải thoát thứ tư tuần tự.

 

      –  Hư-không-vô-biên-xứ vượt qua

              Vị ấy nhận thức gần xa

       Với suy tư đến : ‘Thức là vô biên’.

          Chứng, trú Thức-vô-biên-xứ nọ

          Thứ năm giải thoát đó như vầy.

 

          –  Vượt Thức-vô-biên-xứ ngay  

      ‘Vật gì chẳng có’, điều này nghĩ sâu

          Chứng, trú vào Vô Sở Hữu Xứ

          Là giải thoát thuộc thứ sáu đây.

 

          –  Vô-sở-hữu-xứ vượt ngay

       Chứng và an trú nơi đây tức thì

          Là Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ.

          Đây giải thoát thuộc thứ bảy đây.

 

          –  Phi-tưởng phi-phi-tưởng này 

       Hoàn toàn vượt khỏi Xứ đây an hòa

          Diệt Thọ Tưởng chứng và an trú

          Giải thoát đủ thứ tám vuông tròn.

 

              Các Hiền-giả ! Diệu pháp môn

       Tám Pháp đã được Thế Tôn dạy rành

          Vị đã biết ngọn ngành, đã thấy 

          Khéo giảng Pháp tự tại, từ hòa

              Hiệu năng hướng dẫn sâu xa

       Hướng đến an tịnh, Phật Đà giảng sâu,

          Mọi người cần cùng nhau tụng đọc

          Không tranh luận, bực dọc sân si,

              Để Phạm hạnh được duy trì

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  371

 

       Lâu dài thanh tịnh, uy nghi mọi thì.

          Vì hạnh phúc và vì an lạc

          Vì thương tưởng đến các chúng sinh

              Chư Thiên, loài Người, hữu tình

       Đó là Chánh Pháp siêu minh, nhiệm mầu.

 

* * *

 

 2.       Các Hiền-giả ! Thế nào Chín Pháp

          Được Thế Tôn diễn đạt, trình bày ?       

              Ngài dạy Chín Pháp như vầy

       Mọi người cần phải theo đây hành trì :

 

      *  Xung Đột Sự bất kỳ, có chín :

     – ‘Người ấy tính làm hại đến tôi’,

           – ‘Người ấy đang làm hại tôi’,           

    – ‘Người ấy cũng sẽ hại tôi’, như lời.

      – ‘Người ấy hại người tôi thương mến’,

      – ‘Đang hoặc sẽ hại đến người thương’,

           – ‘Người ấy đã làm lợi thường

       Cho người tôi vẫn không thương mến gì’.

      – ‘Đang hoặc sẽ mong vì làm lợi

          Người tôi ghét, vì bởi không thương’.

              Chín Xung đột khởi lên thường.

      

   *  Điều phục xung đột chín phương pháp là :

      – ‘Khi cho ta bị người làm hại

          Hãy nghĩ lại : ‘Có ích lợi gì

              Mà nghĩ như vậy, làm chi ?’

       Điều phục xung đột tức thì ở đây. 

      –  Cả ba thời : vị lai, quá, hiện

          Đều phương tiện dùng cách nghĩ suy :

            ‘Ta nghĩ như vậy ích gì ?’.

       

   –  Rồi đến tư tưởng chỉ vì người thương

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  372

 

          Mà cho là họ thường bị hại.

      –  Hay trái lại, với kẻ không thương

              Cho là đã làm lợi thường

       Cả ba thời đoạn đều tương tự vầy.

          Cũng dùng ý trên đây suy nghĩ :

         ‘Ích lợi gì mà nghĩ như vầy ?’.

              Sẽ điều phục xung đột ngay.

 

   *  Chín chỗ an trú ở đây hữu tình :

      –  Các Hiền-giả ! Hữu tình có loại 

          Thân và tưởng đại loại khác xa

              Như loài Người cõi Ta Bà,

       Một số các vị cũng là Chư Thiên,

          Một số các não phiền đọa xứ.

          Là hữu tình trú xứ đầu tiên.

 

         –  Hữu tình như Phạm Chúng Thiên

      (Chỉ riêng các vị mới liền tái sinh)

          Tưởng đồng nhất, thân hình sai biệt.

          Ta được biết trú xứ thứ hai.

 

         –  Cũng có loài hữu tình này

       Có thân đồng nhất, tưởng sai biệt liền

          Như chư Quang Âm Thiên đơn cử.

