Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trang 03

07/06/201114:12(Xem: 4201)
Trang 03

KINH ÐẠI BÁTNIẾT BÀN
DịchTừ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
TịnhXá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990

XXII
PHẨMQUANG MINH BIẾN CHIẾU CAO QUÝ
ĐỨCVƯƠNG BỒ TÁT THỨ HAI MƯƠI HAI

Trang03

NầyThiện nam tử ! Luận về Niết Bàn, cũng có thể nói là định,cũng có thể nói là quả. Niết Bàn của tất cả chư Phậtlà thường, lạc, ngã, tịnh, nên nói là định không sanh giàhư hoại nên nói là định. Nhứt Xiển Đề phạm bốn tộinặng, hủy báng Đại Thừa, tạo tội ngũ nghịch, rời bỏbổn tâm, thời quyết định chứng đặng Niết Bàn, nên gọilà định.

NầyThiện nam tử ! Như ông vừa nói : Nếu có người nghe mộtchữ, một câu kinh Đại Niết Bàn, thời đặng vô thượngBồ Đề. Đối với nghĩa nầy, ông còn chưa hiểu rõ. Ôngnên lóng nghe ! Nếu có người nghe một câu, một chữ kinhĐại Niết Bàn, trong tâm chẳng có quan niệm tướng chữ,tướng câu, chẳng có tướng nghe, tướng Phật, tướng nóipháp, đây gọi là tướng, vô tướng. Do tướng vô tướngnên đặng vô thượng Bồ Đề.

NầyThiện nam tử ! Như ông vừa nói vì nghe tiếng ác, mà đếntam đồ, nghĩa đó không phải. Vì chẳng phải tiếng ác màđến tam đồ. Phải biết quả nầy là do tâm ác. Vì như cóngười nghe tiếng ác mà tâm chẳng sanh ác, do đây nên biếtchẳng phải do tiếng ác mà đọa trong tam đồ. Nhưng chúngsanh do nơi phiền não ác tâm quá nhiều mà phải sanh vào bađường ác, chẳng phải là do nơi tiếng ác. Nếu tiếng cótướng quyết định, những người nghe tiếng ác, lẽ ra tấtcả đều sanh tâm ác. Nay nghe tiếng ác, mà có người sanhtâm ác, có người chẳng sanh tâm ác, nên biết rằng tiếngkhông có tướng quyết định. Do vì không tướng quyết địnhnên dầu nghe tiếng ác mà chẳng sanh tâm ác.

_ BạchThế Tôn ! Tiếng nếu không quyết định, cớ sao Bồ Tát nayđặng nghe chỗ xưa chẳng nghe ?

_ NầyThiện nam tử ! Tiếng không có tướng quyết định nên làmcho Bồ Tát nay được nghe chỗ xưa chẳng nghe. Do nghĩa nầynên Như Lai nói xưa chỗ chẳng nghe, mà nay được nghe.

