Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04. Quyển Bốn

31/10/201217:57(Xem: 4083)
04. Quyển Bốn

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

Hán dịch: Bát Thích Mật Đế - Việt Dịch: Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

QUYỂN BỐN

MỤC VII

CHỈ RÕ SỰ TIẾP-TỤC GIẢ-DỐI SINH RA VÀ CÁC "ĐẠI" KHÔNG NGĂN-NGẠI LẪN NHAU.

ĐOẠN I

ÔNG MÃN-TỪ KHEN-NGỢI PHẬT VÀ TRÌNH-BÀY CHỖ NGHI.

Khi bấy giờ, ông Phú-lâu-na-di-đa-la-ni-tử ở trong đại-chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo bên phải, đầu gối bên phải chấm đất, chấp tay cung-kính mà bạch Phật rằng: Đức Thế-tôn có oai-đức lớn, khéo vì chúng-sinh diễn-bày Đệ-nhất-nghĩa-đế của Như-lai. Đức Thế-tôn thường cho rằng trong những người thuyết-pháp, tôi là bậc nhất, song nay tôi nghe pháp-âm nhiệm-mầu của Như-lai, cũng như người điếc, cách xa trăm bước, nghe tiếng muỗi mạt, vốn đã không thấy, huống nữa lại nghe. Tuy Phật chỉ rõ, khiến cho tôi trừ được lầm-lạc, nhưng tôi chưa rõ chỗ rốt-ráo, không còn nghi-hoặc của nghĩa ấy.

Bạch Thế-tôn, như bọn ông A-nan, tuy được khai-ngộ, nhưng chưa trừ hết tập-khí hữu-lậu, còn bọn chúng tôi là những người đã lên đến bậc vô-lậu trong Hội này, thì tuy đã hết các lậu, nhưng nay nghe pháp-âm của Như-lai vừa dạy, còn mắc phải những điều nghi-hối.

ĐOẠN II

THIẾT-LẬP HAI ĐIỀU NẠN-HỎI

"Bạch Thế-tôn, nếu như hết thảy các thứ căn, trần, ấm, xứ, giới, vân vân... trong thế-gian, đều là tính thanh-tịnh bản-nhiên Như-lai-tạng, thì làm sao bỗng-nhiên lại sinh ra các tướng hữu-vi như núi, sông, đất liền, thứ lớp dời-đổi, trước sau quanh-lộn.

Lại đức Như-lai nói bốn món đại địa, thủy, hỏa, phong, bản-tính viên-mãn dung-hòa, cùng khắp pháp-giới, vẳng-lặng thường-trụ. Bạch Thế-tôn, nếu tính địa-đại cùng khắp, sao lại dung được thủy-đại; nếu tính thủy-đại cùng khắp thì hỏa-đại không thể phát-sinh; làm sao lại phát-minh hai tính thủy-đại và hỏa-đại đều cùng khắp hư-không, không diệt lẫn nhau? Bạch Thế-tôn, tính địa-đại là ngăn-ngại, tính hư-không là rỗng-suốt, làm sao hai đại ấy lại đều cùng khắp pháp-giới. Tôi nay không biết nghĩa ấy do đâu, xin Phật phát lòng đại-từ, vén mây mê-lầm cho tôi và trong đại-chúng." Ông Mãn-từ nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, kính mong lời dạy từ-bi vô-thượng của đức Như-lai.

ĐOẠN III

PHẬT HỨA CHỈ-BÀY THẮNG-NGHĨA, BẢO TRONG CHÚNG LẮNG-NGHE.

Khi bấy giờ, đức Thế-tôn bảo ông Phú-lâu-na và các vị A-la-hán lậu-tận vô-học trong Hội rằng : "Ngày nay Như-lai khắp vì trong Hội này chỉ-bày tính chân-thắng-nghĩa trong thắng-nghĩa, khiến cho ở trong Hội này, những hàng định-tính Thanh-Văn và hết thảy các bậc A-la-hán, chưa được hai phép nhân-không pháp-không, phát-tâm hướng về thượng-thừa, đều được chỗ tu-hành chân-chính, thiết-thực không xao-động của cảnh-giới tịch-diệt nhất-thừa. Ông hãy nghe kỹ, tôi sẽ vì ông mà nói".

Các ông Phú-lâu-na kính vâng pháp-âm của Phật, lẳng-lặng vâng nghe.

ĐOẠN IV

NẾU BẢN-TÍNH ĐỂ CHỈ RÕ CĂN-NGUYÊN HƯ-VỌNG

Phật dạy: "Ông Phú-lâu-na, như ông vừa nói : Đã là bản-nhiên thanh-tịnh, làm sao bỗng-nhiên lại sinh ra có núi sông, đất liền. Vậy ông không thường nghe Như-lai chỉ-dạy: Tính-giác là diệu-minh, bản-giác là minh-diệu, hay sao?"

Ông Phú-lâu-na bạch: "Thưa Thế-tôn, vâng, tôi thường nghe Phật chỉ-dạy nghĩa ấy."

Phật bảo: "Ông bảo cái giác là minh, lại là vì bản-tính nó là minh, nên gọi nó là giác, hay là vì giác được cái không minh, mà gọi là minh-giác?"

Ông Phú-lâu-na bạch: "Nếu cái không-minh đó mà gọi là giác, thì nó không minh được cái gì."

Phật dạy: "Nếu không có sở-minh là không có minh-giác, thì có sở không phải là giác, mà không sở, lại không phải là minh; và không minh, thì lại không phải là giác-tính trạm-minh. Vậy tính-giác chắc là minh, do vọng-tưởng mà làm ra có minh-giác. Giác không có gì là sở-minh, nhân có minh mà lập ra thành sở; đã giả-dối lập ra có sở, mới sinh ra cái năng hư-vọng của các ông".

ĐOẠN V

CHỈ TƯỚNG NGUYÊN-NHÂN CỦA THẾ-GIỚI SỰ-VẬT, HƯ-KHÔNG VÀ CHÚNG-SINH

"Trong tính không đồng, không khác, nổi dậy thành ra có khác; khác với cái khác kia, thì nhân cái khác đó, mà lập-thành cái đồng. Phát-minh cái đồng, cái khác rồi, thì nhân đó, mà lập ra cái không đồng, không khác. Rối-loạn như vậy, đối-đãi với nhau sinh ra lao-lự; lao-lự mãi phát ra trần-tướng, tự vẩn-đục lẫn nhau; do đó, đưa đến những trần-lao phiền-não. Nổi lên thì thành thế-giới, lặng xuống thì thành hư-không; hư-không là đồng, thế-giới là khác; cái không đồng, không khác kia, thật là pháp hữu-vi.

ĐOẠN VI

CHỈ BA TƯỚNG KẾT-QUẢ TIẾP-TỤC

"Cái giác là sáng-suốt, cái hư-không thì không hay-biết, hai cái đối-đãi với nhau, thành có lay-động, cho nên có phong-luân nắm-giữ thế-giới. Nhân cái hư-không, mà sinh ra có lay-động, phát-minh tính cứng, thì thành có ngăn-ngại; các loại kim-bảo đều do minh-giác lập ra tính cứng, cho nên có kim-luân nắm-giữ cõi nước. Biết cái cứng, thì thành có kim-bảo, rõ cái lay-động, thì phong-đại phát ra; phong-đại và kim-bảo cọ-xát nhau, cho nên có hỏa-đại làm tính biến-hóa. Ngọn lửa xông lên, kim-bảo sinh ra tính ướt, cho nên có thủy-luân trùm khắp các cõi mười phương. Lửa bốc lên, nước sa xuống, giao nhau phát-hiện, mà lập-thành tính cứng; chỗ ướt là bể lớn, chỗ khô là gò nổi; do cái nghĩa ấy, trong bể lớn kia, hơi nóng thường bốc lên; trong gò nổi kia, sông ngòi thường chảy xuống. Thế nước kém thế lửa, thì kết thành núi cao, vậy nên đá núi, đập thì có tia lửa, nấu thì chảy ra nước. Thế đất kém thế nước, rút ra thành cỏ cây, vậy nên rừng-rú bị đốt thì thành đất, vắt ra thì có nước.

Vọng-tưởng giao-xen phát-sinh, xoay-vần làm chủng-tử cho nhau; do nhân-duyên ấy mà thế-giới tiếp-tục.

Lại nữa, Phú-lâu-na, vọng-tưởng chẳng phải gì khác, do tính giác-minh hóa ra lầm-lỗi; cái sở-minh hư-vọng đã lập, thì phạm-vi của cái năng-minh không vượt khỏi được. Do nhân-duyên ấy, nghe không ra ngoài tiếng, thấy không vượt khỏi sắc, sáu cái vọng: Sắc, hương, vị, xúc vân vân..., đã thành lập, thì do đó, chia ra có thấy, nghe, hay, biết.

Đồng-nghiệp ràng-buộc lẫn nhau mà hợp, mà ly, mà thành, mà hóa. Cái thấy phát-minh, thì các sắc phát ra; nhận rõ nơi sự thấy, thì thành có tư-tưởng; rồi ý-kiến khác nhau, thì thành ra ghét, tưởng-niệm đồng nhau, thì thành ra yêu. Lan cái yêu ra, thành hạt giống, thu-nạp tưởng-niệm, thành ra cái thai, giao-xen phát-sinh, hấp-dẫn bọn đồng-nghiệp, nên có nhân-duyên sinh ra yết-la-lam, át-bồ-đàm, vân vân... Thai-sinh, noãn-sinh, thấp-sinh hay hóa-sinh là tùy phần sở-ưng: Noãn chỉ do tưởng-niệm mà sinh, thai thì nhân ái-tình mà có, thấp-sinh thì cơ-cảm mà hợp lại, còn hóa-sinh thì phân-ly mà ứng-hiện. Khi tình, khi tưởng, khi hợp, khi ly, thay-đổi lẫn nhau, nên các loài chịu nghiệp-báo cũng theo đó mà lên xuống; do nhân-duyên ấy, chúng-sinh tiếp-tục.

Phú-lâu-na, tư-tưởng thương-yêu ràng buộc lẫn nhau, yêu mãi không rời, thì những cha mẹ con cháu trong thế-gian sinh nhau không ngớt, bọn này thì lấy dục-tham làm gốc. Lòng tham, lòng yêu giúp nhau tăng-trưởng, tham mãi không thôi, thì các loài thai-sinh, noãn-sinh, thấp-sinh, hóa-sinh trong thế-gian, tùy sức mạnh-yếu, ăn-nuốt lẫn nhau; bọn nầy thì lấy sát-tham làm gốc. Lấy thân người ăn con dê, dê chết làm người, người chết làm dê, như vậy cho đến mười loài chúng-sinh chết sống, sống chết, ăn-nuốt lẫn nhau, nghiệp dữ cùng sinh ra tột đời vị-lai, bọn nầy thì lấy đạo-tham làm gốc.

Người nầy mắc nợ thân-mệnh người kia, người kia trả nợ cũ cho người này; do nhân-duyên ấy, trải qua trăm nghìn kiếp, thường ở trong đường sống chết. Người này yêu cái tâm người kia, người kia ưa cái sắc người này, do nhân-duyên ấy, trải qua trăm nghìn kiếp, thường ở trong vòng ràng-buộc. Duy ba món sát, đạo, dâm làm gốc và vì nhân-duyên đó, nghiệp-quả tiếp-tục.

Phú-lâu-na, ba thứ tiếp-tục điên-đảo ấy, đều do tính sáng-suốt rõ-biết của giác-minh, nhân rõ-biết phát ra có tướng, theo vọng-tưởng mà kiến-chấp sinh ra, các tướng hữu-vi núi sông, đất liền thứ lớp dời-đổi, đều nhân cái hư-vọng đó, mà xoay-vần sau trước".

ĐOẠN VII

CHỈ RÕ GIÁC KHÔNG SINH MÊ

Ông Phú-lâu-na bạch: "Nếu cái diệu-giác đó, bản-tính là diệu-minh, cùng với tâm Như-lai, không thêm không bớt, mà không cớ gì bỗng-nhiên lại sinh ra các tướng hữu-vi núi sông, đất liền; vậy Như-lai hiện nay đã chứng được bản-giác diệu-minh, không có phân-biệt, thì đến lúc nào lại sinh ra núi sông, đất liền và các tập-lậu hữu-vi?"

Phật bảo ông Phú-lâu-na: "Ví như người mê, nơi một xóm làng, lầm phương Nam làm phương Bắc, thì cái mê ấy, lại là nhân mê mà có hay nhân ngộ mà ra?"

Ông Phú-lâu-na bạch: "Người mê như vậy, cũng không nhân mê, cũng không nhân ngộ. Vì sao? Mê, vốn không có gốc, làm sao lại nhân mê? Còn ngộ, không phải cái sinh ra mê, làm sao lại nhân ngộ?"

Phật dạy: "Người mê kia, chính trong lúc mê, bỗng có người ngộ chỉ-bày cho được ngộ. Phú-lâu-na, ý ông nghĩ thế nào? Người ấy giải-trừ được cái mê đi, thì đối với xóm làng đó, còn có sanh mê nữa không?

- Thưa Thế-tôn, không.

- Phú-lâu-na, Như-lai mười phương thì cũng như vậy. Cái mê đó không có gốc, tính nó rốt-ráo là rỗng-không; xưa vốn không mê, chỉ hình-như có mê, có giác; giác được cái mê, thì cái mê diệt và giác, không sinh ra mê.

Cũng như người lòa thấy hoa-đốm giữa hư-không, nếu trừ được bệnh lòa, thì hoa đốm nơi hư-không diệt mất. Bỗng có người ngu, ở chỗ hư-không mà hoa-đốm kia đã diệt rồi, lại mong đợi hoa-đốm sinh lại. Ông xét người ấy, là ngu hay là trí-tuệ?"

Ông Phú-lâu-na bạch: "Hư-không vốn không có hoa-đốm, vì hư-vọng mà thấy có sinh diệt; thấy hoa-đốm diệt mất nơi hư-không đã là điên-đảo rồi; lại còn muốn bảo nó sinh lại, thì thật là điên-dại; làm sao còn gọi người điên như vậy, là ngu hay là trí-tuệ."

Phật dạy: "Ông hiểu như vậy, làm sao còn hỏi tính-giác diệu-minh, không có phân-biệt của chư Phật Như-lai, lúc nào lại sinh ra núi sông, đất liền.

Lại như quặng vàng lộn với vàng ròng, khi vàng đã luyện thành ròng rồi, thì không xen-lộn được nữa; cũng như cây đã đốt ra tro, thì không thành cây được nữa; Bồ-đề Niết-bàn chư Phật Như-lai thì cũng như vậy.

ĐOẠN VIII

CHỈ CÁC ĐẠI CÓ THỂ DUNG NHAU

"Phú-lâu-na, ông lại hỏi về địa, thủy, hỏa, phong, bản-tính viên-mãn dung-hòa, cùng khắp pháp-giới, nghi sao tính nước, tính lửa lại không lấn nhau, diệt nhau và nêu ra hư-không và địa-đại đều cùng khắp pháp-giới, lẽ ra không dung được nhau.