          Là hữu tình trú xứ thứ ba.

 

         –  Có loài hữu tình chính là

       Tịnh Cư Thiên chúng, tưởng và thân cư

          Đều đồng nhất. Thứ tư trú xứ.

 

      –  Loài hữu tình vốn tự căn nguyên

              Không có tưởng & thọ nào riêng

       Như các vị Vô Tưởng Thiên an bình.

          Là thứ năm hữu tình trú xứ.

 

      –  Có hữu tình đã tự sẵn sàng

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  373

 

              Vượt khỏi sắc tưởng hoàn toàn

       Diệt trừ sân tưởng dễ dàng ở đây

          Không tác ý về sai biệt tưởng

          Chứng vào hướng Xứ Không Vô Biên

              Nghĩ : ‘Hư không là vô biên’.

       Trú xứ thứ sáu đến liền an nhiên.

 

      –  Vượt Hư không vô biên xứ đó          

          Thức Vô Biên Xứ nọ chứng liền

              Nghĩ rằng : ‘Thức là vô biên’.

       Trú xứ thứ bảy vẹn tuyền ở đây.

 

      –  Vượt ra ngoài Thức vô biên xứ

          Chứng Vô Sở Hữu Xứ tức thì

             ‘Tất cả đều không có gì’.

       Trú xứ thứ tám này thì điểm qua.

 

      –  Đã vượt ra Vô sở hữu xứ

          Chứng vào Xứ thuộc Tưởng ở đây

              Phi Tưởng Phi Phi Tưởng này.

       Trú xứ thứ chín hiểu ngay đồng thời.

 

      *  Phạm Hạnh Trú, bất thời bất tiết :

          Các Hiền-giả ! Nên biết chánh chân :

              Có bậc Thế Tôn giáng trần

       Đại A-La-Hán vô ngần trí minh

          Chánh Đẳng Giác tự mình chứng đạt

          Ngài tuyên thuyết Chánh Pháp tịnh an

              Hướng đến giác ngộ, Niết-bàn

       Thiện Thệ khai thị minh quang tuyệt vời.

 

      –  Nhưng có người vẫn vào địa ngục, 

          Phạm hạnh trú này thực nhãn tiền

              Bất thời bất tiết đầu tiên.

   –  Cũng có những kẻ sinh liền bàng sanh

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  374

 

        ( Xương sống ngang chỉ dành loài thú )

          Phạm hạnh trú được biết ở đây.

              Bất thời bất tiết thứ hai.

 

   –  Hoặc sinh ngạ quỷ sâu dày tội khiên. 

 

      –  A-Tu-La não phiền khổ nạn.

 

      –  Sinh Chư Thiên thọ mạng dài lâu.

          –  Hoặc sinh ở những vùng sâu

       Biên địa hạ tiện, địa đầu ít dân,

          Giữa các loài độn đần mọi rợ

          Chỗ đáng sợ thiếu hẳn tiện nghi,

              Các Tỷ Kheo, Tỷ Kheo Ni

       Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di các hàng

          Thiện tri thức hoàn toàn vắng biệt.

          Sáu bất thời bất tiết đáng thương.

 

          –  Hoặc sinh vào nước đại cường  

       Nhưng lại tà kiến mọi đường đảo điên :

         ‘Đừng cúng dường, không nên bố thí,

          Không cúng tế. Không quả báo gì

              Từ những thiện ác hành vi.

       Không hề luân chuyển đời này đời sau. 

          Không có cha và nào có mẹ !

          Không hóa sinh theo lẽ sinh tồn ,

              Không có Sa-môn, Bàn-môn

       Chứng đạt chân chánh, pháp môn thực hành,

          Tự chứng tri, an lành chứng ngộ

          Thế giới này, thế giới về sau

              Và tuyên thuyết pháp nhiệm mầu’.

       Bất thời bất tiết hãy mau hiểu nhiều.

 

          Các Hiền-giả ! Những điều đã kể

          Cho dù là Thiện Thệ Như Lai

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  375

 

              Thành đạo trong hiện tại này

       Tuyên thuyết Giáp Pháp đủ đầy, cao minh

          Độ hữu tình thực hành tinh tấn

          Đạt an tịnh, hướng thẳng Niết-bàn,

              Rất nhiều chúng sinh thế gian

       Vẫn bị chìm đắm, trôi lăn biển đời.