NầyThiện nam tử ! Thế nào là chỗ xưa chẳng thấy mà nay đượcthấy ? Đại Bồ Tát tu kinh Đại Niết Bàn, trước lấy tướngsáng : Những ánh sáng mặt trời, mặt trăng, tinh tú, đènđuốc, bảo châu, lửa. Do tu tập ánh sáng mà đặng nhãn cănkhác lạ, khác hơn Thiên nhãn của Thanh Văn Duyên Giác. Thiênnhãn của Nhị thừa nếu nương nơi nhãn căn tứ đại cõidục thời chẳng thấy sơ thiền, nếu nương nơi nhãn cănsơ thiền thời chẳng thấy cõi trên, cũng chẳng thấy nhãncăn của chính mình, nhiều lắm là thấy tột đến đại thiênthế giới. Đại Bồ Tát chẳng tu thiên nhãn, thấy sắc thântốt đẹp đều là tướng xương trắng, dầu thấy sắc tướngtrong hằng hà sa thế giới khác, nhưng chẳng tưởng là sắctướng, chẳng tưởng là tướng thường, tướng có, tướngvật, tướng danh tự, chẳng tưởng là tướng thấy, cũngchẳng nói nhãn căn nầy có tướng thanh tịnh vi diệu, chỉthấy là tướng nhơn duyên cùng tướng chẳng phải nhơn duyên.Thế nào là nhơn duyên ? Sắc là cảnh duyên của nhãn căn.Giả sử sắc chẳng phải là nhơn duyên, thời tất cả phàmphu lẽ ra chẳng thấy tướng sắc. Thế nào là chẳng phảinhơn duyên ? Đại Bồ Tát dầu thấy sắc nhưng chẳng tườnglà tướng sắc , do đây nên chẳng phải là duyên. Vì thếnên thiên nhãn thanh tịnh của Bồ Tát khác vơi thiên nhãncủa Thanh Văn Duyên Giác. Trong một lúc, Bồ Tát thấy khắpchư Phật hiện tại ở mười phương thế giới. Cũng có thểthấy vi trần. Hàng Thanh Văn Duyên Giúac chẳng thấy đượcnhư thế. Bồ Tát dầu thấy nhãn căn của mình mà vẫn khôngcó tướng thấy, thấy tướng vô thường, thấy thân củaphàm phu có ba mươi sáu vật, chứa đầy những thứ bất tịnh,thấy rõ như xem trái a ma lặc trong bàn tay. Nếu thấy sắctướng của chúng sanh, Bồ Tát biết người nầy là căn tánhđại thừa hay tiểu thừa. Đụng chạm đến y phục của họ,Bồ Tát cũng biết người đó có những căn lành hay cănchẳng lành. Do đây nên gọi là xưa chỗ chẳng thấy mà nayđược thấy, cũng gọi là xưa chỗ chẳng biết mà nay đượcbiết. Vì khi thấy thời biết chỗ xưa chẳng biết, do vìbiết nên thấy chỗ xưa chẳng thấy.

NầyThiện nam tử ! Thế nào là Bồ Tát xưa chỗ chẳng biết mànay được biết ? Đại Bồ Tát dầu biết tâm tham, sân, sicủa phàm phu, nhưng vẫn chẳng tưởng là tâm và tâm sở,chẳng tưởng là chúng sanh cùng vật. Thường tu tướng rốtráo không đệ nhứt nghĩa, do tu tập tướng không, nên biếtđược chỗ xưa chẳng biết.

Biếtnhư thế nào ? Biết không có ngã không có ngã sở, biết tấtcả chúng sanh đều có Phật tánh. Vì có Phật tánh nên hàngNhứt Xiển Đề rời bỏ được bổn tâm thời sẽ đặngvô thượng chánh giác. Những điều trên đây hàng Thanh VănDuyên Giác chẳng biết được mà Bồ Tát có thể biết. Vìthế nên gọi là xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết.

ĐạiBồ Tát tu kinh Đại Niết Bàn nhớ đời quá khứ tất cảchúng sanh bao nhiêu những dòngạo cha mẹ, anh em, vợ con, quyếnthuộc, bạn thân, kẻ thù. Trong một niệm Bồ Tát đặng tríkhác lạ, khác với trí huệ của Thanh Văn, Duyên Giác. Thếnào là khác ? Trí huệ của Thanh Văn, Duyên Giác nhớ đếndòng họ cha mẹ v.v… Của chúng sanh đời quá khứ mà cótướng dòng họ cha mẹ v.v… Bồ Tát dầu nghĩ nhớ dòng họcha mẹ thuở quá khứ, nhưng trọn chẳng tưởng có tướngdòng họ cha mẹ v… Mà thường thấy tướng không tịch. Đâygọi là Bồ Tát xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết.

ĐạiBồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn đặng tha tâm trí khácvới Thanh Văn, Duyên Giác. Thế nào là khác? Hàng Thanh VănDuyên Giác lúc dùng một niệm trí biết tâm của người, thờichẳng thể biết tâm của chư thiên, ngạ quỉ, súc sanh, địangục. Trong một niệm Bồ Tát biết khắp tất cả tâm củalục đạo chúng sanh. Đây gọi là Bồ Tát xưa chỗ chẳngbiết mà nay được biết. Bồ Tát lại ở nơi trong một tâmrõ biết từ sơ tâm đến tâm thứ mười sáu của Tu Đà Hòan.Do đây nên gọi là xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết.Đây là Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầyđủ phần công đức thứ hai.