Phú-lâu-na, ví như hư-không, bản-thể không phải các tướng, mà không ngăn-cản các tướng phát-huy. Vì sao? Phú-lâu-na, nơi hư-không kia, mặt trời soi thì sáng, mây kéo thì tối, gió lay động, trời tạnh thì trong, hơi đọng, thì dục, bụi nổi thì mù, nước đứng thì ánh. Ý ông nghĩ thế nào? Các tướng hữu-vi khác nhau như vậy, nhân các cái kia mà sinh, hay nhân hư-không mà có. Phú-lâu-na, nếu như do các cái kia sinh ra, thì khi mặt trời soi, đã là mặt trời sáng, mười phương thế-giới đều thành sắc của mặt trời, làm sao giữa hư-không, lại còn thấy mặt trời tròn. Nếu là hư-không sáng, thì hư-không phải tự soi lấy, làm sao lúc giữa đêm mây-mù, lại không sinh ra sáng-chói. Vậy nên biết rằng cái sáng đó, không phải mặt trời, không phải hư-không và cũng không ra ngoài hư-không và mặt trời. Xét cái tướng vốn là vọng, không thể chỉ-bày, cũng như muốn hoa-đốm hư-không kết-thành quả hư-không, làm sao còn gạn-hỏi cái nghĩa lấn-diệt lẫn nhau? Xét cái tính, vốn là chân, chỉ là tính-giác diệu-minh, tính-giác diệu-minh, vốn không phải là nước hay là lửa, làm sao còn hỏi về nghĩa không dung được nhau?

Bản-tính diệu-minh chân-thật thì cũng như vậy. Ông phát-minh cái hư-không, thì có hư-không hiện ra; địa, thủy, hỏa, phong, mỗi mỗi phát-minh, thì mỗi mỗi hiện ra; nếu cùng phát-minh, thì cùng hiện ra.

Thế nào là cùng hiện ra? Phú-lâu-na, như trong một chỗ có nước, hiện ra bóng mặt trời, hai người đồng xem mặt trời trong nước; rồi một người đi phương Đông, một người đi phương Tây, thì hai bên đều có mặt trời theo mình cùng đi, một cái về phương Đông, một cái về phương Tây, không có chuẩn-đích nhất-định. Không nên gạn-hỏi rằng, mặt trời đó là một, sao lại mỗi cái đi theo mỗi người? Các mặt trời đã thành hai, làm sao trước kia chỉ hiện ra có một? Hư-vọng quanh-lộn như thế, không thể lấy gì làm bằng cứ.

MỤC VIII

CHỈ TÍNH DIỆU-MINH HỢP VỀ NHƯ-LAI-TẠNG, RỜI CẢ HAI NGHĨA "PHI" (KHÔNG LÀ) VÀ "TỨC" (TỨC LÀ)

ĐOẠN I

CHỈ VỀ TRÁI VỚI GIÁC-TÍNH, HỢP VỚI TRẦN-TƯỚNG

"Phú-lâu-na, ông đem cái sắc, cái không, mà lấn-cướp lẫn nhau nơi Như-lai-tạng, thì Như-lai-tạng theo ông làm sắc, làm không, cùng khắp pháp-giới; vậy nên trong ấy, gió thổi thì động, hư-không thì lặng, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối: Chúng sinh mê-lầm, trái với giác-tính, hợp với trần-tướng, cho nên phát ra trần-lao, có các tướng thế-gian.”

ĐOẠN II

CHỈ TÍNH DIỆU-MINH HỢP VỚI NHƯ-LAI-TẠNG

"Tôi lấy tính diệu-minh, không diệt không sinh, hợp với Như-lai-tạng, thì Như-lai-tạng chỉ là tính-giác-diệu-minh, soi khắp pháp-giới; vậy nên trong ấy, một là vô-lượng, vô-lượng là một, trong nhỏ hiện ra lớn, trong lớn hiện ra nhỏ, đạo-trường bất-động cùng khắp thế-giới mười phương, thân trùm cả hư-không vô-tận mười phương, nơi đầu một mãy lông, hiện ra cõi Bảo-vương, ngồi trong vi-trần, chuyển bánh xe pháp lớn; diệt trần-tướng, hợp giác-tính, nên phát ra tính-giác chân-như nhiệm-mầu sáng-suốt.

ĐOẠN III

CHỈ NHƯ-LAI-TẠNG LÀ "PHI" TẤT-CẢ

"Nhưng Như-lai-tạng bản-tính diệu-viên, không phải là tâm, là không, là địa, là thủy, là phong, là hỏa; không phải là nhãn, là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; không phải là sắc, là thanh, hương, vị, xúc, pháp; không phải là nhãn-thức-giới, cho đến không phải là ý-thức-giới; không phải là minh, là vô-minh, là hết minh, là hết vô-minh, cho đến không phải là lão, là tử, là hết lão tử; không phải là khổ, là tập, là diệt, là đạo; không phải là trí, là đắc; không phải là bố-thí, là trì-giới, là tinh-tiến, là nhẫn-nhục, là thiền-định, là trí-tuệ, là Ba-la-mật-đa, cho đến cũng không phải là Như-lai, là Ứng-cúng, là Chính-biến-tri; không phải là Đại-niết-bàn, là đức Thường, đức Lạc, đức Ngã, đức Tịnh, vì cái đó, đều không là các pháp thế-gian và xuất-thế-gian vậy.”

ĐOẠN IV

CHỈ NHƯ-LAI -TẠNG "TỨC" LÀ TẤT-CẢ

"Tức cái bản-tính minh-diệu Như-lai-tạng, cũng tức là tâm, là không, là địa, là thủy, là phong, là hỏa; tức là nhãn, là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; tức là sắc, là thanh, hương, vị, xúc, pháp; tức là nhãn-thức-giới, cho đến là ý-thức-giới; tức là minh, là vô-minh, là hết minh, là hết vô-minh, cho đến tức là lão, là tử, là hết lão tử; tức là khổ, là tập, là diệt, là đạo; tức là trí, là đắc; tức là bố-thí, là trì-giới, là tinh-tiến, là nhẫn-nhục, là thiền-định, là trí-tuệ, là Ba-la-mật-đa, cho đến tức là Như-lai, là Ứng-cúng, là Chính-biến-tri; tức là Đại-niết-bàn, là đức Thường, đức Lạc, đức Ngã, đức Tịnh; do cái đó, tức là các pháp thế-gian và xuất-thế-gian vậy.”

ĐOẠN V

CHỈ RA NGOÀI CÁC NGHĨA "PHI" VÀ "TỨC" VÀ PHẢI NHỜ ĐẾN NGÓN TAY HAY.

"Tức cái tính-giác diệu-minh Như-lai-tạng, rời cả các nghĩa "tức", "phi" và cũng là "tức", là "phi"; làm sao chúng-sinh ba cõi thế-gian và các hàng Thanh-văn, Duyên-giác xuất-thế-gian, lấy cái tâm hay-biết sự vật, mà đo-lường được vô-thượng Bồ-đề của Như-lai, dùng tiếng nói thế-gian, mà vào được tri-kiến của Phật. Ví như, những cây đàn cầm, sắt, không-hầu, tỳ-bà, tuy có tiếng hay, nhưng nếu không có ngón tay hay, thì rốt-cuộc cũng không phát ra được. Ông cùng chúng-sinh thì cũng như vậy. Tâm-tính chân-thật, mỗi người đều đầy-đủ, nhưng khi tôi ấn ngón tay, thì hải-ấn phát ra hào-quang, còn các ông tạm móng tâm lên, thì trần-lao đã nổi, do vì không siêng-năng cầu đạo vô-thượng-giác, ưa nhớ tiểu-thừa, được một ít đã cho là đủ".

MỤC IX

CHỈ MÊ-VỌNG KHÔNG CÓ NHÂN, HẾT MÊ TỨC LÀ BỒ-ĐỀ.

ĐOẠN I

NGHI GIÁC-TÍNH VÌ NHÂN GÌ MÀ CÓ VỌNG

Ông Phú-lâu-na bạch: "Chân-tâm viên-giác diệu-minh của tôi và của Như-lai, đều viên-mãn không hai, mà tôi, trước kia mắc vọng-tưởng vô-thủy, ở lâu trong luân-hồi, nay được thánh-thừa, còn chưa rốt-ráo; Thế-tôn, thì khắp tất-cả các vọng đều diệt trọn, chỉ có diệu-dụng tính chân-thường. Xin hỏi đức Như-lai, hết thảy chúng-sinh, vì nhân gì mà có vọng, tự che tính diệu-minh, mà chịu chìm-đắm như vậy?"

ĐOẠN II

CHỈ MÊ VỐN KHÔNG NHÂN

Phật bảo ông Phú-lâu-na: "Ông tuy trừ được lòng nghi, nhưng còn những điều lầm chưa dứt hết. Nay tôi lại đem những việc hiện-tiền thế-gian mà hỏi ông. Há ông không nghe trong thành Thất-la-phiệt, có anh Diễn-nhã-đạt-đa, buổi mai lấy gương soi mặt, bỗng-nhiên ưa cái đầu trong gương, lông mày, con mắt có thể thấy được, rồi giận-trách cái đầu mình, sao lại không thấy mặt mày, cho là giống yêu-quái, rồi không cớ gì phát điên bỏ chạy. Ý ông nghĩ thế nào, người đó vì nguyên-nhân gì, vô cớ phát điên bỏ chạy?"

Ông Phú-lâu-na bạch: "Tâm người ấy điên, chứ không có cớ gì khác."

Phật dạy: "Tính diệu-giác viên-mãn sáng-suốt, bản-lai là diệu-minh cùng-khắp; đã gọi là vọng, thì làm sao có nhân, nếu có nguyên-nhân, thì sao gọi là vọng? Chỉ tự các vọng tưởng xoay-vần làm nguyên-nhân cho nhau, theo cái mê, chứa cái mê, trải qua kiếp số như vi-trần; tuy Phật phát-minh, còn không biết trở về. Nguyên-nhân cái mê như vậy, là nhân mê tự có, biết cái mê không có nhân, thì cái vọng không chỗ nương-tựa, còn không có sinh, thì muốn đem cái gì mà làm cái diệt. Người được đạo Bồ-đề như người tỉnh-giấc kể chuyện trong chiêm-bao; tâm dầu rõ-ràng, nhưng không thể có nhân-duyên gì lấy được những vật trong chiêm-bao; huống nữa, cái mê lại không có nhân, vốn không có gì cả. Như anh Diễn-nhã-đạt-đa trong thành kia, đâu có nhân-duyên, mà tự sợ đầu mình bỏ chạy, bỗng-nhiên hết điên, thì cái đầu đâu phải từ ngoài đưa tới; dầu chưa hết điên, cái đầu cũng không hề mất. Phú-lâu-na, tính của cái vọng là như vậy, làm sao còn có nguyên-nhân được.”

ĐOẠN III

CHỈ DỨT CÁC DUYÊN THÌ HẾT ĐIÊN VÀ GIÁC-TÍNH VỐN CÙNG KHẮP

"Ông chỉ không theo phân-biệt ba thứ tiếp-tục nơi thế-gian, nghiệp-quả, chúng-sinh", thì ba duyên đã đoạn rồi, ba nhân không sinh ra nữa, và tính điên của anh Diễn-nhã-đạt-đa trong tâm ông tự hết. Hết, tức là tâm-tính Bồ-đề trong-sạch sáng-suốt, bản-lai cùng khắp pháp-giới, không do ai đưa lại, nào cần gì phải tu-chứng nhọc-nhằn vất-vả.

Ví như có người, ở nơi áo mình, buộc một hạt châu như-ý, mà không hay-biết, nên phải xin ăn rong-ruổi phương xa, nghèo-nàn rách-rưới; tuy người ấy thật nghèo-nàn, nhưng hạt châu không hề bị mất; bỗng-nhiên có người khôn, chỉ hạt châu ra cho, thì người ấy muốn gì được nấy, thành giàu-có lớn, rồi mới ngộ được hạt châu quý-hóa ấy, không phải do ở ngoài đưa tới".

MỤC X

LẠI PHÁ XÍCH NHÂN-DUYÊN, TỰ-NHIÊN VÀ TRÁCH CHỈ BIẾT NGHE NHIỀU

ĐOẠN I

PHÁT NGHI MÀ HỎI

Khi bấy giờ ông A-nan, ở trong đại-chúng, đỉnh-lễ chân Phật, đứng dậy bạch Phật: "Đức Thế-tôn hiện nói về các nghiệp sát, đạo, dâm. Về ba duyên đoạn rồi, thì ba nhân không sinh và tính điên anh Diễn-nhã-đạt-đa trong tâm tự hết; hết, tức là Bồ-đề, không do người khác đưa tới; như thế, rõ-ràng là nhân-duyên rồi, làm sao đức Như-lai lại bỏ nghĩa nhân-duyên? Chính tôi, do nhân-duyên, mà tâm được khai-ngộ.

Bạch Thế-tôn, nghĩa ấy đâu chỉ đối với hàng Thanh-văn hữu-học, ít tuổi như chúng tôi, mà hiện nay, trong Hội này, ông Đại-mục-kiền-liên, ông Xá-lỵ-phất, ông Tu-bồ-đề, vân vân ... cũng từ ông Lão-phạm-chí nghe lý nhân-duyên của Phật, mà phát-tâm khai-ngộ, được thành quả vô-lậu. Nay Phật dạy rằng Bồ-đề không do nhân-duyên, thì các thuyết tự-nhiên của bọn Câu-xá-ly, thành Vương-xá, lại thành đệ-nhất-nghĩa. Xin Phật rủ lòng đại-bi, khai-phá chỗ mê-lầm cho chúng tôi".

ĐOẠN II

GẠN CÙNG CHỖ NGHI

Phật bảo ông A-nan : "Tức như anh Diễn-nhã-đạt-đa trong thành, nếu diệt-trừ được nhân-duyên tính điên, thì tính không điên tự-nhiên hiện ra; các lý nhân-duyên, tự-nhiên, cuối-cùng chỉ như vậy."

ĐOẠN III

LẤY VÍ-DỤ CÁI ĐẦU KHÔNG MẤT ĐỂ CHỈ CÁI ĐIÊN LÀ HƯ-VỌNG

"A-nan, như cái đầu anh Diễn-nhã-đạt-đa vốn là tự-nhiên, nó đã tự-nhiên như thế, thì có lúc nào lại không tự-nhiên, vậy vì nhân-duyên gì, mà sợ cái đầu, phát điên bỏ chạy? Nếu cái đầu tự-nhiên, vì nhân-duyên mà điên, thì sao không tự-nhiên, vì nhân-duyên mà mất đi? Cái đầu vốn không mất, điên-sợ giả-dối phát ra, chứ nào có thay-đổi gì, mà phải nhờ đến nhân-duyên. Nếu tính điên vốn là tự-nhiên và vốn có sẵn tính điên-sợ, thì khi chưa điên, cái điên núp vào chỗ nào? Nếu tính không điên là tự-nhiên, thì cái đầu vẫn không việc gì, sao lại phát điên bỏ chạy? Nếu ngộ được cái đầu sẵn có, biết mình vì phát điên mà bỏ chạy, thì nhân-duyên và tự-nhiên đều là hý-luận."