      

      –  Có người thời sinh vào cường quốc

          Rất văn minh và thực giàu sang

              Nhưng bị ác huệ mọi đàng

       Ngu si, điếc, ngọng, bệnh mang câm, mù

          Không khéo nói trơn tru hết ý

          Về nghĩa lý không biết chút nào.

              Đó là Phạm hạnh trú vào

       Bất thời bất tiết phần sau như vầy.

 

      –  Cũng có ngay hữu tình duyên phước

          Sinh vào trong những nước phú cường

              Nhưng có trí tuệ, hiền lương

       Không điếc, ngọng ; nghĩa lý thường hiểu xa

          Được khéo nói hay là vụng nói

          Phạm hạnh trú đại loại là nơi

              Chín thứ bất tiết bất thời

       Được đức Thiện Thệ thuyết lời cao siêu.

 

      *  Thứ Đệ Trú chín điều tất cả :

          Các Hiền-giả ! Vị Tỷ Kheo này

 

          –  Ly ác bất thiện pháp đây

       Chứng Thiền Đệ Nhất, có ngay tứ, tầm

          Do ly dục sanh phần hỷ lạc.

 

      –  Tiếp điều khác, vị ấy định thiền

              Diệt tầm, diệt tứ  được yên

       Thì chứng và trú vào Thiền thứ hai

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  376

 

          Một trạng thái ra ngoài tầm, tứ

          Do định sanh, nội tỉnh nhất tâm.

 

          –  Ly hỷ trú xả  âm thầm

       Chánh niệm, tỉnh giác thì thân cảm liền

          Sự lạc thọ ; Thánh Hiền gọi đủ

          Là ‘Xả niệm lạc trú’ – Tam Thiền.

 

          –  Xả lạc, xả khổ –  tâm yên

       Diệt hỷ ; ưu ; cảm thọ liền trước đây

          Chứng, trú ngay vào Thiền Đệ Tứ

          Không khổ & lạc, không giữ niệm nào

              Thanh tịnh, an lạc tiêu dao.

 

   –  Các loại Sắc tưởng vượt mau hoàn toàn

          Hữu đối tưởng sẵn sàng trừ diệt

          Không tác ý sai biệt tưởng, và

             ‘Không Vô Biên Xứ’ chứng qua

       Với ý niệm ‘Hư không là vô biên’.

 

      –  Vượt Hư không vô biên xứ đó 

          Chứng Vô Sở Hữu Xứ, trú đi

             ‘Tất cả không sự vật gì’.

 

   –  Vô sở hữu xứ sau khi vượt, thì 

          Chứng Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ

          Và an trú ở tưởng xứ ngay.

 

          –  Phi tưởng phi phi tưởng này

       Sau khi vượt khỏi Xứ đây hoàn toàn

          Chứng, trú an Diệt Thọ Tưởng Định.

          Đó là chin Thứ Đệ Trú này.

 

          *  Chín Thứ Đệ Diệt như vầy :

   –  Tỷ Kheo thành tựu vào ngay Sơ Thiền  

          Các Dục tưởng đều liền đoạn diệt.

      –  Thành tựu tiếp vào Đệ Nhị Thiền        

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  377

 

              Các tầm, tứ đoạn diệt liền.

   –  Tam Thiền thành tựu, diệt liền Hỷ đi.

      –  Đệ Tứ Thiền một khi thành tựu

          Thì hơi thở hiện hữu vào ra

              Đã bị đoạn diệt ngay mà !.

   –  Không vô biên xứ trải qua tựu thành

          Thì sắc tưởng đã nhanh bị diệt.

      –  Vô sở hữu xứ tiếp tựu thành

              Thức vô biên tưởng diệt nhanh.

   –  Phi tưởng phi phi tưởng thành tựu đây

          Thì diệt ngay Tưởng vô sở hữu.

      –  Khi thành tựu Diệt thọ tưởng thiền

              Các tưởng & thọ bị diệt liền.

 

       Chín Pháp Đức Phật tùy duyên dạy rành

          Vị đã biết ngọn ngành, đã thấy 

          Khéo giảng Pháp tự tại, từ hòa

              Hiệu năng hướng dẫn sâu xa

       Hướng đến an tịnh, Phật Đà giảng sâu,

          Mọi người cần cùng nhau tụng đọc

          Không tranh luận, bực dọc sân si,

              Để Phạm hạnh được duy trì

       Lâu dài thanh tịnh, uy nghi mọi thì.