NầyThiện nam tử ! Thế nào là Đại Bồ Tát tu hành kinh ĐạiNiết Bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ ba ? ĐạiBồ Tát bỏ lòng từ đặng lòng từ, lúc đặng lòngtừ chẳng do nhơn duyên. Thế nào là bỏ lòng từ đặng lòngtừ ? Từ gọi là thế đế. Đại Bồ Tát bỏ lòng từ thếđế đặng lòng từ đệ nhứt nghĩa. Lòng từ đệ nhứt nghĩachẳng do nhơn duyên. Lòng từ nếu là có thể bỏ thời gọilà lòng từ của phàm phu, lòng từ nếu có thể được thờigọi là lòng từ vô duyên của Bồ Tát, đặng lòng từ lânmẫn, đặng lòng từ của Như Lai, lòng từ nầy là lòng từ không nhơn duyên. Lại bỏ lòng từ của hoàng môn, của ngườikhông căn, hai căn, nữ nhơn, đồ tể thợ săn v.v… cũngbỏ lòng từ của Thanh Văn, Duyên Giác, đặng lòng từ vôduyên của Bồ Tát. Chẳng còn thấy lòng từ của mình cũngchẳng thấy lòng từ của người, cũng chẳng thấy trì giới,phá giới. Dầu tự thấy lòng bi nhưng chẳng thấy tướngchúng sanh. Dầu có chịu khổ nhưng chẳng thấy người chịukhổ. Vì Bồ Tát tu hành chơn thật không đệ nhứt nghĩa nênthành tựu đầy đủ phần công đức thứ ba như vậy. NầyThiện nam tử ! Thế nào là Đại Bồ Tát tu hành kinh ĐạiNiết Bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ tư ? Nơi đây có mười việc : Một là căn lành sâu không bị layđộng, hai là đối với thân mình có quan niệm quyết định,ba là chẳng thấy phước điền và chẳng phải phước điền,bốn là tu tập công hạnh thanh tịnh Phật độ, năm là diệttrừ ba thứ hữu dư, sáu là dứt trừ nghiệp duyên, bảy làtu thân thanh tịnh, tám là rõ biết các duyên, chín là lìanhững oán địch, mười là dứt trừ nhị biên.

Thếnào là căn lành sâu khó lay động. Căn lành đây là nói chẳngphóng dật, chẳng phóng dật là căn lành của vô thượng BồĐề. Cội gốc pháp lành của tất cả chư Phật đều do chẳngphóng dật. Vì chẳng phóng dật nên những căn lành khác lầnlần được tăng trưởng. Như trong các thứ dấu chân, dấuchân của voi là hơn hết, ở trong các pháp lành, chẳng phóngdật cũng là hơn hết. Như trong các thứ ánh sáng, ánh sángmặt trời là hơn hết, chẳng phóng dật cũng là hơn hếtcác pháp lành khác. Như vua Chuyển Luân là bực nhứt trongcác vua
chúa,chẳng phóng dật cũng là bực nhứt trong các pháp lành. Nhưtrong các dòng nước, bốn sông là hơn hết, chẳng phóng dậtcũng là hơn hết trong các pháp lành, như núi Tu Di là bựcnhứt trong các núi, chẳng phóng dật cũng là hạng bực nhứttrong các pháp lành. Như hoa sen xanh hơn tất cả những hoa mọctrong nước, chẳng phóng dật cũng là hơn hết trong các pháplành. Như hoa Bà Lợi Sư Ca hơn tất cả thứ hoa mọc trênđất, chẳng phóng dật cũng hơn hết các pháp lành khác.Như trong các loài thú, Sư Tử là hơn hết, chẳng phóng dậthơn những pháp lành khác. Như trong các loài chim, kim súy điểulà bực nhứt, chẳng phóng dật cũng là bực nhứt trong cácpháp lành. Như trong loài thân to lớn, vua A Tu La, La HầuLa, là to hơn cả, chẳng phóng dật cũng là hơn hết trong cácpháp lành. Như trong tất cả chúng sanh, đức Như Lai là tônquí nhứt, chẳng phóng dật cũng là bực nhứt trong các pháplành. Như trong các đoàn thể, chư Tăng là hơn hết, chẳngphóng dật cũng hơn hết trong các pháp lành. Như trong giáopháp của Phật, kinh Đại Niết Bàn là hơn hết, chẳng phóngdật cũng là hơn hết trong các pháp lành. Do những nghĩa nầynên căn lành chẳng phóng dật sâu bền khó lay động.