ĐOẠN IV

PHÁ XÍCH NHÂN-DUYÊN VÀ TỰ-NHIÊN, DẪN VÀO BỒ-ĐỀ

"Vậy nên tôi nói: Ba duyên đoạn-trừ rồi, tức là tâm Bồ-đề. Tâm Bồ-đề sinh, tâm sinh-diệt diệt, đó chỉ là sinh-diệt. Diệt và sinh đều hết, thì gọi là vô-công-dụng-đạo. Nếu có tự-nhiên, như vậy là phát-minh tâm tự-nhiên sinh, tâm sinh-diệt diệt, thế cũng là sinh-diệt và lấy cái không-sinh-diệt, gọi là tự-nhiên. Cũng như, trong thế-gian các tướng hòa-lẫn thành ra một thể, gọi là tính hòa-hợp; cái không phải hòa-hợp, thì gọi là tính bản-nhiên. Bản-nhiên không phải bản-nhiên, hòa-hợp không phải hòa-hợp, hòa-hợp và bản-nhiên đều rời-bỏ, rời-bỏ và không rời-bỏ đều "phi", câu nói nầy, mới gọi là pháp không-hý-luận."

"Bồ-đề Niết-bàn còn ở xa-xôi, nếu ông không trải qua nhiều kiếp siêng-năng tu-chứng, thì tuy ghi-nhớ diệu-lý thanh-tịnh mười hai bộ kinh của thập phương Như-lai, như cát sông Hằng, cũng chỉ càng thêm hý-luận. Ông tuy nói lý nhân-duyên, tự-nhiên chắc-chắn rõ-ràng, người đời gọi ông là đa-văn bậc nhất. Với cái huân-tập đa-văn nhiều kiếp đó, ông không thoát khỏi được nạn Ma-đăng-già, phải đợi thần-chú Phật-đỉnh của tôi, làm cho lửa dâm trong tâm nàng Ma-đăng-già hết đi và nàng được quả A-na-hàm, ở trong Phật-pháp thành rừng tinh-tiến, sông ái khô cạn, mới khiến cho ông được giải-thoát. Vậy nên ông A-nan, tuy ông nhiều kiếp ghi-nhớ những pháp bí-mật diệu-nghiêm của Như-lai, cũng không bằng một ngày tu-nghiệp vô-lậu, xa-rời hai khổ ưa-ghét thế-gian. Như nàng Ma-đăng-già, trước kia là dâm-nữ, do sức thần-chú, tiêu-diệt lòng ưa-muốn, nay ở trong Phật-pháp, gọi tên là Tính-tỷ-khưu-ni, cùng với mẹ La-hầu-la là Gia-du-đà-la, đồng ngộ nhân trước, biết đã trải qua nhiều đời, nhân vì tham-ái mà khổ, một niệm huân-tu pháp vô-lậu-thiện, thì người đã ra khỏi ràng-buộc, người thì được Phật thụ-ký, làm sao, ông còn tự dối mình, mắc-míu mãi trong vòng nghe-thấy".

MỤC XI

CHỈ NGHĨA QUYẾT-ĐỊNH

ĐOẠN I

THUẬT LẠI CHỖ NGỘ, THỈNH-CẦU PHÉP TU-HÀNH

Ông A-nan và cả đại-chúng nghe lời Phật dạy, tiêu hết nghi-hoặc, ngộ được thật-tướng, thân và ý đều yên-lành, được pháp chưa từng có. Rồi lại thương-khóc, đỉnh-lễ chân Phật, quỳ dài chấp tay mà bạch Phật rằng: "Đức vô-thượng đại-bi thanh-tịnh Bảo-vương, khéo khai-ngộ cho tâm chúng tôi, dùng các nhân-duyên như thế, phương-tiện dắt-dìu những kẻ chìm-đắm ra khỏi bể khổ. Bạch Thế-tôn, nay tôi tuy được vâng nghe pháp-âm như vậy, nhận-biết tâm-tính diệu-minh Như-lai-tạng cùng khắp thế-giới mười phương, trùm-chứa các cõi Phật bảo-nghiêm thanh-tịnh trong thập phương quốc-độ; Như-lai lại trách tôi nghe nhiều mà vô-dụng, không kịp-thời tu-tập. Nay tôi, giống như người lênh-đênh xiêu-bạt, bỗng-nhiên gặp vị Thiên-vương cho cái nhà tốt; tuy được nhà lớn, nhưng cốt-yếu phải biết cửa mà vào; xin nguyện đức Như-lai không ngớt lòng đại-bi, chỉ-bày cho những kẻ mờ-tối trong Hội nầy, rời-bỏ pháp Tiểu-thừa và đều nhận được con đường phát-tâm tu-tập đi đến vô-dư Niết-bàn của Như-lai, khiến cho những hàng hữu-học biết cách uốn-dẹp tâm phan-duyên lâu đời, được pháp tổng-trì, chứng-nhập tri-kiến của Phật". Ông A-nan nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, ở trong Hội một lòng, mong đợi từ-chỉ của Phật.

Khi bấy giờ, đức Thế-tôn thương-xót các hàng Thanh-văn, Duyên-giác trong Hội, chưa được tự-tại nơi tâm Bồ-đề, và những chúng-sinh phát Bồ-đề-tâm trong đời mạt-pháp về sau, khi Phật đã diệt-độ rồi, khai-thị cho đường tu-hành nhiệm-mầu pháp vô-thượng-thừa, và chỉ-dạy ông A-nan với cả đại-chúng rằng: "Các ông quyết-định phát-tâm Bồ-đề, đối với pháp Tam-ma-đề chư Phật Như-lai, không sinh mệt-mỏi, thì trước hết, nên rõ hai nghĩa quyết-định, trong lúc bắt đầu phát-tâm tự-giác."

ĐOẠN II

XÉT VỀ PHÁT TÂM TRONG LÚC TU-NHÂN

Chi 1. - Dùng hư-không để ví với chính-nhân và chia ra bên trong, bên đục.

"Thế nào là hai nghĩa quyết-định trong lúc mới phát-tâm. A-nan, nghĩa thứ nhất là: Nếu các ông muốn rời-bỏ phép Thanh-văn, tu thừa Bồ-tát, vào tri-kiến của Phật, thì nên xét kỹ chỗ phát tâm trong lúc tu-nhân với chỗ giác-ngộ trong lúc chứng-quả, là đồng hay là khác nhau. A-nan, nếu trong lúc tu-nhân, đem cái tâm sinh-diệt làm cái nhân tu-hành, đề cầu cho được cái quả bất-sinh bất-diệt của Phật-thừa, thì thật không thể được. Do cái nghĩa đó, ông nên xét các pháp, có thể làm ra trong khí-thế-gian, đều phải thay-đổi diệt mất. A-nan, ông xét các pháp, có thể làm ra trong thế-gian, có cái gì là không hư-nát, nhưng không bao-giờ nghe hư-không tan-rã, vì sao? Vì hư-không không phải là cái bị làm ra, do đó, trước sau không hề tan mất. Thì trong thân ông, tướng cứng là địa-đại, thấm ướt là thủy-đại, hơi ấm là hỏa-đại, lay-động là phong-đại; do bốn cái ấy ràng-buộc, mà chia cái tâm-tính diệu-minh vẳng-lặng, cùng khắp của ông, làm ra cái thấy, cái nghe, cái biết, cái xét, từ đầu đến cuối, tạo-thành năm lớp ô-trược.

"Thế nào là trược? A-nan, ví như nước trong, bản-nhiên là trong-sạch, lại như những thứ bụi, đất, tro, cát, bản-chất là ngăn-ngại; hai bên bản-nhiên thể-chất khác nhau, không hợp nhau được. Có người thế-gian lấy đất bụi kia, ném vào nước sạch, thì đất mất ngăn-ngại, nước mất trong-sạch, hình-trạng đục-vẩn, gọi đó là trược; năm lớp ô-trược của ông cũng giống như vậy.

Chi 2. - Khai-thị về ngũ-trược.

A-nan, ông thấy hư-không khắp thập phương thế-giới. Bên không, bên thấy, không tách-rời nhau; có cái không mà không thật-thể, có cái thấy mà không hay-biết, hai bên xen-lộn giả-dối thành ra lớp thứ nhất, gọi là kiếp-trược.

Thân ông hiện ôm bốn món đại làm tự-thể, che-bít những sự thấy, nghe, hay, biết, thành bị ngăn-ngại và trở lại làm cho các thứ địa, thủy, hỏa, phong, thành có hay-biết; các điều đó xen-lộn giả-dối thành ra lớp thứ hai, gọi là kiến-trược.

Lại trong tâm ông, những sự nhớ-biết học-tập, phát ra tri-kiến, hiện ra tướng sáu trần, thì những sự đó, rời tiền-trần không có tướng, rời tri-giác không có tính, xen-lộn giả-dối thành ra lớp thứ ba, gọi là phiền-não-trược.

Lại tâm ông ngày đêm sinh-diệt không ngừng, tri-kiến thì muốn lưu mãi ở thế-gian, nhưng nghiệp-báo xoay-vần thì lại thường dời-đổi cõi này cõi khác, những điều đó xen-lộn giả-dối thành ra lớp thứ-tư, gọi là chúng-sinh-trược.

Cái thấy, cái nghe của ông, bản tính vốn không khác nhau, do các trần cách-trở, mà không duyên-cớ gì, lại sinh ra khác nhau; trong tính thì vẫn biết nhau, nhưng trong dụng thì trái-ngược nhau, cái đồng và cái khác đã mất hẳn chuẩn-đích, xen-lộn giả-dối thành ra lớp thứ năm, gọi là mệnh-trược.

Chi 3. - Kết-thành cái tâm tu-nhân

A-nan, nay ông muốn cho cái sự thấy, nghe, hay, biết, xa xa hợp với bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh của Như-lai, thì trước hết, phải lựa-bỏ cỗi-gốc sống chết, nương theo cái không-sinh-diệt mà thành-tựu tính yên-lặng cùng khắp. Dùng cái yên-lặng mà xoay các thứ sinh-diệt hư-vọng trở về nơi bản-giác, được tính không-sinh-diệt của bản-giác làm cái tâm tu-nhân, thì về sau mới viên-thành chỗ tu-chứng của quả-vị. Như lắng nước đục đựng trong một cái đồ để yên, để yên mãi không lay-động, thì đất cát tự chìm xuống và nước trong hiện ra, thế gọi là bắt đầu uốn-dẹp các khách-trần phiền-não; gạn bùn hết sạch, chỉ còn nước trong, thì gọi là dứt hẳn căn-bản vô-minh; tướng sáng-suốt đã tinh-thuần, thì tất-cả các điều biến-hiện đều không gây ra phiền-não và hợp với đức mầu thanh-tịnh của Niết-bàn.

ĐOẠN III

XÉT RÕ CỖI-GỐC PHIỀN-NÃO

Chi 1. - Xét chỗ điên-đảo nơi căn và trần

Nghĩa thứ hai là các ông quyết muốn phát-tâm Bồ-đề, nơi thừa Bồ-tát, sinh lòng đại-dũng-mãnh, quyết-định rời-bỏ các tướng hữu-vi, thì nên xét rõ cỗi-gốc phiền-não, những cái vô-minh phát-nghiệp và nhuận-sinh vô-thủy đó, là ai làm, ai chịu?

A-nan, ông tu đạo Bồ-đề, nếu không suy-xét cỗi-gốc phiền-não, thì không thể biết những căn-trần phiền-não, thì không thể biết những căn-trần hư-vọng, nó điên-đảo ở chỗ nào; chỗ điên-đảo còn không biết, thì làm sao uốn-dẹp được nó và chứng được quả-vị Như-lai.

A-nan, ông hãy xem người thế-gian cởi nút, hễ không thấy chỗ thắt nút, thì không biết cởi, chứ không hề nghe hư-không bị phá-tan; vì sao? Vì hư-không không có hình-tướng, không thắt, không cởi vậy. Thì như ông hiện nay, sáu thứ nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý làm mai-mối cho giặc, tự cướp của báu trong nhà; do đó, từ vô-thủy, thế-giới chúng-sinh sinh ra ràng-buộc, không thể vượt khỏi thế-gian sự vật.

Chi 2. - Chỉ rõ sự ràng-buộc và siêu-thoát của thế-giới chúng-sinh.

A-nan, thế nào gọi là thế-giới chúng-sinh? Thế là dời-đổi, giới là phương-hướng. Nay ông nên biết những phương Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông-Nam, Tây-Nam, Đông-Bắc, Tây-Bắc, phương trên, phương dưới là giới. Còn quá-khứ, vị-lai, hiện-tại là thế. Phương-hướng có mười, số lưu-chuyển của thời-gian có ba, hết thảy chúng-sinh dệt cái vọng mà thành như vậy; nơi sự dời-đổi trong thân, thế và giới gắn-bó với nhau. Nhưng cái tính của giới đó, tuy là mười phương, song có chỗ nhất-định có thể chỉ rõ, thì thế-gian chỉ nhận phương Đông, phương Tây, phương Nam, phương Bắc; phía trên, phía dưới, thì không có vị-trí rõ-ràng; ở giữa cũng không có chỗ nhất-định. Số bốn đã rõ rồi, nhân với số thế, thì ba lần bốn, bốn lần ba, xoay-vần là số mười hai, nhân luôn ba lớp, một chục thành trăm, thành nghìn, thì tổng-quát trước sau, ở trong sáu căn, mỗi mỗi có thể có đến một nghìn hai trăm công-năng.

A-nan, trong sáu căn đó, ông lại xét-định chỗ hơn, chỗ kém. Như nhãn-căn xem-thấy, phía sau thì tối, phía trước thì sáng, phương trước toàn sáng, phương sau toàn tối, kể cả ngó qua bên phải bên trái, thì ba phần chỉ thấy được hai; tóm lại công-năng của nhãn-căn không toàn-vẹn, trong ba phần công-năng thì một phần không có; vậy nên biết nhãn-căn chỉ có tám trăm công-năng.

Như nhĩ-căn nghe khắp, mười phương không sót, động thì giống như có xa có gần, tĩnh thì không có bờ-bến; vậy nên biết nhĩ-căn đầy-đủ một nghìn hai trăm công-năng.

Như tỷ-căn ngửi-biết cả lúc thở ra, thở vào; chỉ có trong lúc thở ra, thở vào mà còn thiếu trong lúc hơi thở giao-tiếp; xét nơi tỷ-căn, ba phần còn thiếu một; vậy nên biết tỷ-căn chỉ có tám trăm công-năng.

Như thiệt-căn phô-bày cùng-tột trí thế-gian và xuất-thế-gian; lời nói có chừng hạn, nhưng lý thì vô-cùng vô-tận; vậy nên biết thiệt-căn đầy-đủ một nghìn hai trăm công-năng.

Như thân-căn biết xúc-trần, biết các cảm-xúc trái và thuận; khi hợp lại thì biết, khi rời ra thì không biết, rời chỉ có một, hợp thì có hai; xét nơi thân-căn, ba phần còn thiếu một; vậy nên biết thân-căn chỉ có tám trăm công-năng.

Như ý-căn thầm-lặng dung-nạp tất-cả các pháp thế-gian, xuất-thế-gian trong mười phương ba đời; dù thánh hay phàm, không pháp nào không bao-dung cùng-tột bờ-bến; vậy nên biết ý-căn đầy-đủ một nghìn hai trăm công-năng.