          Vì hạnh phúc và vì an lạc

          Vì thương tưởng đến các chúng sinh

              Chư Thiên, loài Người, hữu tình

       Đó là Chánh Pháp siêu minh, nhiệm mầu.

 

* * *

 

 3.       Các Hiền-giả ! Thế nào Mười Pháp

          Được Thế Tôn diễn đạt, trình bày ?       

              Ngài dạy Mười Pháp như vầy

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  378

 

       Mọi người cần phải theo đây hành trì :

 

      *  Có Mười điều Hộ Trì Nhân Pháp :

      –  Vị Tỷ Kheo hạ lạp thế nào

              Vẫn giữ Giới hạnh thanh cao

       Và sống chế ngự, nương vào uy nghi

          Của Giới bổn Ba-Tì-Mốc-Khá  (1)

          Đủ chánh hạnh và cả oai nghi

              Thấy được hậu quả hiểm nguy

       Trong lỗi nhỏ nhặt bất kỳ gần xa

          Thọ lãnh và tu trong Giới pháp

          Là Hộ trì nhân pháp đầu tiên.

     

              Các Hộ trì nhân tiếp liền :

   –  Tỷ Kheo vị ấy thường chuyên nghe nhiều

          Thường gìn giữ những điều nghe ấy

          Chất chứa điều nghe thấy bao lần

              Những pháp ấy tăng trưởng dần

       Sơ & trung & hậu thiện cú văn đủ đầy

          Và nghĩa lý như vầy cụ túc

          Đề cao mục Phạm hạnh sống lành

              Hoàn toàn đầy đủ tịnh thanh

       Với những pháp ấy, nghe rành nhiều hơn.

          Đã nắm giữ, keo sơn ghi nhớ

          Nhờ tụng đọc nhắc nhở nhiều lần

              Chuyên ý quán sát mọi phần

       Nhờ vào chánh kiến, khéo thành tựu ngay.

 

      –  Hoặc vị này đa văn quảng kiến

          Thành tựu nhờ chánh kiến tịnh thanh.

          –  Tỷ Kheo là thiện hữu lành

    _______________________________

   (1) : Giới Bổn Patimokkhasamvarasìla : Biệt biệt giải thoát thu 

         thúc giới  ( trong Tứ Thanh Tịnh giới của Luật Tỳ-kheo ) .

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  379

 

       Là thiện bạn lữ sẵn dành cận thân.

          Pháp ấy hộ trì nhân như vậy.

 

      –  Các Hiền-giả ! Vị ấy cũng là

              Thiện ngôn, đầy đủ nhu hòa

       Khiêm nhường, nhẫn nại, tránh xa tị hiềm

          Nhận chỉ trích một niềm cung kính.

 

      –  Khi nhận định trách nhiệm đinh ninh

              Cần phải thực hiện nhiệt tình

       Các đồng Phạm hạnh của mình hạ cao.

          Thường khéo léo và nào biếng nhác

          Cùng suy tư một cách đủ đầy

              Về các phương tiện ở đây

       Vừa đủ tổ chức, vừa ngay đủ làm.

          Hộ trì nhân bao hàm như vậy.

 

      –  Các Hiền-giả ! Vị ấy tư lương  

              Ưa thích đối với Pháp thường

       Ái luyến nói Pháp cũng dường thương thân.

          Rất hoan hỷ về phần Thắng Pháp

          Cùng Thắng Luật, dung nạp chánh chân

              Chính là Pháp hộ trì nhân.

 

   –  Lại nữa, vị ấy tự bằng lòng thâu

          Những vật dụng từ đâu nhận được

          Như y phục, bệnh dược, thức ăn

              Chỗ ở, sàng tọa  vân…vân…

       Như vậy là hộ trì nhân pháp này.

 

 

      –  Tỷ Kheo đây sống luôn tinh tấn

          Siêng đoạn tận ác pháp khởi lên

              Thành tựu các thiện pháp bền

       Cương quyết, tinh tấn, dựa trên kiên trì

          Không phế bỏ những gì Thiện pháp.

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  380

 

          Hộ trì nhân là pháp như vầy.

          –  Vị ấy chánh niệm đủ đầy

       Đủ tối-thượng-niệm thẳng ngay an hòa

          Luôn tỉnh giác, nhớ và ghi nhớ

          Điều đã nói, nhắc nhở đã làm.