Thếnào là do chẳng phóng dật mà được thêm lớn các căn lành? Những căn lành : Tín, Giới, Bố Thí, trí huệ, nhẫn nhục,đa văn, tinh tấn, niệm định, thiện tri thức đều do chẳngphóng dật mà được thêm lớn.

NầyThiện nam tử ! Thế nào là đối với thân mình Bồ Tát cóquan niệm quyết định ? Bồ Tát quyết định biết rằng thâncủa ta đây quyết định sẽ làm pháp khí vô thượng bồđề ở đời vị lai, chẳng có tâm hẹp nhỏ, chẳng có tâmbiến đổi, chẳng sanh tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật, chẳngsanh tâm ma, tâm tự hưởng vui, tâm sanh tử. Thường vì chúngsanh cầu tâm từ bi. Đây gọi là Đại Bồ Tát tu hành kinhĐại Niết Bàn đối với thân mình sanh lòng quyết định.

NầyThiện nam tử ! Thế nào là Bồ Tát chẳng thấy phước điềnvà chẳng phải phước điền ? Những gì là phước điền? Ngoại đạo trì giới trên đến chư Phật đây gọi là phướcđiền. Nếu có người nghĩ rằng những bực nầy thuộc vềphước điền nên biết tâm niệm nầy hẹp kém.

ĐạiBồ Tát quán sát tất cả chúng sanh không ai chẳng phải làphước điền do vì Bồ Tát khéo tu tập niệm xứ khác lạ,nên quán sát chúng sanh không thấy có trì giới cùng hủy giới.Thường quán sát bốn pháp bố thí của Phật nói ra đềuđặng quả báo thanh tịnh. Những gì là bốn thứ bố thí? Một là thí chủ thanh tịnh, người thọ chẳng thanh tịnh.Hai là thí chủ chẳng thanh tịnh, người thọ thanh tịnh, balà thí chủ cùng người thọ đều thanh tịnh. Bốn là thíchủ cùng người thọ đều chẳng thanh tịnh.

Thíchủ có đủ trì giới đa văn trí huệ rõ biết nhơn cùngquả bố thí, người thọ thời phá giới tà kiến không tinbố thí cùng quả báo, đây gọi thí chủ thanh tịnh mà ngườithọ chẳng thanh tịnh.

Nếuthí chủ phá giới tà kiến không tin bố thí cùng quả báo,người thọ thời trì giới đa văn trí huệ biết có nhơncùng quả bố thí, đây gọi là thí chủ chẳng thanh tịnhngười thọ thời thanh tịnh.

Nếungười bố thí cùng người thọ đều trì giới đa văn tríhuệ biết có bố thí cùng quả báo, đây gọi là người thíngười thọ đều thanh tịnh.

Nếungười thí người thọ đều phá giới tà kiến không tin nhơncùng quả bố thí, đây gọi là người thí kẻ thọ đềuchẳng thanh tịnh.

_ BạchThế Tôn ! Nếu như vậy tại sao lại nói Bồ Tát được qủabáo thanh tịnh, vì không thí, không báo nên gọi là thanhtịnh ?

_ NầyThiện nam tử ! Nếu có người chẳng thấy bố thí cùng quảbáo bố thí, nên biết rằng, người nầy chẳng gọi là phágiới tà kiến.