A-nan, nay ông muốn ngược dòng sinh-tử, xoay về tột gốc lưu-chuyển, đến chỗ không sinh-diệt, thì nên xét trong sáu căn hiện đương thụ-dụng, cái gì là hợp, cái gì là ly, cái gì là sâu, cái gì là nông, cái gì là viên-thông, cái gì là không viên-mãn. Nếu ngộ được căn-tính viên-thông nơi đó, ngược lại dòng nghiệp dệt vọng vô-thủy kia và theo được tính viên-thông, thì đối với sự tu-hành nơi cái căn không viên-thông, hiệu-quả xấp bội, một ngày bằng một kiếp. Tôi nay đã chỉ rõ sáu căn viên-minh, vốn có những số-lượng công-năng như thế; tùy ông lựa chọn nơi căn nào, có thể nhập đạo được, thì tôi sẽ phát-minh, để cho ông được tăng-tiến trên đường tu-hành. Thập-phương Như-lai, nơi mười tám giới, mỗi giới đều tu-hành được viên-mãn vô-thượng Bồ-đề; trong các giới đó, cũng không có gì là hơn, là kém. Chỉ vì ông căn-cơ thấp-kém, chưa thể viên-mãn trí-tuệ, tự-tại trong ấy được, nên tôi bảo ông chỉ đi sâu vào một căn, đi sâu đến chỗ không còn vọng-tưởng, thì cả sáu căn kia một thời đều thanh-tịnh".

Chi 3. - Chỉ rõ chỗ hư-vọng của sáu căn

Ông A-nan bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, làm sao ngược dòng hư-vọng, đi sâu vào một căn, lại có thể khiến cho sáu căn một thời đều thanh-tịnh?"

Phật bảo ông A-nan: "Ông nay đã được quả Tu-đà-hoàn, đã diệt được kiến hoặc của ba cõi thế-gian chúng-sinh, song còn chưa biết những tập-khí hư-vọng chứa-nhóm trong căn từ vô-thủy; các tập-khí kia, phải nhân tu-đạo rồi mới đoạn được, huống chi, trong đó còn có rất nhiều phân-loại, số-mục sinh-trụ dị-diệt.

Nay ông hãy xét sáu căn hiện-tiền là một, hay là sáu. A-nan, nếu nói là một, thì lỗ tai sao không thấy, con mắt sao không nghe, đầu sao không đi, chân sao không nói; còn nếu sáu căn đó quyết-định là sáu, thì như trong Hội này, tôi chỉ-dạy pháp-môn nhiệm-mầu cho ông, trong sáu căn của ông, cái gì lĩnh-thụ?"

Ông A-nan bạch: "Tôi dùng lỗ tai nghe".

Phật dạy: "Lỗ tai ông tự nghe, nào dính gì đến thân với miệng, mà miệng ông thì hỏi nghĩa, thân ông thì đứng dậy kính vâng. Vậy nên biết rằng chẳng phải một, mà cuối-cùng thành sáu, chẳng phải sáu, mà cuối-cùng thành một, rốt-cuộc cái căn của ông, vốn không phải là một, hay là sáu. A-nan, ông nên biết cái căn ấy không phải một, không phải sáu; do từ vô-thủy đắm-chấp trái-ngược, nên nơi tính viên-trạm, sinh ra có cái một, cái sáu. Nay ông được quả Tu-đà-hoàn, tuy đã tiêu được cái sáu, nhưng còn chưa quên cái một.

Như cái hư-không, tham-hợp với các khí-mãnh; do hình-trạng khí-mãnh khác nhau, mà gọi là hư-không khác nhau, đến khi trừ-bỏ khí-mãnh mà xem cái hư-không, thì nói hư-không là một; chứ cái hư-không kia, làm sao lại vì ông mà thành đồng hay không đồng, huống nữa, lại gọi là một hay không phải một.

Sáu căn hay-biết của ông thì cũng như vậy.

Do hai thứ sáng và tối, tỏ-bày lẫn nhau, nơi tính diệu-viên, làm dính tính yên-lặng, phát ra cái thấy; cái thấy ánh ra thành sắc, kết cái sắc lại thành căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi hình-thể con mắt như quả bồ-đào; bốn trần của phù-căn rong-ruổi chạy theo sắc.

Do hai thứ động và tĩnh, đối-chọi lẫn nhau, nơi tính diệu-viên, làm dính tính yên-lặng, phát ra cái nghe; cái nghe ánh ra thành tiếng, cuốn cái tiếng lại thành căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi hình-thể cái tai như lá mới cuốn; bốn trần của phù-căn rong-ruổi chạy theo tiếng.

Do hai thứ thông và bịt, phát-hiện lẫn nhau, nơi tính diệu-viên, làm dính tính yên-lặng, phát ra cái ngửi; cái ngửi ánh ra thành hương, thu-nạp cái hương thành căn, gốc căn, thì gọi đó là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi hình-thể cái mũi như hai móng tay rủ xuống; bốn trần của phù-căn rong-ruổi chạy theo hương.

Do hai thứ nhạt và có vị, tham-chước lẫn nhau, nơi tính diệu-viên, làm dính tính yên-lặng, phát ra cái nếm; cái nếm ánh ra thành vị, thưởng-thức cái vị thành, thưởng-thức cái vị thành căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi hình-thể cái lưỡi như mặt trăng mới khuyết; bốn trần của phù-căn rong-ruổi chạy theo vị.

Do hai thứ ly và hợp, so-sánh lẫn nhau, nơi tính diệu-viên, làm dính tính yên-lặng, phát ra cái biết xúc; cái biết xúc ánh ra thành xúc, ôm-nắm cái xúc thành căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi hình-thể cái thân như dáng trống cơm, bốn trần của phù-căn rong-ruổi chạy theo xúc.

Do hai thứ sinh và diệt, tiếp-tục lẩn nhau, nơi tính diệu-viên, làm dính tính yên-lặng, phát ra cái biết; cái biết ánh ra thành các pháp, tóm-thu các pháp thành căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi cái ý như cái thấy trong phòng tối; bốn trần của phù-căn rong-ruổi chạy theo pháp".

Chi 4. - Chỉ ra hư-vọng không thật. Phát-minh chân-tính thì viên-thoát.

"A-nan, sáu căn như vậy do tính giác-minh kia chuyển thành minh-giác, mất tính sáng-suốt, dính với cái vọng mà phát ra hay-biết. Vậy nên ông nay rời sáng rời tối, thì không có cái thấy, rời động rời tĩnh, thì không có cái nghe, không thông không bịt, thì cái ngửi không sinh, không vị không nhạt, thì cái nếm không phát ra, không ly không hợp, thì cái biết xúc vốn không, không diệt không sinh, thì cái rõ-biết không gá vào đâu.

Ông chỉ đi theo những động-tĩnh, hợp-ly, không vị có vị, thông bịt, sáng tối, sinh diệt, cả mười hai tướng hữu-vi đó, đi đến rút được một căn ra khỏi cái dính, phục vào bên trong, phục trở về tính bản-chân, phát ra tính sáng-suốt bản-lai; tính sáng-suốt đó đã phát-minh, thì năm chỗ dính khác cũng liền đó được giải-thoát.

Không do tiền-trần mà khởi ra tri-kiến thì cái sáng-suốt không đi theo căn, chỉ gửi nơi căn mà phát ra; nhân đó sáu căn có thể dùng thay lẫn nhau.

A-nan, há ông không biết ở trong Hội này, ông A-na-luật-đà không có mắt mà thấy, rồng Bạt-nan-đà không có tai mà nghe, thần-nữ Căng-già không có mũi mà nghe hương, ông Kiều-phạm-bát-đề lưỡi khác mà biết vị, thần Thuấn-nhã-đa không có thân mà biết xúc, do hào-quang Như-lai ánh ra, làm cho ông ấy tạm-thời hiện ra có thân, chứ bản-chất của ông là gió, thì thân-thể vốn không có; các vị Thanh-văn được tịch-diệt trong diệt-tận-định, như ông Ma-ha-ca-diếp trong Hội này, đã diệt ý-căn lâu rồi mà vẫn rõ-biết cùng khắp, không nhân tâm-niệm.

A-nan, nếu các căn của ông đều được giải-thoát trọn-đủ, thì cái sáng-suốt trong tâm-tính phát ra; như thế, thì các phù-trần và các tướng biến-hóa trong thế-gian sự vật đều tiêu mất, như giá gặp nước sôi, ngay đó, liền hóa-thành vô-thượng tri-giác.

A-nan, như người thế-gian kia, nhóm cái thấy nơi con mắt; nếu bảo nhắm kín, thì tướng tối hiện ra, cả sáu căn đều tối, đầu và chân giống nhau. Người kia lấy tay rờ quanh ngoài thân-thể, thì tuy không thấy, nhưng một phen nhận được đầu và chân rồi, thì cái hay-biết vẫn đồng như trước kia.

Duyên vì cái thấy nhân nơi sáng, nên khi tối thành ra không thấy, chứ không có sáng mà tự phát ra cái thấy, thì các thứ tối hẳn không thể làm mờ được. Căn và trần đã tiêu rồi, làm sao tính giác-minh lại không thành nhiệm-mầu cùng khắp".

MỤC XII

ĐÁNH CHUÔNG THẬT-NGHIỆM TÍNH-THƯỜNG

ĐOẠN I

NGHI CĂN-TÍNH KHÔNG CÓ TỰ-THỂ

Ông A-nan bạch Phật rằng: "Bạch Thế-tôn, như lời Phật dạy, chỗ phát-tâm cầu được thường-trụ trong lúc tu-nhân, cốt-yếu cần phải cân-xứng với những đức-tính trong lúc chứng-quả. Bạch Thế-tôn, như trong quả-vị, nào là Bồ-đề, Niết-bàn, Chân-như, Phật-tính, Am-ma-la-thức, Không-như-lai-tạng, Đại-viên-kính-trí; bảy thứ danh-hiệu tuy có khác nhau, nhưng thể-tính đều thanh-tịnh viên-mãn, vững-chắc như Kim-cương-vương, thường-trụ, không hư-nát.

Nếu cái thấy nghe, ngoài những tướng sáng tối, động tĩnh, thông bịt, rốt-ráo không có tự-thể cũng như cái tâm-niệm, rời tiền-trần ra, vốn không có gì, thì làm sao lại đem cái rốt-ráo đoạn-diệt ấy làm cái nhân tu-hành, để được bảy quả thường-trụ của Như-lai. Bạch Thế-tôn, nếu rời sáng tối, thì cái thấy rốt-ráo là không; nếu không có tiền-trần, thì tự-tính tâm-niệm diệt mất, lui tới vần-xoay, suy-xét chín-chắn, vốn không có tâm tôi và tâm sở của tôi; vậy đem cái gì làm nhân, để cầu được vô-thượng-giác. Đức Như-lai trước kia nói cái tính hay-biết yên-lặng là viên-mãn thường-trụ, nhưng đã trái với lẽ thường, thì rốt-cuộc chỉ thành hý-luận, làm sao nhận được lời nói Như-lai là chân-thậnt. Xin Phật rủ lòng đại-từ, mở chỗ mê-chấp cho tôi".

ĐOẠN II

CHỈ RA TÍNH-NGHE LÀ THƯỜNG-TRỤ

Phật bảo ông A-nan rằng: "Ông học về mặt nghe nhiều, chưa hết các điều lậu-lạc, trong tâm chỉ biết suông cái nhân điên-đảo mà cái điên-đảo hiện-thật trước đó thì chưa biết được, e ông thành-thật còn chưa tin-phục. Nay tôi thử đem những việc trần-tục để trừ cái nghi của ông." Khi bấy giờ, đức Như-lai bảo ông La-hầu-la đánh một tiếng chuông, rồi hỏi ông A-nan rằng: "Nay ông có nghe chăng?"

Ông A-nan và đại-chúng đều nói: "Có nghe".

Chuông hết kêu, không tiếng, Phật lại hỏi rằng: "Nay ông có nghe chăng?"

Ông A-nan và đại-chúng đều đáp: "Không nghe".

Khi đó, ông La-hầu-la lại đánh một tiếng, Phật lại hỏi rằng: "Nay ông có nghe chăng?"

Ông A-nan và đại-chúng đều đáp: "Có nghe".

Phật hỏi ông A-nan: "Thế nào, thì ông có nghe, còn thế nào, thì ông không nghe?"

Ông A-nan và đại-chúng đều bạch Phật rằng: "Tiếng chuông nếu đánh lên, thì chúng tôi được nghe; đánh lâu tiếng hết, tăm-vang đều không còn, thì gọi là không nghe."

Như-lai lại bảo ông La-hầu-la đánh chuông, rồi hỏi ông A-nan rằng: "Theo ông, nay có tiếng không?"

Ông A-nan và đại-chúng đều nói: "Có tiếng".

Ít lâu tiếng dứt, Phật lại hỏi rằng: "Theo ông, nay có tiếng không?"

Ông A-nan và đại-chúng đều đáp: "Không tiếng."

Lát sau, ông La-hầu-la lại đánh chuông, Phật lại hỏi rằng: "Theo ông, nay có tiếng không?"

Ông A-nan và đại-chúng đều nói: "Có tiếng".

Phật hỏi ông A-nan: "Thế nào, ông gọi là có tiếng, còn thế nào, thì gọi là không tiếng?"

Ông A-nan và đại-chúng đều bạch Phật rằng: "Tiếng chuông, nếu đánh lên, thì gọi là có tiếng, đánh lâu tiếng hết, tăm-vang đều không còn, thì gọi là không tiếng".

Phật bảo ông A-nan và đại-chúng rằng: "Hôm nay các ông sao nói trái-ngược, lộn-xộn như thế?"

Đại-chúng và ông A-nan đồng-thời bạch Phật: "Làm sao Phật bảo chúng tôi trái-ngược lộn-xộn?"

Phật dạy: "Tôi hỏi ông về nghe, thì ông nói là nghe, tôi hỏi về tiếng, thì ông nói là tiếng, chỉ cái nghe và cái tiếng mà trả lời không nhất-định như thế, sao lại không gọi là trái-ngược lộn-xộn? A-nan, tiếng tiêu mất, không tăm vang, thì ông gọi là không nghe; nếu thật không nghe, thì tính-nghe đã diệt rồi đồng như cây khô, khi tiếng chuông lại đánh lên, làm sao ông còn biết được. Biết có, biết không là tự cái tiếng hoặc không, hoặc có, đâu phải tính-nghe kia vì đó mà có, mà không; nếu tính-nghe thật là không, thì còn cái gì biết là không nữa.

Vậy nên A-nan, cái tiếng ở trong cái nghe tự có sinh, có diệt, không phải vì ông nghe cái tiếng sinh diệt, mà làm cho tính-nghe của ông thành có, thành không. Ông còn lộn-lạo, lầm cái tiếng làm cái nghe, lạ gì chẳng mê mờ, lấy cái thường làm cái đoạn. Tóm lại, ông không nên nói rằng rời các thứ động tĩnh, đóng mở, thông bịt, thì cái nghe không có tính.