              Hộ trì nhân pháp bao hàm.

   –  Lại nữa, vị ấy uyên thâm sẵn dành

          Có huệ trí, đủ sanh-diệt-trí

          Hướng sự lý quyết trạch Thánh nhân

              Diệt trừ đau khổ chánh chân

       Như vậy là hộ trì nhân pháp này.

 

      *  Mười Biến Xứ  như vầy chi tiết :

      –  Vị nào biết địa-biến-xứ toàn

              Phía trên, phía dưới, bề ngang

       Bất nhị, vô lượng mọi đàng hiểu mau.

      –  Hay vị ấy  biết vào thủy-biến.

      –  Biết hỏa-biến ; phong-biến-xứ đây,      

          –  Biết được thanh-biến-xứ này,

   –  Hoàng-biến ; xích-biến cũng rày biết thông

      –  Biết bạch-biến ; hư-không-biến đó

      –  Và biết rõ thức-biến-xứ toàn.

              Tất cả xứ : trên, dưới, ngang

       Bất nhị, vô lượng mọi đàng hiểu mau.

 

          Các Hiền-giả ! Bàn vào rốt ráo    

      *  Mười Bất Thiện Nghiệp Đạo sai lầm :

              Sát sinh, trộm đạo, tà dâm

       Lưỡng thiệt, ác khẩu và phần dối gian

          Cùng ỷ ngữ , tham, sân, tà kiến.

 

      *  Có Mười Thiện Nghiệp Đạo an lành :

              Không trộm đạo ; không sát sanh ;

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  381

 

       Không tà dâm ; nói lời lành không sai ;

          Không hai lưỡi ; không hay nói ác ;

          Không thêu dệt này khác điều gì ;

              Không tham ; không sân ; không si ;

       Mười Thiện-nghiệp-đạo hành trì chánh chân.

 

      *  Mười Thánh Cư  phải cần biết rõ :

          Các Hiền-giả ! Lại có Tỷ Kheo

              Tinh tấn để thực hiện theo :

 

   –  Năm chi trừ dứt, thảy đều hành ngay.

      –  Sáu chi phải đủ đầy, thuận tiện.

      –  Một hộ trì . – Thực hiện bốn y.

          –  Các giáo-điều loại bỏ đi.

   –  Mong cầu đoạn tận tức thì cho xong.

      –  Tâm tư không để cho trệ phược.

      –  Làm thân thể thường được khinh an.

          –  Tâm thiện giải thoát sẵn sàng.

   –  Tuệ thiện giải thoát, hoàn toàn thanh cao.       

    

      a) Các Hiền-giả ! Thế nào nghĩa ý

          Năm chi cần cố nghĩ đoạn trừ ?

           –  Hôn trầm thụy miên đoạn trừ,  

   –  Tham dục ; trạo hối ; sân trừ dứt ngay,

      –  Đoạn trừ nghi, như vầy tuân thủ.

 

      b) Thế nào là đầy đủ sáu chi ?

              Tỷ Kheo gìn giữ oai nghi :

   –  Mắt khi thấy sắc chẳng chi động lòng

          Không thích ý cũng không phật ý

          An trú kỹ vào xả tức thì

              Chánh niệm, tỉnh giác tự tri.

    –  Cũng như thế, với những gì trần, căn :

          Tai nghe tiếng ; lưỡi cần nếm vị

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  382

 

          Mũi ngửi hương ; thân cảm xúc liền ;

              Ý nhận thức pháp chung riêng.

       Vị ấy đều giữ an nhiên cõi lòng

          Không thích ý cũng không phật ý

          An trú kỹ vào xả tức thì

              Chánh niệm, tỉnh giác tự tri.

       Như vậy, đầy đủ sáu chi kể vào.

 

      c)  Một hộ trì - thế nào nghĩa ý ?

          Các Hiền-giả ! Một vị thực hành

              Hộ trì về Niệm tựu thành,

       Tỷ Kheo vị ấy một danh hộ trì.

 

     d)  Thế nào là bốn y  thực hiện ?

          Vị Tỷ Kheo tinh tiến suy tư :

              Thọ dụng một pháp an như

       Nhẫn thọ một pháp ; đoạn trừ pháp đơn

          Thứ tư còn Tránh xa một pháp

 

     e)  Thế nào là loại các giáo điều ?