NầyThiện nam tử ! Nếu y theo nhị thừa nói rằng chẳng thấybố thí cùng quả báo, đây gọi là phá giới tà kiến. Nếunương kinh Đại Niết Bàn nầy mà chẳng thấy bố thí cùngquả báo thời gọi là trì giới chánh kiến. Đại Bồ Tátcó niệm xứ khác lạ, do tu tập niệm xứ nầy nên chẳngthấy chúng sanh trì giới phá giới người thí người thọvà quả báo bố thí, nên được gọi là trì giới chánh kiến.Vì những nghĩa trên đây nên Đại Bồ Tát chẳng thấy phướcđiền và chẳng phải phước điền.

Thếnào gọi là thanh tịnh cõi Phật ? Đại Bồ Tát tu hành kinhĐại Niết Bàn vì vô thượng Bồ Đề vì độ chúng sanh,nên lìa tâm giết hại. Do căn lành nầy nguyện cùng tất cảchúng sanh đồng thành Phật, nguyện chúng sanh đặng thọ mạngdài lâu có thế lực lớn được thần thông lớn. Do sứcthệ nguyện nầy, nên đời vị lai lúc Bồ Tát thành Phật,tất cả chúng sanh trong cõi nước được thọ mạng dài lâucó thế lực lớn và thần thông lớn.

ĐạiBồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, vì vô thượng Bồ Đềvì độ chúng sanh, nên lìa tâm trộm cướp. Đem căn lành nầynguyện cùng tất cả chúng sanh, đồng thành Phật. Nguyệncõi nước thuần là bảy báu, chúng sanh đầy đủ vật cầndùng tùy theo ý muốn. Do sức thệ nguyện nầy, nên đời vịlai lúc Bồ Tát thành Phật, cõi nước thuần là bảy báu,chúng sanh giàu đủ tùy ý tự tại.

ĐạiBồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, vì vô thượng bồ dề,vì độ chúng sanh, nên lìa tâm tham dục. Đem căn lành nầynguyện cùng chúng sanh đồng thành Phật. Nguyện tất cả chúngsanh không có tham dục, sân khuể, ngu si, cũng không có ngườiđói khát khổ não. Do sức thệ nguyện nầy, nên đời vịlai lúc Bồ Tát thành Phật chúng sanh trong cõi nước xa lìatâm tham dục sân khuể, ngu si, không có người đói khát khổnão.

ĐạiBồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn vì vô thượng Bồ Đềvì độ chúng sanh nên lìa tâm vọng ngữ. Đem căn lành nầynguyện tất cả chúng sanh cùng thành Phật. Nguyện cáccõi nước thường có cây bông, cây trái, cây mùi thơm, chúngsanh đều được tiếng nói tốt. Do sức thệ nguyện nầynên đời vị lai lúc Bồ Tát thành Phật, cõi nước thườngcó cây bông, cây trái, cây mùi thơm chúng sanh đều đượctiếng nói tốt thanh tịnh.

ĐạiBồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn vì vô thượng Bồ Đềvì độ chúng sanh nên xa lìa tâm lưỡng thiệt. Đem căn lànhnầy nguyện cùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật. Nguyệncác cõi nước tất cả chúng sanh thường hòa hiệp nhau, cùngnhau giảng nói chánh pháp. Do sức thệ nguyện nầy, nên đờivị lai lúc Bồ Tát thành Phật, tất cả chúng sanh trong cõinước đều hòa hiệp nhau cùng nhau giảng luận pháp yếu.

ĐạiBồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, vì vô thượng Bồ Đề,vì độ chúng sanh nên xa lìa tâm ác khẩu. Đem căn lành nầynguyện cùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật, nguyện cáccõi nước mặt đất bằng thẳng, không có sạn sỏi gai góc,chúng sanh đều có tâm bình đẳng. Do sức thệ nguyện nầy,nên đời vị lai lúc Bồ Tát thành Phật, cõi nước bằngthẳng không có sạn sỏi gai góc, tâm chúng sanh đều bìnhđẳng.

ĐạiBồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn vì vô thượng Bồ Đề,vì độ chúng sanh nên lìa lời nói vô nghĩa. Đem căn lànhnầy nguyện cùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật. Nguyệnchúng sanh không có khổ não. Do sức thệ nguyện nầy, nênđời vị lai lúc Bồ Tát thành Phật, tất cả chúng sanh trongcõi nước không có khổ não.

ĐạiBồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, vì vô thượng Bồ Đềvì độ chúng sanh nên xa lìa tâm tham lam tật đố. Đem cănlành nầy nguyện cùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật.Nguyện chúng sanh không có tham lam tật đố, não hại, tà kiến.Do sức thệ nguyện nầy, nên đời vị lai lúc Bồ Tát thànhPhật, chúng sanh trong cõi nước đều không có tâm tham lam,tật đố, não hại, tà kiến.

ĐạiBồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn vì vô thượng Bồ Đềvì độ chúng sanh, nên xa lìa tâm não hại. Đem căn lành nầynguyện cùng tất ca ûchúng sanh đồng thành Phật. Nguyện chúngsanh đồng tu tập đại từ đại bi, đặng bực nhứt tử.Do sức thệ nguyện nầy nên đời vị lai lúc Bồ Tát thànhPhật, chúng sanh trong cõi nước đều tu tập đại từ đạibi, được bực nhứt tử.

ĐạiBồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn vì vô thượng Bồ Đềvì độ chúng sanh nên xa lìa tà kiến đem căn lành nầy nguyệncùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật. Nguyện chúng sanhđều được Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật. Do sức thệ nguyện nầy,nên đời vị lai lúc Bồ Tát thành Phật, chúng sanh trong cõinước đều được thọ trì Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, đây gọilà Bồ Tat tu hành thanh tịnh cõi Phật.

Thếnào Đại Bồ Tát dứt trừ hữu dư ? Hữu dư có ba thứ :Một là phiền não dư báo, hai là dư nghiệp, ba là dư hữu.

Nếucó chúng sanh quen gần tham dục, báo nầy thành thục phảiđọa nơi địa ngục, ra khỏi địa ngục phải thọ thân súcsanh : Bồ câu, se sẽ v.v… các loài chim, ca,ù trạch cùng khỉ,vượn cheo, nai v.v… Nếu được làm người, thời phải thọthân hoàng môn, phụ nữ, hai căn, không căn, dâm nữ. Nếuđược xuất gia thời phạm giới trọng ban đầu. Đây gọilà dư báo.

Nếucó chúng sanh quen gần sân, khuể, báo nầy thành thụcphải đọa địa ngục. Ra khỏi địa ngục phải thọ thânsúc sanh : Rắn độc, sư tử, cọp, sói, beo, gấu, mèo, chồn, ó, diều, v.v… Nếu được làm người thời đủ cả mườisáu nghiệp ác. Nếu được xuất gia thời phạm giới trọngthứ ba. Đây gọi là dư báo.

Nếucó chúng sanh quen gần ngu si, báo nầy thành thục sẽ đọađịa ngục. Ra khỏi địa ngục phải thọ thân súc sanh : Voi,heo, bò, trâu, dê, rận, rệp, muỗi, ruồi, kiến, mối v.v…Nếu được làm người thời bị đui, điếc, câm, ngọng,lưng gù, tàn tật, thời không thể học tập. Nếu đượcxuất gia thời ưa phạm giới trọng. Đây gọi là dư báo.

Nếucó người quen gần kiêu mạn, báo nầy thành thục sẽ đọađịa ngục. Ra khỏi địa ngục thọ thân súc sanh : Lạc đà,lừa , ngựa, chó v.v… Nếu được làm người thọ thân tôitớ nghèo cùng ăn xin. Nếu được xuất gia thường bị chúngsanh khinh tiện, phạm giới thứ tư. Đây gọi là dư báo.

Nhưtrên đây gọi là phiền não dư báo. Đại Bồ Tát do tu tậpkinh Đại Niết Bàn đều có thể trừ diệt.