Như người ngủ mê, nằm trên giường gối; trong nhà có người, trong lúc người kia ngủ, giã một cối gạo; người ấy trong chiêm-bao nghe tiếng giã gạo, lầm thành vật khác, hoặc cho là đánh trống, hoặc cho là đánh chuông. Tức trong chiêm-bao người ấy cũng lấy làm lạ rằng sao tiếng chuông lại vang lên như cây, như đá. Khi chợt tỉnh-dậy, liền nghe tiếng chày, thì người ấy tự bảo người nhà rằng chính trong lúc chiêm-bao, tôi đã lầm tiếng chày này là tiếng trống. A-nan, người đó, trong chiêm-bao, đâu nhớ những chuyện động tĩnh, đóng mở, thông-bịt; hình người kia tuy ngủ nhưng tính-nghe không mờ, dầu cho hình ông tiêu-tan, thân-mạng dời-đổi diệt mất, làm sao tính-nghe ấy lại vì ông mà tiêu-diệt được.

Do các chúng-sinh, từ vô-thủy đến nay, đi theo sắc thanh, theo niệm mà lưu-chuyển, không hề khai-ngộ bản-tính thanh-tịnh diệu-thường; không theo cái thường, chỉ theo các thứ sinh-diệt, do đó, đời đời bị tạp-nhiễm mà phải lưu-chuyển.

Nếu bỏ cái sinh-diệt, giữ tính chân-thường; cái sáng-suốt chân-thường hiện-tiền, thì các tâm-niệm căn, trần, thức, ngay đó đều tiêu mất; tướng vọng-tưởng là trần, tính phân-biệt là cấu, hai cái đó đã xa-rời, thì pháp-nhãn của ông liền được trong-suốt, làm sao lại không thành bậc vô-thượng tri-giác?"

QUYỂN NHÌ

 

ĐOẠN VIII

CHỈ TÍNH-THẤY KHÔNG SINH KHÔNG DIỆT

Khi bấy giờ ông A-nan cùng cả đại-chúng nghe lời Phật dạy, thân tâm thư-thái, nghĩ mình từ vô-thủy đến nay, bỏ mất bản-tâm, lầm-nhận sự phân-biệt bóng-dáng tiền-trần làm tâm, ngày nay được khai-ngộ như em bé mất sữa, bỗng gặp mẹ hiền, chấp tay lễ Phật, xin đức Như-lai, ở nơi thân tâm, chỉ ra chỗ chân chỗ vọng, chỗ hư chỗ thật, ở nơi hiện-tiền phát-minh ra hai tính sinh-diệt, và không sinh-diệt.

Khi ấy vua Ba-tư-nặc đứng dậy bạch Phật: “Trước tôi chưa được vâng nghe lời Phật dạy-bảo, tôi thấy bọn Ca-chiên-diên, Tỳ-la-chi-tử đều nói thân này chết rồi là mất hẳn và gọi đó là Niết-bàn; nay tuy được gặp Phật nhưng tôi vẩn còn hồ-nghi, xin Phật chỉ rõ thế nào chứng-biết tính không sinh-diệt nơi tâm này. Hiện nay các hàng hữu-lậu trong đại-chúng cũng đều trông mong được nghe điều ấy.”

Phật bảo: “Đại-vương, thân ông hiện đó, nay tôi hỏi ông: Cái nhục-thân đó của ông có như kim-cương thường còn, không hư-hỏng hay lại cũng biến-đổi và tan-rã?

- Bạch Thế-tôn, thân tôi hiện nay rốt-cuộc về sau cũng thay-đổi và tiêu-diệt”.

Phật bảo: “Đaị-vương, ông chưa hề bị diệt, làm sao lại biết được là phải diệt?

- Bạch Thế-tôn, cái thân vô-thường thay-đổi của tôi đây, tuy chưa hề bị diệt; song tôi xét nó hiện nay niệm-niệm dời-đổi, mãi mãi không thôi như lửa thành tro, lần lần tiêu mất; vì tiêu mất, mãi mãi không dừng nên tôi biết chắc thân này rồi phải diệt mất”.

Phật dạy: “Đúng thế, Đại-vương, tuổi-tác của ông nay đã già-yếu, vậy mặt mày của ông so với lúc còn bé thì như thế nào?

- Bạch Thế-tôn, lúc tôi bé nhỏ, da thịt mớn-mơ, đến khi trưởng-thành, huyết-khí sung-túc; nay thì tuổi già, ngày thêm suy-yếu, hình-sắc khô-gầy, tinh-thần lẫn-lộn, tóc bạc mặt nhăn, chừng sống không được bao lâu nữa, so-sánh sao được với lúc đương còn trẻ-mạnh!”

Phật bảo: “Đại-vương, hình-dung của ông, nào phải đương trẻ mà già liền đâu?”

Vua bạch: “Thưa Thế-tôn, sự biến-hóa thầm-thầm dời-đổi, tôi thật không hay; nắng mưa thấm-thoát, lần đến thế nầy. Vì sao? Khi 20 tuổi, tuy gọi là trẻ, nhưng mặt mày của tôi đã già hơn khi 10 tuổi; khi 30 tuổi lại sút hơn lúc 20 tuổi và đến nay đã 60 lại thêm hai tuổi, trông lại lúc 50 tuổi, còn khỏe-mạnh hơn nhiều. Bạch Thế-tôn, tôi thấy thầm-thầm dời-đổi như thế; thân nầy đến nay tuy đã suy-yếu, nhưng trong sự thay-đổi, còn chia từng 10 năm. Nếu tôi suy-xét chín-chắn hơn nữa thì cái biến-đổi ấy đâu phải từng một kỷ, thật là mỗi năm mỗi thay-đổi; lại đâu mỗi năm mỗi thay-đổi mà cũng là mỗi tháng mỗi biến-hóa; lại không những mỗi tháng mỗi biến-hóa mà còn mỗi ngày mỗi đổi-thay; xét cho cùng, nghĩ cho kỹ, trong mỗi sát-na, trong mỗi niệm, nó không thể đứng yên, vậy nên tôi biết thân tôi rốt-cuộc phải biến-đổi và tiêu-diệt”.

Phật bảo: “Đại-vương, ông thấy biến-hóa dời-đổi không ngừng, ngộ biết là phải diệt; vậy trong lúc diệt đó, ông có biết trong thân có cái gì không diệt chăng?”

Vua Ba-tư-nặc chấp tay bạch Phật: “Thật tôi không biết”.

Phật bảo: “Nay tôi chỉ cho ông cái tính không sinh-diệt, Đại-vương, khi ông mấy tuổi, mới thấy nước sông Hằng”.

Vua bạch: “Khi tôi ba tuổi, mẹ tôi dắt đi yết-lễ thần Kỳ-bà-thiên thì đã đi qua sông ấy; lúc đó tôi liền biết là nước sông Hằng”.

Phật bảo: “Đại-vương, như lời ông nói: Lúc 20 tuổi thì sút hơn lúc lên 10, cho đến nay đã 60 tuổi, từng năm, từng tháng, từng ngày, từng giờ, dời-đổi mãi mãi; vậy khi ông 3 tuổi thấy nước sông ấy, rồi đến khi 13 tuổi thì nước ấy thế nào?”

Vua bạch: “Tôi thấy nước ấy cũng giống khi 3 tuổi, như nhau không khác và đến nay tuổi đã 62, cũng vẫn không khác”.

Phật bảo: “Nay ông xét mình đầu bạc mặt nhăn, mặt ông chắc là nhăn hơn lúc trẻ; vậy cái thấy hiện nay của ông thấy sông Hằng so với cái thấy lúc nhỏ thấy sông Hằng, có già trẻ gì không?”

Vua bạch: “Thưa Thế-tôn, không”.

Phật bảo: “Đại-vương, mặt ông tuy nhăn, nhưng cái thấy đó chưa hề bị nhăn; cái bị nhăn thì thay-đổi, còn cái không bị nhăn thì không có thay-đổi. Cái thay-đổi thì phải diệt, còn cái không thay-đổi kia, vốn không sinh-diệt, làm sao trong ấy, lại nhận sống cái chết của ông, mà ông còn dẫn những thuyết của bọn Mạt-già-lê kia bảo rằng thân này chết rồi diệt hẳn”.

Vua nghe lời Phật dạy như vậy, tin-biết về sau bỏ thân nầy qua thân khác, cùng với đại-chúng nhẩy-nhót vui-mừng, được cái chưa từng có.

ĐOẠN IX

CHỈ CHỖ TRÁI-NGƯỢC

Ông A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, lễ Phật chấp tay, quỳ dài bạch Phật: “Thưa Thế-tôn, nếu cái thấy nghe đó thật không sinh-diệt thì làm sao đức Thế-tôn lại gọi bọn chúng tôi bỏ mất chân-tính, làm việc trái-ngược? Xin Phật mở lòng từ-bi, rửa sạch trần-cấu cho chúng tôi”.

Khi ấy Đức Như-lai ruỗi cánh tay kim-sắc, ngón tay chỉ xuống, bảo ông A-nan rằng: “Ông nay thấy tay Mẫu-đà-la tôi là chính hay là ngược?”

Ông A-nan bạch: “Chúng-sinh thế-gian cho đó là ngược, còn tôi thì không biết thế nào là chính, thế nào là ngược”.

Phật bảo ông A-nan: “Nếu người thế-gian cho đó là ngược, thì người thế-gian gọi thế nào là chính?”

Ông A-nan bạch Phật: “Đức Như-lai đưa cánh tay lên, tay Đâu-la-miên chỉ lên trên không thì gọi là chính”.

Phật liền giơ cánh tay lên và bảo ông A-nan rằng: “Cái trái-ngược như thế, chỉ là đầu đuôi thay-đổi lẫn nhau; các người thế-gian lắp đi lắp lại mà xem thấy. Nay lấy cái thân ông và pháp-thân thanh-tịnh của chư Như-lai, so theo đó mà phát-minh, thì thân của Như-lai gọi là chính-biến-tri, thân của các ông gọi là tính trái-ngược; tùy ông xét kỹ nơi thân ông và thân Phật, cái gọi là trái-ngược đó, do ở chỗ nào mà gọi là trái-ngược?”

Khi ấy ông A-Nan cùng cả đại chúng chăm-chăm ngó Phật, tròng con mắt không lay-động, chẳng biết thân tâm chỗ nào trái-ngược. Phật phát-lòng từ-bi, thương-xót ông A-nan và đại-chúng, phát tiếng hải-triều, khắp bảo trong Hội: “Các thiện-nam-tử, tôi thường nói rằng : “Sắc, tâm, các duyên và các tâm-sở, các pháp sở-duyên, đều duy tâm-tính biến-hiện. Thân ông, tâm ông đều là những vật hiện ra trong tâm-tính. Làm sao các ông lại bỏ mất tâm-tính quý-báu ấy, nhận cái mê trong ngộ. Mê-muội thành có hư-không, trong hư-không mê-muội ấy, kết cái mê-muội thành ra có sắc; sắc xen với vọng-tưởng; tưởng tướng làm thân, nhóm các duyên lay-động bên trong, giong-ruổi theo cảnh-vật bên ngoài; rồi lấy cái tướng mờ-mịt lăng-xăng đó làm tâm-tính. Một phen lầm cái tướng ấy làm tâm thì quyết-định lầm cho rằng tâm ở trong sắc-thân, mà không biết sắc-thân, cho đến núi sông, hư-không, đất liền bên ngoài đều là những vật hiện trong tâm-tính; ví-như bỏ cả trăm nghìn biển lớn trong-lặng, chỉ nhận một cái bọt nước; rồi cho nó là toàn hết cả nước, cùng-tột các biển lớn. Bọn ông tức là những người mê-lầm nhiều lớp, như cánh tay tôi rủ xuống, không có sai khác. Như-lai gọi là đáng thương-xót đó”.

ĐOẠN X

LỰA-BỎ TÂM PHAN-DUYÊN ĐỂ CHỈ TÍNH-THẤY KHÔNG THỂ TRẢ VỀ ĐÂU

Chi I. - Trình-bày chỗ ngộ, nhưng chưa dám tự-nhận.

Ông A-nan vâng nghe lời Phật từ-bi cứu-độ dạy bảo, khóc lóc tréo tay mà bạch Phật rằng: "Tuy tôi vâng nghe diệu-âm của Phật như vậy, ngộ được chỗ thường-trụ viên-mãn sẵn có của tâm-tính, nhưng tôi ngộ được pháp-âm của Phật vừa dạy là tôi hiện lấy tâm phan-duyên mà thỏa-mãn chỗ ước-mong. Tôi luống được tâm ấy, chưa dám nhận là tâm-tính bản-lai; mong Phật thương xót, tuyên lời viên-âm, nhổ gốc nghi-ngờ của tôi, đem về đạo vô thượng."

Chi 2. - Trách còn nhận ngón tay chỉ để lựa ra tâm phân-biệt đều đã có chỗ trả về.

Phật bảo ông A-nan: "Bọn ông còn lấy tâm phan-duyên mà nghe pháp thì cái pháp nhận được đó cũng chỉ là sở-duyên, chứ không phải nhận được pháp-tính. Ví như có người lấy ngón tay chỉ mặt trăng cho người khác thì người kia lẽ ra phải nhân ngón tay mà thấy mặt trăng. Nếu như người kia xem ngón tay và cho đó là mặt trăng thì người ấy chẳng những bỏ mất mặt trăng mà cũng bỏ mất cả ngón tay chỉ nữa. Vì sao? Vì nhận ngón tay chỉ làm mặt trăng vậy. Đâu những bỏ mất ngón tay lại cũng không phân biệt được sáng và tối. Vì sao? Vì lấy ngón tay tối làm mặt trăng sáng thì không rõ biết được hai tính sáng tối. Ông cũng như vậy. Nếu lấy cái phân-biệt pháp-âm tôi làm tâm của ông thì cái tâm ấy phải rời cái phân-biệt tiếng nói, có tính phân-biệt.

Ví như người khách ngủ trọ quán trạm, ở tạm rồi đi, rốt cuộc ở mãi không được, còn người giữ trạm thì không đi đâu, gọi là chủ trạm. Tâm cũng như vậy, nếu thật tâm ông thì không đi đâu, làm sao rời cái tiếng, lại không có tính phân-biệt? Nói như thế chẳng những đối với tâm phân-biệt các tiếng; cái phân-biệt hình-dung của tôi, rời các sắc-tướng, cũng không có tính phân-biệt; như vậy cho đến cái phân-biệt đều không, không phải sắc, không phải không, mà bọn Câu-xá-ly lầm là minh-đế, thì rời các pháp-trần, cũng không tính phân-biệt. Như vậy tâm-tính của ông đều có chỗ trả về, lấy gì mà làm chủ?"

Chỉ 3. - Khai thị cái thấy không chỗ trả về.

Ông A-nan bạch: "Như tâm-tính của tôi đều có chỗ trả về, thì tâm-tính của Như-lai dạy, làm sao lại không có chỗ trả về? Xin Phật thương-xót chỉ bảo cho tôi điều ấy."

Phật bảo ông A-nan: "Hãy lấy cái tính thấy của ông thấy tôi đây. Tính thấy ấy tuy không phải là tâm-tính như mặt trăng thứ hai không phải thật là mặt trăng. Ông hãy nghe cho chín, nay tôi chỉ cho ông cái nghĩa không thể trả về.

A-nan, đại-giảng-đường nầy mở rộng phương Đông, khi mặt trời lên thì sáng, nửa đêm vắng trăng, mây mù mờ-mịt thì lại tối-tăm; chỗ có các cửa thì thấy thông-suốt; chỗ có tường nhà thì thấy ngăn bịt; chỗ phân-biệt được, thấy cảnh sắc-duyên; trong chỗ rỗng trống, toàn là hư-không; cảnh tượng mù-mịt khi bụi nổi lên; mưa tạnh trời thanh lại thấy trong sạch.