              Tất cả thông thường giáo điều

       Sa-môn các vị phần nhiều chủ trương

          Vị Tỷ Kheo kiên cường loại bỏ

          Không chấp nhận, chẳng có nương chiều,

              Tẩn xuất, phóng xả giáo điều.

 

   g)  Này các Hiền-giả ! Mong nhiều hại thay !

          Vị Tỷ Kheo thẳng ngay trừ diệt

          Các mong cầu về hiện hữu đây

              Làm cho an tịnh đêm ngày

       Mong cầu về phạm hạnh nay đoạn trừ.

 

      h)  Thế nào là tâm tư sau trước

          Không trệ phược với các hại tâm

              Đoạn trừ các dục vọng tâm

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  383

 

       Tâm tư sân hận chú tâm đoạn trừ

          Đoạn trừ các tâm tư não hại.

          Tỷ Kheo ấy không trệ phược tâm.

 

          i)  Thế nào Tỷ Kheo tịnh lành

       Hành trì có được thân hành khinh an ?

          Vị Tỷ Kheo sẵn sàng trừ diệt

          Diệt lạc & khổ, trừ diệt hỷ & ưu,

              Chứng, trú vào Thiền thứ tư

       Xả niệm thanh tịnh, đoạn trừ khổ, vui.

 

     k)  Thế nào vui thiện tâm giải thoát ?

          Tỷ Kheo tâm giải thoát khỏi tham

              Tâm giải thoát khỏi sân tàm

       Tâm giải thoát khỏi si, làm tịnh thanh.

 

    m)  Các Hiền -giả ! Hiểu rành sự kiện

          Là Tuệ thiện giải thoát thế nào ?

              Tỷ Kheo tự biết thanh cao :

      ‘Như cây bị chặt, bị đào rễ đi

          Nay tham, si, sân tâm ta đó

          Đã đoạn trừ, đào bỏ rễ ngay

              Không thể sinh khởi tương lai,

       Tuệ thiện giải thoát vị đây tựu thành.

 

      *  Pháp Vô Học mười nhành chí thiện :

      –  Vô học chánh tri kiến ở đây,

          –  Vô học chánh tư duy này,

   –  Vô học chánh ngữ thẳng ngay mọi bề,

      –  Rồi vô học thuộc về chánh nghiệp,

      –  Vô học tiếp chánh mạng như vầy,

          –  Vô học chánh tinh tấn đây,

   –  Vô học chánh niệm thẳng ngay, an hòa,

      –  Đến chánh định thiền-na vô học,

Trường Bộ - (Tập 3) Kinh 33 :  PHÚNG TỤNG     *  MLH  –  384

 

      –  Cùng vô học chánh trí đủ đầy,

          –  Vô học chánh giải thoát này.       

 

       Mười Pháp Vô Học Như Lai dạy rành

          Vị đã biết ngọn ngành, đã thấy 

          Khéo giảng Pháp tự tại, từ hòa

              Hiệu năng hướng dẫn sâu xa

       Hướng đến an tịnh, Phật Đà giảng sâu,

          Mọi người cần cùng nhau tụng đọc

          Không tranh luận, bực dọc sân si,

              Để Phạm hạnh được duy trì

       Lâu dài thanh tịnh, uy nghi mọi thì.

          Vì hạnh phúc và vì an lạc

          Vì thương tưởng đến các chúng sinh

              Chư Thiên, loài Người, hữu tình

       Đó là Chánh Pháp siêu minh vô bờ ”.  

 

    4.    Lúc bấy giờ, Thế Tôn ngồi dậy

          Sau khi nghỉ, cảm thấy an hòa

              Bảo ngài Sa-Ri-Pút-Ta

       Đệ nhất Trí Tuệ, thiền gia cao đồ :

 

    – “ Xá-Lợi-Phất ! Hướng vô căn bản

          Ngươi đã khéo thuyết giảng chánh chân

              Khéo tụng những kinh rất cần

       Cho chúng Phích-Khú muôn phần ân triêm ”.

          Chúng Tỷ-Kheo một niềm hoan hỷ

          Được nghe bậc Đại Trí thuyết ra

              Với sự chấp thuận Phật-Đà,

       Một lòng tín thọ gấm hoa lời Ngài ./-

        Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

* * *

(  Chấm dứt Kinh 33 : PHÚNG TỤNG  –  Sangiti-sutta  )

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567