Thếnào là dư nghiệp ? Tất cả nghiệp của phàm phu, nghiệp củaThanh Văn : Tu Đà Hoàn có nghiệp bảy lần thọ thân, Tư ĐàHàm có nghiệp hai lần thọ thân, A Na Hàm có nghiệp thọ thâncõi sắc, đây gọi là dư nghiệp. Đại Bồ Tát tu tập kinhĐại Niết Bàn đều có thể dứt trừ những nghiệp dư nầy.

Thếnào là dư hữu ? A La Hán đặng quả A La Hán, Bích Chi Phật đặng quả Bích Chi Phật, không nghiệp, không kiết sử, màcòn hai quả, đây gọi là dư hữu.

ĐạiBồ Tát tu tập kinh Đại Niết Bàn đều có thể trừ ba thứhữu dư trên đây, nên gọi là Đại Bồ Tát diệt trừ hữudư.

Thếnào là Bồ Tát tu thân thanh tịnh ? Đại Bồ Tát tu giới bấtsát có năm thứ tâm : Hạ, trung, thượng, thượng thượng,thượng trung thượng, nhẫn đến chánh kiến cũng lại nhưvậy. Năm mươi tâm nầy gọi là sơ phát tâm. Quyết địnhđầy đủ thành tựu năm mươi tâm nầy đây gọi là viênmãn. Một trăm tâm như vậy gọi là một trăm phước đức.Đầy đủ một trăm phước làm thành một tướng tốt. Lầnlượt đầy đủ thành tựu ba mươi hai tướng tốt, thờigọi là thân thanh tịnh. Sở dỉ lại tu tám mươi vẻ đẹp,vì trong đời có chúng sanh phụng thờ tám mươi vị ThiênThần : Thập nhị nhựt Thần, mười hai vị Trời lớn, nămngôi sao lớn, sao Bắc Đẩu, Mã Thiên , Hành Đạo Thiên, BàLa Đọa Bạt Xà Thiên, Công Đức Thiên,Nhị Thập Bát Tú,Địa Thiên, Phong Thiên, Thủy Thiên , Hỏa Thiên, Phạm Thiên, Lâu Đà Thiên, Nhơn Đề Thiên,, Câu Ma La Thiên, Bát Tý Thiên,Ma Hê Thủ La Thiên, Bàn Xà La Thiên, Qủi Tử Mẫu Thiên, TứThiên Vương Thiên, Tạo Thơ Thiên, Bà Tẩu Thiên, đây gọilà tám mươi. Vì những chúng sanh nầy mà Bồ Tát tu tập támmươi vẻ đẹp để trang nghiêm nơi thân. Đây gọi là BồTát tu thân thanh tịnh. Vì tám mươi thiên thần nầy đượcchúng sanh kính trọng, nên Bồ Tát tu tập tám mươi vẻ đẹp,thân thể không đổi dời, làm cho chúng sanh tùy theo lòng tin,đều được thấy, sanh lòng tôn kính mà phát tâm vô thượngBồ Đề.

Vínhư có người muốn thỉnh Quốc Vương, thời phải sửa sangtrần thiết nhà cửa cho thật sạch sẽ khéo léo, sắm đủtrăm thứ thực phẩm thơm ngon rồi sau mới rước QuốcVương ngự đến nhà. Cũng vậy, Đại Bồ Tát muốn thỉnhđấng Pháp Vương Vô Thượng Bồ Đề, thời phải trướctu thân cho thật thanh tịnh, rồi sau Pháp Vương mới đếnngự.

Vínhư có người muốn uống chất cam lộ thời phải trướcrửa thân thật sạch. Cũng vậy, Đại Bồ Tát muốn uốngPháp vị Vô Thượng Bát Nhã Ba La Mật, trước phải tu támmươi vẻ đẹp để trang nghiêm nơi thân.

Vínhư đem bình vàng, chậu bạc đựng nuớc trong sạch thờicả trong lẫn ngoài đều trong sạch. Cũng vậy, Đại Bồ Tátdùng thân thanh tịnh chứa Vô Thượng Bồ Đề, thời trongngoài đều thanh tịnh.