A-nan, ông đều xem rõ các tướng biến-hóa ấy, nay tôi trả các tướng ấy về chỗ bản-nhân của nó. Thế nào là bản-nhân? A-nan, trong các tướng biến-hóa, cái sáng trả về cho mặt trời. Vì sao? Vì không mặt trời thì không sáng, nguyên-nhân cái sáng thuộc về mặt trời, cho nên trả cho mặt trời. Cái tối trả về cho trăng tối, thông-suốt trả về cho các cửa, ngăn-bịt trả về cho tường nhà, sắc-duyên trả về cho phân-biệt, rỗng trống trả về cho hư-không, mù-mịt trả về cho bụi, trong sáng trả về cho tạnh, và trong thế-gian có những cái gì, cũng không ra ngoài mấy loại ấy.

Còn cái tính-thấy của ông thấy tám thứ kia thì ông định trả về đâu. Vì sao? Nếu trả về cho sáng thì lúc không sáng lại không thấy tối, nay tuy các thứ sáng tối có sai khác, cái thấy không có sai khác. Các cái thấy có thể trả về tự nhiên không phải là ông, còn cái không thể trả về được thì không phải là ông mà là ai nữa? Vậy thì biết tâm ông vốn là nhiệm-mầu trong sạch sáng-suốt, ông tự mê-lầm, bỏ mất tính bản-nhiên mà chịu luân-hồi, thường bị chìm đắm trong bể sống chết, nên Như-lai gọi là đáng thương xót".

ĐOẠN XI

LỰA RIÊNG TRẦN CẢNH ĐỂ NÊU RA TÍNH THẤY

Chỉ I. - Vật không phải ta.

Ông A-nan bạch : "Tuy tôi biết tính-thấy ấy không thể trả về đâu, nhưng làm sao biết được đó là chân-tính của tôi".

Phật bảo ông A-nan : "Nay tôi lại hỏi ông : hiện ông chưa được đạo-quả vô-lậu thanh-tịnh, nhờ thần-lực của Phật, mới thấy được cõi sơ-thiền, không bị ngăn-ngại. Ông A-na-luật thì thấy cõi Diêm-phù-đề như xem quả am-ma-la trong bàn tay. Các vị Bồ-tát thấy trăm nghìn cõi thập phương Như-lai, cùng tột các quốc-độ thanh-tịnh, số như vi-trần, không chỗ nào không thấy. Còn chúng-sinh thì thấy rõ được không quá gang tấc.

A-nan, nay tôi cùng ông hãy xem cung-điện của Tứ-thiên-vương, chặng giữa xem khắp các loài thủy, lục, không, hành, tuy có nhiều hình-tượng sáng tối khác nhau, nhưng không cái gì là không phải tiền-trần chia cắt ngăn ngại. Ông hãy ở nơi đó phân-biệt cái gì là mình, cái gì là vật khác. Nay tôi hãy đưa ông lựa trong sự thấy đó, cái gì là tâm-thể của ông, cái gì là cái hình-tượng của vật. A-nan, cùng tột sức thấy của ông, từ mặt trời, mặt trăng đều là vật, chứ không phải ông; đến Thất-kim sơn, xem xét cùng khắp, tuy có những thứ hào-quang nhưng cũng là vật chứ không phải là ông; lần lần xem đến mây kéo, chim bay, gió động, bụi nổi, cây cối núi sông, cỏ rác người vật, đều là vật chứ không phải là ông.

Chi 2. - Cái thấy không phải là vật.

A-nan, các vật gần xa đó, tuy sai khác nhau, nhưng đồng do cái thấy của ông thanh-tịnh trông thấy, thì các thứ vật kia tự có sai khác mà tính-thấy của ông không có sai khác. Cái thấy nhiệm-mầu sáng-suốt đó thật là tính-thấy của ông.

Nếu cái thấy là vật thì ông cũng có thể thấy cái thấy của tôi. Nếu cho rằng đồng thấy sự vật là thấy cái thấy của tôi thì khi tôi không thấy, sao lại không thấy được cái chỗ không thấy của tôi? Nếu nói rằng thấy cái không thấy thì tự-nhiên cái đó không phải là cái tướng của cái không thấy; còn nếu không thấy được chỗ không thấy của tôi, thì cái thấy bản-nhiên không phải là vật, làm sao lại không phải là ông?

Chi 3. - Vật và ta không thể xen lộn.

Lại như cái thấy là vật thì đương khi ông thấy vật đó, ông đã thấy được vật, vật cũng thấy được ông, thế thì thể-tính xen lộn và ông cùng tôi với cả thế-gian không thành-lập được.

A-nan, nếu khi ông thấy là chính ông thấy, chứ không phải tôi, thì cái thấy cùng khắp đó không phải là ông thì còn là ai nữa.

Làm sao lại tự-nghi cái chân-tính của ông. Chân-tính của ông, ông không tự-nhận lấy, lại chấp lời nói của tôi, mà cầu chứng thật".

Chi 4. - Nghi cái thấy có lớn nhỏ đứt nối.

Ông A-nan bạch Phật rằng: Thưa Thế-tôn, nếu cái tính thấy đó chắc là tôi, chứ không phải ai khác, thì khi tôi cùng Như-lai xem cung-điện quý báo của Tứ-thiên-vương, xem mặt trời mặt trăng, cái thấy ấy cùng khắp cả cõi Sa-bà, khi lui về tịnh-xá thì chỉ thấy cảnh vườn chùa, đến khi thanh tâm nơi phòng chái thì lại chỉ thấy một chái nhà. Thưa Thế-tôn, cái thấy như vậy, bản thể của nó cùng khắp một cõi, nay ở trong phòng thì chỉ thấy một phòng; thế là cái thấy rút lớn thành nhỏ hay là tường nhà chia cắt làm cho đứt đoạn. Nay tôi không biết nghĩa đó thế nào, xin Phật vì tôi từ-bi chỉ rõ".

Chi 5. - Chỉ tiền-trần làm ngăn-ngại.

Phật bảo ông A-nan: "Tất-cả các thứ trong, ngoài, lớn nhỏ của thế-gian đều thuộc về tiền-trần, không nên nói rằng cái thấy có co có ruỗi. Ví như trong đồ vuông thì thấy hư-không vuông; nay tôi hỏi ông: Cái hư-không vuông thấy được trong đồ vuông ấy, là nhất-định vuông hay không nhất-định vuông? Nếu nhất-định vuông thì khi thay đồ tròn vào, lẽ ra hư-không tròn; nếu không nhất định thì trong đồ vuông, lẽ ra không có hư-không vuông. Ông nói không biết nghĩa đó do đâu, nghĩa đó như vậy, sao còn do đâu được.

A-nan, nếu muốn nhận được tính không vuông không tròn, chỉ trừ-bỏ cái vuông của đồ-đạc, chứ bản-thể hư-không vốn không vuông, không nên nói rằng lại phải trừ cả cái vuông của hư-không nữa.

Lại như lời ông hỏi: Khi vào trong phòng, rút cái thấy làm cho nhỏ lại thì khi ngửa xem mặt trời, há lại kéo cái thấy ngang với mặt trời? Nếu xây tường nhà chia-cắt cái thấy làm cho đứt-đoạn, thì đến khi xoi một lỗ nhỏ, sao lại không thấy dấu-nối. Nghĩa ấy không đúng.

Chi 6. - Khai-thị về chuyển được vật.

Tất-cả chúng-sinh từ vô-thủy đến nay, lầm mình là vật, bỏ mất tâm-tính, bị vật xoay-chuyển, cho nên trong đó thấy lớn thấy nhỏ. Nếu biết chuyển được vật thì đồng với Như-lai, thân tâm đều viên-mãn sáng-suốt, nơi đạo-trường bất-động đó, trên đầu một mảy lông cũng có thể trùm-chứa thập phương quốc-độ".

MỤC III

PHẬT NÊU RA TÍNH-THẤY RA NGOÀI CÁC NGHĨA "THỊ" VÀ "PHI-THỊ"
("Thị" thì tức là cái thấy - "Phi-thị" thì ra ngoài cái thấy).

ĐOẠN I

NGHI TÍNH-THẤY HIỆN Ở TRƯỚC MẮT

Ông A-nan bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, nếu cái thấy đó, chắc là chân-tính của tôi thì cái chân-tính đó, hiện ở trước mắt tôi; cái thấy đó đã là chân-tính của tôi thì thân tâm tôi, hiện nay, lại là vật gì? Mà nay thân tâm ấy thật có phân-biệt, còn cái thấy kia thì không phân-biệt riêng gì thân tôi. Nếu nó thật là tâm tôi, làm cho tôi hiện nay có thấy, vậy tính-thấy ấy đã thật là tôi, còn thân nầy không phải là tôi thì nào khác gì đức Như-lai trước kia đã hỏi-vặn rằng: " Vật thấy được tôi". Xin Phật rủ lòng đại-từ, chỉ-bày cho chỗ chưa ngộ".

ĐOẠN II

CHỈ RA "KHÔNG CÓ CÁI GÌ TỨC LÀ CÁI THẤY"

Phật bảo ông A-nan : "Nay ông nói rằng: Cái thấy ở trước mắt ông, nghĩa ấy không đúng. Nếu thật ở trước mắt ông và ông thật thấy được thì cái thấy đó đã có chỗ ở, không phải không chỉ ra được. Vậy nay tôi cùng ông ngồi trong rừng Kỳ-đà, trông khắp rừng, suối với các điện, đường, trên đến mặt trời, mặt trăng, trước đối với sông Hằng. Nay ông hãy ở trước sư-tử-tọa của tôi, giơ tay chỉ-bày trong các tướng kia, chỗ dâm là rừng, cái sáng là mặt trời, ngăn-ngại là vách, thông-suốt là hư-không, như thế cho đến cỏ cây, mảy-mún, tuy lớn nhỏ khác nhau, nhưng đã có hình thì không cái gì là không chỉ đích ra được. Vậy nếu cái thấy, hiện ở trước mắt ông thì ông hãy lấy tay chỉ rõ đích-xác cái gì là cái thấy. A-nan, ông nên biết, nếu hư-không là cái thấy, thì hư-không đã thành cái thấy, còn cái gì mới là hư-không; nếu vật là cái thấy, thì vật đã là cái thấy, còn cái gì mới là vật. Ông hãy chín-chắn chia-chẻ trong muôn hiện-tượng, tách ra cái thấy, chỉ-bày cho tôi như các vật kia, rõ-ràng không lầm-lẫn".

Ông A-nan bạch: "Nay tôi ở giảng-đường nầy, trông xa đến sông Hằng, trên đến mặt trời, mặt trăng, giơ tay chỉ ra, đưa mắt trông ra, thì những cái chỉ được đều là vật, chứ không có cái gì là cái thấy. Bạch Thế-tôn, như lời Phật vừa dạy, chẳng những hàng hữu-lậu sơ-học Thanh-văn như chúng tôi, mà cho đến các vị Bồ-tát cũng không thể, ở nơi hiện-tượng muôn vật, chỉ ra cái thấy, rời tất-cả vật, riêng có tự-tính".

Phật dạy: "Đúng thế, đúng thế".

ĐOẠN III

CHỈ RA KHÔNG CÓ CÁI GÌ RA NGOÀI CÁI THẤY

Phật lại bảo ông A-nan: "Như lời ông nói: Không có cái thấy, rời tất-cả vật, riêng có tự-tính; thì trong tất-cả các vật đã chỉ được, không có cái gì là cái thấy cả. Nay tôi lại bảo ông: Ông cùng Như-lai ngồi trong rừng Kỳ-đà, lại xem rừng vườn cho đến mặt trời mặt trăng, nhiều thứ hình-tượng khác nhau, trong đó, chắc không có cái thấy mà ông có thể chỉ ra được. Vậy ông hãy phát-minh trong các vật đó, có cái gì ra ngoài cái thấy?"

Ông A-nan bạch: "Thật tôi thấy khắp rừng Kỳ-đà nầy, không biết trong đó có cái gì ra ngoài cái thấy. Vì sao? Nếu cái cây ra ngoài cái thấy thì sao lại thấy cây, còn nếu cái cây tức là cái thấy thì sao lại là cây; như thế cho đến nếu hư-không ra ngoài cái thấy, thì sao thấy được hư-không, còn nếu hư-không tức là cái thấy, thì sao lại là hư-không. Tôi lại suy-nghĩ, phát-minh chín-chắn trong muôn hình-tượng, thật không có cái gì ra ngoài cái thấy cả".

Phật dạy: "Đúng thế, đúng thế".

ĐOẠN IV

NGÀI VĂN-THÙ KÍNH XIN PHẬT PHÁT-MINH HAI THỨ

Khi ấy trong đại-chúng, những vị chưa chứng-quả vô-học, nghe Phật dạy như thế, mờ-mịt chẳng biết nghĩa ấy đầu đuôi thế nào, nên đồng-thời sợ-hãi, không giữ được tâm thanh-tịnh.

Đức Như-lai biết đại-chúng tâm-niệm rối-loạn, sinh lòng thương-xót, an-ủi ông A-nan và cả đại-chúng rằng: "Các thiện-nam-tử, bậc vô-thượng Pháp-vương, lời nói chân-thật, như tính chân-như mà nói, không lừa không dối, không phải như bốn thứ luận-nghị càn-giỡ bất-tử của bọn Mạt-già-lê; ông hãy suy-nghĩ cho chín-chắn, chớ phụ lòng thương-mến của tôi".

Lúc ấy ngài Pháp-vương-tử Văn-thù-sư-lỵ thương xót hàng tứ-chúng, ở trong đại-chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ chân Phật, chấp tay cung-kính mà bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, đại-chúng nầy không ngộ được chỗ đức Như-lai phát-minh ra hai nghĩa "thị" và "phi-thị" nơi hai thứ "cái thấy" và "sắc không". Bạch Thế-tôn, nếu những hiện tượng sắc không nơi tiền-cảnh, tức là cái thấy, thì lẽ ra có chỗ chỉ được, còn nếu ra ngoài cái thấy, thì lẽ ra không thể thấy được; mà nay đại-chúng không rõ nghĩa ấy do đâu, nên mới kinh-sợ, chứ không phải vì trước đây thiện-căn ít-ỏi; kính mong đức Như-lai thương-xót, phát-minh cho rõ các vật-tượng ấy và cái thấy ấy vốn là vật gì, mà ở trong đó, lại không có các nghĩa "thị" và "phi-thị".

ĐOẠN V

CHỈ ĐÍCH TÍNH-THẤY KHÔNG CÓ CÁC NGHĨA "THỊ" VÀ "PHI-THỊ"

Phật bảo ngài Văn-thù cùng cả đại-chúng rằng: "Thập phương Như-lai và các vị đại-Bồ-tát ở trong tự-trụ Tam-ma-điạ, thì cái "thấy", cái "bị-thấy" và các tương-tướng hoa-đốm hư-không, vốn không có gì. Cái "thấy" và cái "bị thấy" đó vốn là tâm-tính Bồ-đề nhiệm-mầu trong-sạch sáng-suốt, làm sao trong đó, lại còn có các nghĩa "thị" và "phi-thị"?

Văn-thù, nay tôi hỏi ông: Như ông đây là Văn-thù, nơi ông lại có cái tức là Văn-thù hay không có Văn-thù?

- Bạch Thế-tôn, đúng thế. Tôi đây thật là Văn-thù, nơi tôi không có cái gì tức là Văn-thù, vì sao? Vì nếu có cái ấy, thì thành ra hai Văn-thù, nhưng tôi hiện nay không phải là không Văn-thù; trong đó thật không có hai tướng "thị" và "phi-thị".

Phật bảo: "Tính-thấy nhiệm-mầu sáng-suốt với các thứ sắc, không thì cũng như vậy. Vốn một tâm-tính vô-thượng Bồ-đề, lầm-nhận là sắc, không cùng với nghe, thấy, như dụi con mắt, thấy có hai mặt trăng, thì mặt trăng nào mới thật là mặt trăng, còn mặt trăng nào lại không phải là mặt trăng. Văn-thù, chỉ có một mặt trăng thật, trong ấy tự không có cái gì thật là mặt trăng hay không phải là mặt trăng. Vậy nên hiện nay, các ông phát-minh ra các thứ xem-thấy và trần-cảnh, đều gọi là vọng-tưởng, không thể ở trong đó, chỉ ra các nghĩa "thị" và "phi-thị". Nhưng do tất-cả đều là tâm-tính nhiệm-mầu sáng-suốt nên có thể làm cho các ông ra ngoài các nghĩa "chỉ được" và "không chỉ được".

MỤC IV

PHÁ NHỮNG THUYẾT NHÂN-DUYÊN TỰ-NHIÊN ĐỂ BÀY-TỎ SỰ THẬT NHẬN-THẤY TÍNH-THẤY

ĐOẠN I

NGHI TÂM-TÍNH TỰ-NHIÊN NHƯ THẦN-NGÃ

Ông A-nan bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, thật như lời Pháp-vương dạy, tâm-tính cùng khắp thập phương thế-giới, yên-lặng thường-trụ, không có sinh-diệt; điều ấy so với thuyết ông Phạm-chi Sa-tỳ ca-la ngày xưa nói về minh-đế, hay các thuyết ngoại-đạo như bọn Đầu-hói nói có chân-ngã cùng khắp mười phương, khác nhau thế nào? Ở núi Lăng-già, đức Thế-tôn đã từng, vì các ông Đại-tuệ, chỉ-dạy rằng: Bọn ngoại-đạo kia thường nói tự-nhiên, còn Phật nói nhân-duyên, không phải cảnh-giới của bọn kia. Nay tôi xét cái tâm-tính đó tự-nhiên, không phải sinh, không phải diệt, xa-rời tất-cả các điều trái-ngược, luống-dối, giống như không phải là nhân-duyên, cũng không phải là cái tự-nhiên của bọn kia. Xin Phật khai-thị thế nào, cho chúng tôi khỏi mắc tà-kiến và được tâm-tính trong-sạch nhiệm-mầu sáng-suốt".

ĐOẠN II

CHỈ RA KHÔNG PHẢI LÀ TỰ-NHIÊN

Phật bảo ông A-nan: "Nay tôi phương-tiện chỉ-bày, chân-thật bảo ông như vậy, ông còn chưa ngộ, lại lầm là tự-nhiên. A-nan, nếu chắc là tự-nhiên, tự phải chỉ rõ thể-tính tự-nhiên. Ông hãy xét cái tính-thấy kia lấy cái gì làm tự-thể. Cái thấy đó lại là lấy cái sáng làm tự-thể, lấy cái tối làm tự-thể, lấy hư-không làm tự thể hay lấy ngăn-bịt làm tự-thể. A-nan, nếu lấy cái sáng làm tự-thể thì lẽ ra không thấy được tối, nếu lấy hư-không làm tự-thể thì lẽ ra không thấy được ngăn-bịt, như vậy cho đến lấy các tướng tối mà làm tự-thể thì đến khi sáng, tính-thấy đã diệt mất rồi, làm sao còn thấy được sáng ?"

ĐOẠN III

NGHI LÀ NHÂN-DUYÊN

Ông A-nan bạch : "Chắc cái tính-thấy ấy không phải là tự-nhiên, thì nay tôi phát-minh được, nó do nhân-duyên mà sinh; nhưng tâm còn chưa rõ, xin hỏi đức Như-lai, nghĩa-lý thế nào cho hợp với tính nhân-duyên".

ĐOẠN IV

CHỈ RA TÍNH-THẤY KHÔNG PHẢI LÀ NHÂN-DUYÊN VÀ KẾT-LUẬN TÍNH-THẤY RỜI CÁC DANH-TƯỚNG

Phật dạy: "Ông nói nhân-duyên, tôi lại hỏi ông: Nay ông do nhân-duyên mà có thấy; tính-thấy hiện trước đó, vậy tính-thấy, ấy lại là nhân cái sáng mà có thấy, nhân cái tối mà có thấy, nhân hư-không mà có thấy hay nhân ngăn-bịt mà có thấy? A-nan, nếu tính-thấy nhân cái sáng mà có, thì lẽ ra không thấy được tối, còn như nhân cái tối mà có, thì lẽ ra không được sáng; như vậy cho đến nhân hư-không, nhân ngăn-bịt, thì cũng đồng như nhân cái sáng và cái tối. Lại nữa, A-nan, cái thấy ấy lại là nương cái sáng mà có thấy, nương cái tối mà có thấy, nương hư-không mà có thấy hay là nương ngăn-bịt mà có thấy? A-nan, nếu nương hư-không mà có thấy, thì lẽ ra không thấy được ngăn-bịt; nếu nương ngăn-bịt mà có thấy, thì lẽ ra không thấy được hư-không; như vậy cho đến nương cái sáng, nương cái tối cũng đồng như nương hư-không, nương ngăn-bịt. Nên biết tính-thấy như vậy, không phải nhân, không phải duyên, không phải tự-nhiên, cũng không phải không tự-nhiên, không có nghĩa "không phải" hay "không không phải", không có nghĩa "tức là" hay "không tức là", rời hết tất-cả các tướng, tức là tất-cả sự vật; làm sao trong ấy, ông lại định đem các danh-tướng hí-luận thế-gian mà phân biệt cho được. Thế cũng như lấy bàn tay, nắm-bắt hư-không, chỉ thêm nhọc sức, chứ làm sao hư-không lại để cho ông nắm-bắt".

ĐOẠN V

LẠI NGHI NHÂN-DUYÊN

Ông A-nan bạch Phật rằng : "Thưa Thế-tôn, chắc cái tâm-tính ấy, không phải nhân-duyên, thế sao đức Thế-tôn lại thường chỉ-dạy cho các hàng tỷ-khưu rằng : Tính-thấy có bốn thứ nhân-duyên, nghĩa là nhân hư-không, nhân ánh-sáng, nhân cái tâm và nhân con mắt. Nghĩa đó thế nào?

ĐOẠN VI

PHẬT LẠI BÁC NHÂN-DUYÊN, TỰ-NHIÊN ĐỂ NÊU RA TÍNH-THẤY RỜI CẢ BỐN TƯỚNG

Phật bảo : A-nan, tôi nói như thế là nói về các tướng nhân-duyên thế-gian, đó không phải là đệ-nhất-nghĩa. A-nan, tôi lại hỏi ông : Các người thế-gian nói : Tôi thấy được, thì thế nào, họ gọi là thấy, còn thế nào, họ gọi là không thấy?"

Ông A-nan bạch : Người đời nhân ánh sáng mặt trời, mặt trăng và đèn, thấy các hình-tướng, thì gọi là thấy, còn nếu không có ba thứ ánh sáng đó, thì không thể thấy được."

- A-nan, nếu khi không sáng mà gọi là không thấy, thì lẽ ra không thấy được tối; nếu đã thấy được tối, thì khi đó, chỉ là không sáng, chứ đâu phải là không thấy. A-nan, nếu trong lúc tối, vì không thấy sáng mà gọi là không thấy; vậy nay, trong lúc sáng, không thấy cái tối, thì lại cũng phải gọi là không thấy; thế thì cả hai lúc sáng, tối, cũng đều gọi là không thấy cả. Còn nếu như hai cái sáng và tối tự lấn-át nhau, chứ không phải trong đó, tính-thấy của ông tạm-thời không có; thế thì biết cả hai lúc đều gọi là thấy, chứ sao lại gọi là không thấy. A-nan, vì vậy ông nên biết rằng : Trong lúc thấy sáng, cái thấy không phải là cái sáng, trong lúc thấy tối, cái thấy không phải là cái tối, trong lúc thấy hư-không, cái thấy không phải là hư-không, trong lúc thấy ngăn-bịt, cái thấy không phải là ngăn-bịt.

ĐOẠN VII

CHỈ THẲNG SỰ THẬT NHẬN-THẤY TÍNH-THẤY

"Bốn nghĩa đó đã thành-lập rồi, ông lại nên biết : Khi nhận-thấy tính-thấy thì tính-thấy không phải là cái thấy. Tính-thấy còn rời cả cái thấy và cái thấy không thể đến nơi tính-thấy được; làm sao, ông còn nói đến những nhân-duyên, tự-nhiên và tướng hòa-hợp? Bọn Thanh-văn ông hẹp-hòi không biết, không thông-suốt được sự thật thanh-tịnh, nay tôi chỉ-dạy cho ông, ông nên khéo suy-nghĩ, không được trễ-nãi trên đường Bồ-đề nhiệm-mầu".

MỤC V

CHỈ RA CÁI NHẬN-THỨC SAI-LẦM ĐỂ BÀY-TỎ THỂ-TÍNH CHÂN-THẬT

ĐOẠN I

XIN CHỈ-DẠY CÁI NGHĨA : NHẬN-THẤY TÍNH-THẤY KHÔNG PHẢI LÀ CÁI THẤY

Ông A-nan bạch Phật rằng : "Thưa Thế-tôn, như đức Thế-tôn, vì bọn chúng-tôi, chỉ-dạy về nhân-duyên, tự-nhiên các tướng hòa-hợp và không hòa-hợp, tâm tôi còn chưa khai-ngộ; nay lại nghe Phật dạy "nhận-thấy tính-thấy không phải là cái thấy" thì càng thêm lúng-túng, cúi xin Phật thương-xót, bố-thí cho con mắt đại-trí-tuệ, chỉ-bày cho chúng tôi tâm-tính trong-sạch sáng-suốt". Ông A-nan nói như vậy rồi, khóc lóc đỉnh-lễ, vâng nghe thánh-chỉ của Phật.

ĐOẠN II

TRƯỚC KHI DẠY PHÉP TỔNG-TRÌ, DẶN-BẢO PHẢI NGHE CHO CHÍN-CHẮN

Khi bấy giờ. đức Thế-tôn thương-xót ông A-nan và cả đại-chúng, định sẽ chỉ-dạy phép đại-tổng-trì là con đường tu-hành nhiệm-mầu các pháp Tam-ma-đề, bảo ông A-nan rằng : "Ông tuy nhớ lâu, chỉ thêm phần học rộng, nhưng nơi vi-mật quán chiếu Xa-ma-tha, tâm còn chưa rõ. Nay ông hãy nghe cho chín-chắn, tôi sẽ vì ông phân-tích chỉ-bày, đồng-thời cũng khiến cho những kẻ hữu-lậu tương-lai được quả Bồ-đề.

ĐOẠN III

CHỈ RA HAI THỨ NHẬN-THỨC SAI-LẦM

Chi 1. - Chỉ ra hai thứ sai-lầm

A-nan, tất-cả chúng-sinh luân-hồi trong thế-gian đều do hai nhận-thức sai-lầm, phân-biệt trái-ngược, chính nơi tâm-tính mà phát-sinh, chính theo nghiệp-báo mà xoay-vần. Hai nhận-thức ấy là gì? Một là nhận-thức sai-lầm nghiệp riêng của chúng-sinh, hai là nhận-thức sai-lầm nghiệp-chung của chúng-sinh.

Chi 2. – Nhận-thức sai-lầm nghiệp-riêng.
Thế nào gọi là nhận-thức sai-lầm nghiệp-riêng? A-nan, như người thế-gian, con mắt bị bệnh lòa thì ban đêm trông ngọn đèn, riêng có thấy bóng tròn ngũ sắc bao-phủ. Ý ông nghĩ thế nào? Cái bóng tròn hiện ra nơi ngọn đèn, đó, là sắc của ngọn đèn hay là sắc của cái thấy? A-nan, nếu như là cái sắc của ngọn đèn, thì sao những người không lòa lại không cùng thấy, mà chỉ có người lòa mới thấy bóng tròn. Nếu như là sắc của cái thấy, thì cái thấy đã thành sắc rồi, còn cái người lòa kia thấy được bóng tròn thì gọi là cái gì?

Lại nữa, A-nan, nếu cái bóng tròn kia ngoài ngọn đèn, riêng mình tự có, thì lẽ ra khi trông qua bình-phong, bức màn, bàn trà, ghế ngồi, đều có bóng tròn hiện ra; còn nếu ngoài cái thấy, bóng tròn, riêng mình tự có, thì lẽ ra không thể thấy được, làm sao người lòa lại thấy bóng tròn. Vậy nên biết rằng : Sắc thật ở nơi ngọn đèn, cái thấy bị bệnh làm ra có bóng tròn. Cả cái bóng tròn và cái thấy bóng tròn đều là bệnh lòa. Nhận thấy được bệnh lòa thì cái nhận thấy đó không phải là bệnh; rốt-cuộc không nên nói rằng bóng tròn là ngọn đèn hay là cái thấy, trong đó còn có bệnh lòa không phải ngọn đèn, không phải cái thấy. Ví như mặt trăng thứ hai, không phải thật-thể mặt trăng và cũng không phải là cái bóng của mặt trăng. Vì sao? Vì thấy có mặt trăng thứ hai là do dụi mắt mà thành ra vậy. Các người có trí, không nên bảo rằng mặt trăng dụi mắt mà thành ra đó, là hình-tướng hay không phải là hình-tướng, là ra ngoài cái thấy hay không ra ngoài cái thấy. Bóng tròn cũng như vậy, nó do bệnh lòa mắt mà thành; nay dầu muốn gọi cái gì là ngọn đèn hay là cái thấy cũng không được, huống nữa, còn phân-biệt là không phải nhọn đèn hay không phải là cái thấy!

Chi 3. - Nhận thức sai-lầm nghiệp-chung.

Thế nào gọi là nhận-thức sai-lầm nghiệp-chung?

A-nan, cõi Diệm-phù-đề này, trừ nước biển-cả ra, trong đó đất-bằng có 3.000 châu, châu lớn chính giữa, bao-quát từ Đông sang Tây, có đến 2.300 nước lớn. Còn các châu nhỏ khác ở trong các biển, trong đó có châu đến 200, 300 nước hoặc có một chục, hai chục, cho đến 30, 40, 50, nước. A-nan, nếu ở trong đó có một châu nhỏ, chỉ có hai nước, mà riêng người trong một nước đồng-cảm ác-duyên, thì chúng-sinh trong nước đó thấy tất-cả những cảnh-giới không tốt; hoặc thấy hai mặt trời, hoặc thấy hai mặt trăng, cho đến thấy nhiều ác-tướng khác, như vựng, thích, bội, quyết, tuệ, bột, phi, lưu, phụ-nhĩ, hồng-nghê; chỉ nước đó thấy, còn chúng-sinh nước bên kia, thì vốn không thấy và cũng không nghe.

ĐOẠN IV

SO-SÁNH CÁI THẤY HIỆN-TIỀN ĐỂ CHỈ RÕ Ý-NGHĨA : "NHẬN-THẤY TÍNH-THẤY KHÔNG PHẢI LÀ CÁI THẤY" XA-RỜI TƯỚNG HÒA-HỢP, VIÊN-MÃN ĐẠO BỒ-ĐỀ.

Chi 1. - Dùng nhận-thức nghiệp-riêng để chỉ rõ thế nào là nhận-thấy tính-thấy.

"A-nan, tôi nay đem hai việc đó, lui tới kết-hợp mà chỉ rõ.

A-nan, như cái nhận-thức sai-lầm nghiệp-riêng của chúng-sinh kia, thấy nơi ngọn đèn hiện ra bóng tròn, tuy giống như tiền-cảnh, nhưng rốt-cuộc là do bệnh lòa của người ấy tạo-thành. Lòa là bệnh của cái thấy, không phải do sắc-tướng tạo ra; song người nhận-thấy được bệnh lòa vẫn không có lỗi-lầm gì về cái thấy cả.

So-sánh với hiện nay, ông dùng con mắt xem thấy núi sông, cõi nước và các chúng-sinh, đều là do bệnh thấy vô-thủy tạo-thành. Cái thấy và cái bị thấy duyên nhau, hình-như hiện ra tiền-cảnh, thật-chất vốn là bệnh lòa, năng-kiến sở-kiến của tâm-tính mà thôi.

Giác-ngộ rằng thấy như thế tức là bệnh lòa, thì cái tâm giác-ngộ đó nhận-thức không lòa. Giác-ngộ thấy như thế là bệnh lòa, thì cái giác-ngộ đó không phải trong phạm-vi bệnh lòa; đó thật là nhận-thấy tính-thấy, sao còn gọi là thấy, nghe, hay, biết.

Vậy nên nay ông thấy tôi cùng ông và thập loại chúng-sinh trong thế-gian đều là thấy lòa, chứ không phải là thấy được cái bị bệnh lòa. Cái tính-thấy chân-thật kia, vốn ra ngoài bệnh lòa, cho nên không gọi là cái thấy.

Chi 2. - Lấy nghiệp-chung so với nghiệp-riêng đi đến nhận-rõ sự thật mười phương.

A-nan, như lấy nhận-thức sai-lầm nghiệp-chung kia của chúng-sinh, so với nhận-thức sai-lầm nghiệp-riêng của một người, thì một người đau mắt cũng đồng như cả một nước kia; người đau mắt thấy bóng tròn là do bệnh lòa giả-dối sinh ra; còn trong một nước kia, hiện ra các thứ không tốt là do ác-duyên nghiệp-chung của chúng-sinh tạo nên; cả hai đều do nhận-thức sai-lầm vô-thủy giả-dối sinh ra. Tỷ-lệ với 3000 châu, với bốn biển lớn trong cõi Diêm-phù-đề, với thế-giới Sa-bà cho đến nước hữu-lậu và các chúng-sinh trong mười phương, đồng là nơi tâm-tính nhiệm-mầu sáng-suốt, các bệnh duyên thấy, nghe, hay, biết, sai-lầm, hòa-hợp giả-dối sinh ra, hòa-hợp giả-dối diệt mất. Nếu xa-rời được các bệnh duyên hòa-hợp và không hòa-hợp thì cũng diệt-trừ được các nguyên-nhân chết sống, đầu-đủ tính Bồ-đề không sinh-diệt, bản-tâm thanh-tịnh, bản-giác thường an-trụ.

Chi 3. - Phá xích nghĩa hòa-hợp.

A-nan, ông tuy đã ngộ tâm-tính nhiệm-mầu sáng-suốt, vốn không phải nhân-duyên, không phải tự-nhiên, nhưng còn chưa rõ tâm-tính như vậy không phải hòa-hợp mà sinh, cũng không phải không hòa-hợp.

A-nan, nay tôi lại lấy nơi tiền-trần hỏi ông, ông còn đem tất-cả những tính nhân-duyên hòa-hợp của tư-tưởng sai-lầm thế-gian mà tự nghi-ngờ rằng chứng tâm Bồ-đề cũng do hòa-hợp mà phát-khởi. Thì hiện nay, cái thấy của ông lại là hòa với cái sáng, hòa với cái tối, hòa với cái thông-suốt hay hòa với cái ngăn-bịt? Nếu hòa với cái sáng thì ông đang thấy sáng, cái sáng hiện đó, vậy chỗ nào xen-lộn với cái thấy? Cái thấy cái sáng có thể nhận-rõ, còn hình-trạng xen-lộn, thì như thế nào? Nếu cái sáng ra ngoài cái thấy, thì làm sao thấy được sáng? Còn nếu cái sáng tức là cái thấy, thì làm sao lại thấy được cái thấy? Như cái thấy cùng khắp, thì còn chỗ nào hòa được với cái sáng, còn như cái sáng cùng khắp, thì lẽ ra không hòa được với cái thấy. Cái thấy đã khác với cái sáng thì khi xen-lộn vào, tất phải làm mất tính-cách của cái sáng. Cái thấy xen vào, làm mất tính-cách của cái sáng mà nói hòa với cái sáng là không đúng nghĩa. Đối với cái tối, cái thông-suốt và cái ngăn-bịt thì cũng như vậy.

Lại nữa, A-nan, hiện nay cái thấy nhiệm-mầu sáng-suốt của ông lại là hợp với cái sáng, hợp với cái tối, hợp với cái thông-suốt hay hợp với cái ngăn-bịt? Nếu hợp với cái sáng thì đến khi tối, cái sáng đã mất rồi, cái thấy đó đã không hợp với cái tối, làm sao thấy được cái tối? Nếu khi thấy tôi mà không hợp với cái tối thì lẽ ra khi hợp với cái sáng, không thấy được cái sáng; mà đã không thấy được sáng thì làm sao họp với cái sáng và rõ-biết cái sáng không phải là tối. Đối với cái tối, cái thông-suốt, cái ngăn-bịt thì cũng như vậy".

Chi 4. - Phá xích nghĩa không hòa-hợp.

Ông A-nan bạch Phật rằng : "Thưa Thế-tôn, như chỗ tôi suy-nghĩ, cái tâm-tính ấy đối với các trần-cảnh và các tâm-niệm nhớ-nghĩ, không hòa-hợp chăng?"

Phật dạy: "Nay ông lại nói tâm-tính không hòa-hợp thì tôi lại hỏi ông : Cái tính-thấy gọi là không hòa-hợp đó, lại là không hòa với cái sáng, không hòa với cái tối, không hòa với cái thông-suốt, hay không hòa với cái ngăn-bịt? Nếu không hòa với cái sáng, thì giữa cái thấy và cái sáng phải có ranh-giới. Ông nay hãy xét cho kỹ : Chỗ nào là cái sáng, chỗ nào là cái thấy. Nơi cái thấy và nơi cái sáng, thì lấy từ đâu làm ranh-giới. A-nan, nếu bên cái sáng, chắc không có cái thấy, thì hai cái không đến với nhau, cái thấy tự-nhiên không biết được cái sáng ở đâu, làm sao mà thành-lập được ranh-giới. Đối với cái tối, cái thông-suốt, cái ngăn-bịt thì cũng như vậy.

Lại cái thấy, gọi là không hòa-hợp đó, là không hợp với cái sáng, không hợp với cái tối, không hợp với cái thông-suốt hay không hợp với cái ngăn-bịt? Nếu không hợp với cái sáng, thì cái thấy với cái sáng, tính trái-ngược nhau, như cái nghe với cái sáng, không đụng chạm gì với nhau cả; thế thì, cái thấy còn không biết cái sáng ở đâu, làm sao phát-minh được những lẽ hợp hay không hợp? Đối với cái tối, cái thông-suốt, cái ngăn-bịt thì cũng như vậy.

MỤC VI

TÓM-THU BỐN KHOA VÀ BẢY ĐẠI VỀ NHƯ-LAI-TẠNG ĐỂ PHÁT-KHỞI CHỔ CHÂN-NGỘ

ĐOẠN I

TÓM-THU

"A-nan, ông còn chưa rõ tất-cả các tướng huyễn-hóa nơi tiền-trần, chính nơi tâm mà sinh ra, rồi theo nơi tâm mà diệt mất. Cái huyễn-hóa giả-dối gọi là tướng, mà cái tính chính là tâm-tính nhiệm-mầu sáng-suốt; như vậy, cho đến 5 ấm, 6 nhập, 12 xứ và 18 giới, nhân-duyên hòa-hợp giả-dối có sinh ra, nhân-duyên chia-lìa giả-dối gọi rằng diệt; mà không biết rằng sinh, diệt, đi, lại đều vốn là tính chân-như cùng khắp, không lay-động, nhiệm-mầu, sáng-suốt, thường-trụ của Như-lai-tạng. Trong tâm-tính chân-thường đó, cầu cho ra những cái đi, lại, mê, ngộ, sống, chết, hẳn không thể được.

ĐOẠN II

THU NĂM ẤM LÀ SẮC, THỤ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC

Chi I. - Thu sắc-ấm.
"A-nan, làm sao 5 ấm vốn là tính chân-như nhiệm-mầu của Như-lai-tạng. A-nan, ví như có người đem con mắt trong-sạch, xem hư-không trong sáng, chỉ thấy một hư-không trong-sáng, hẳn không thấy gì. Người kia, không lý do gì, lại bắt con mắt không lay-động; ngó chăm mãi, phát ra mỏi-mệt thì ở giữa hư-không, riêng thấy có hoa-đốm lăng-xăng và có tất-cả những tướng giả-dối lộn-xộn; nên biết sắc-ấm cũng lại như vậy.

A-nan, các hoa-đốm lăng-xăng ấy, không phải từ hư-không mà đến, không phải từ con mắt mà ra. Thật vậy, A-nan, nếu từ hư-không mà đến, thì đã từ hư-không mà đến, rồi phải trở vào hư-không; mà đã có ra có vào, thì không phải là hư-không nữa. Hư-không, nếu lại không phải là hư-không, thì tự-nhiên không thể dung-nạp hoa-đóm sinh-diệt trong ấy, như thân-thể ông A-nan, không dung-nạp được một ông A-nan nữa.

Nếu, hoa-đốm từ con mắt mà ra, thì đã từ con mắt mà ra, rồi phải trở vào con mắt; lại cái tính hoa-đốm ấy đã từ con mắt mà ra, thì lẽ ra phải có thấy. Nếu như có thấy thì khi đi ra, đã làm hoa-đốm giữa hư-không, đến khi xoay về, phải thấy được con mắt. Nếu không có thấy, thì khi đi ra đã làm mờ hư-không, đến khi trở về phải làm mờ con mắt. Lại như thế, khi thấy hoa-đốm, lẽ ra con mắt không mờ, làm sao, chỉ khi thấy hư-không trong suốt, thì mới gọi là con mắt trong-sáng? Vậy nên biết rằng sắc-ấm là giả-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 2. - Thu Thụ-ấm.

A-nan, ví như có người tay chân yên-ổn, trăm vóc điều-hòa, bỗng như quên mình, không có gì là trái là thuận; người ấy không lý do gì, lấy hai bàn tay xoa nhau giữa hư-không, thì nơi hai bàn tay giả-dối sinh ra những cảm xúc trơn, rít, lạnh, nóng. Nên biết thụ-ấm cũng lại như vậy.

A-nan, các cảm-xúc giả-dối kia, không phải từ hư-không mà đến, không phải từ bàn tay mà ra. Thật vậy, A-nan, nếu từ hư-không mà đến, thì đã sinh cảm-xúc nơi bàn tay, sao lại không sinh cảm-xúc nơi thân-thể, không lẽ hư-không lại biết lựa chỗ sinh ra cảm-xúc. Nếu như từ bàn tay mà ra, thì lẽ ra không cần hai bàn tay phải hợp lại. Lại đã từ bàn tay mà ra, thì khi bàn tay hợp lại, biết có cảm-xúc, đến khi bàn tay rời ra, thì cảm-xúc phải chạy vào và xương tủy cánh tay, lẽ ra phải biết đường vào của cảm-xúc; rồi lại phải có tâm hay-biết, biết ra, biết vào, và phải có một vật đi lại trong thân, sao lại phải chờ đến hai tay hợp lại mới gọi là cảm-xúc.Vậy nên biết rằng thụ-ấm là giả-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 3. - Thu tưởng-ấm

A-nan, ví như có người, khi nghe nói đến quả mơ chua thì trong miệng có nước bọt chảy ra; khi nghĩ đến đứng trên dốc cao thì lòng bàn chân ghê-rợn. Nên biết tưởng-ấm cũng lại như vậy.

A-nan, câu chuyện mơ chua như thế, không phải do quả mơ sinh ra, không phải do cái miệng mà vào. Thật vậy, A-nan, nếu do quả mơ sinh ra, thì quả mơ tự nói lấy, sao phải đợi người ta nói; nếu do cái miệng mà vào, thì lẽ ra cái miệng tự nghe lấy, cần gì đến lỗ tai; nếu riêng mình lỗ tai nghe, thì nước bọt kia, sao không từ lỗ tai chảy ra. Câu chuyện nghĩ đến đứng trên dốc cao cũng giống như vậy. Vậy nên biết rằng tưởng-ấm là giả-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 4. - Thu hành-ấm.

A-nan, ví như dòng nước dốc, sóng mòi nối nhau, lớp trước lớp sau, không vượt khỏi nhau. Nên biết hành-ấm cũng lại như vậy.

A-nan, dòng nước như vậy không nhân hư-không mà sinh, không nhân nước mà có, không phải tính nước, cũng không ra ngoài hư-không và nước. Thật vậy, A-nan, nếu nhân hư-không mà sinh, thì cả thập phương hư-không vô cùng tận, phải thành dòng nước vô cùng tận và tự-nhiên thế-giới đều bị chìm-đắm cả. Nếu nhân nước mà có, thì dòng nước dốc ấy bản-tính lẽ ra không phải là nước nữa và hiện nay, đã có thể chỉ ra hai tướng của nước và của dòng nước khác nhau. Nếu dòng nước dốc tức là tính nước thì khi nước đứng lại, lẽ ra không phải là nước nữa; nếu ra ngoài hư-không và nước thì không có cái gì ở ngoài hư-không và, ngoài nước ra, không thể có dòng nước. Vậy nên biết rằng hành-ấm là giả-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 5. - Thu thức-ấm.

A-nan, ví như có người lấy bình tần-già, bịt cả hai lỗ, rồi vác đầy bình hư-không, đi xa nghìn dặm, đem cho nước khác. Nên biết thức-ấm cũng lại như vậy.

A-nan, cái hư-không đó, không phải đến từ phương kia, cũng không phải đưa vào phương nầy. Thật vậy, A-nan, nếu đến từ phương kia, thì trong cái bình đã đựng hư-không đem đi, ở chỗ cũ cái bình phải thiếu hư-không; nếu đưa vào phương nầy, thì khi mở miệng bình trút ra, phải thấy hư-không ra. Vậy nên biết rằng thức-ấm là giả-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567