Nhưy trắng Ba La Nại dễ ăn màu thuốc nhuộm, vì chất y vốntrắng sạch. Cũng vậy, Đại Bồ Tát do thân thanh tịnh nênmau thành Vô Thượng Bồ Đề.

Donghĩa nầy nên Đại Bồ Tát tu thân thanh tịnh, thế nào làBồ Tát khéo biết các duyên ?

ĐạiBồ Tát chẳng thấy sắc tướng, chẳng thấy sắc duyên, chẳngthấy sắc thể, chẳng thấy sắc sanh, chẳng thấy sắc diệt,chẳng thấy một tướng, chẳng thấy nhiều tướng, chẳngthấy người thấy, chẳng thấy tướng mạo, chẳng thấy ngườithọ, vì đã rõ nhơn duyên. Như đối với sắc, tất cả phápcũng như vậy. Đây gọi là Bồ Tát rõ biết các duyên.

Thếnào là Bồ Tát lìa các thù địch ?

BựcNgũ Trụ Bồ Tát chẳng xem phiền não là oán thù. Vì do phiềnnão mà Bồ Tát có thọ sanh, do thọ sanh nên có thể xoay vầngiáo hoá chúng sanh.

Nhữnggì là oán thù đối với Bồ Tát ?

Chínhlà kẻ hủy báng kinh điển Đại Thừa. Bồ Tát thọ sanh khôngsợ địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ, chỉ sợ kẻ hủy bángkinh điển Đại Thừa. Có tám thứ ma là oán thù của BồTát, xa lìa được tám thứ ma nầy thời gọi là lìa thù địch.

Thếnào là Bồ tát xa lìa hai bên ?

Haibên là hai mươi lăm cõi và ái phiền não. Bồ Tát luôn xalìa hai mươi lăm cõi cùng ái phiền não.

Đâygọi là Đại Bồ tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựuđầy đủ phần công đức thứ tư.

CaoQuý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật : “ Thế Tôn ! Nhưlời đức Phật vừa
nói: Nếu Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thời thành tựumười công đức như vậy. Cớ sao Đức Như Lai chỉ tucó chín điều mà không tu tịnh độ ?”

Phậtnói : “ Nầy Thiện nam tử ! Từ xưa ta thường tu tậpđủ cả mười điều. Tất cả Đại Bồ Tát cùng tất cảNhư Lai không có ai là chẳng tu tập trọn cả mười điềunhư vậy.

Giảsử thế giới đầy dẫy nhơ uế, không bao giờ Như Lai xuấthiện nơi ấy.

NầyThiện nam tử ! Ông chớ cho rằng chư Phật xuất hiện nơithế giới nhơ uế. Nên biết rằng tâm tưởng như vậy làkém hẹp chẳng tốt. Ông nên biết rằng thiệt ra ta khôngcó xuất hiện nơi Diêm Phù Đề.

Nhưcó người nói riêng cõi nầy có mặt nhựt, mặt nguyệt, cõikhác không có. Lời nói nầy không có nghĩa lý.

Nếucó Bồ Tát nói cõi nầy nhơ uế xấu xa, cõi khác thanh tịnhxinh đẹp đây cũng là lời không có nghĩa lý.

NầyThiện nam tử ! Về phương Tây, cách cõi Ta Bà nầy bốn mươihai hằng hà sa cõi Phật, có thế giới tên là Vô Thắng, nhữngsự trang nghiêm xinh đẹp trong cõi đó đều bình đẳng, nhưcõi Cực Lạc, như cõi Mãn Nguyệt. Hiện tại ta xuất hiệntrong cõi Vô Thắng đó. Vì hoá độ chúng sanh nên ta thị hiệnchuyển pháp luân nơi Diêm Phù Đề nầy.

Chẳngphải riêng gì thân ta thị hiện chuyển pháp luân nơi cõinầy, mà tất cả Chư Phật cũng chuyển pháp luân trong cõinầy.

Donghĩa nầy nên Chư Phật đều tu đủ cả mười điều nhưvậy.

NầyThiện nam tử ! Do thệ nguyện, nên đời đương lai, Từ ThịBồ Tát làm cho cõi nầy trở thành thanh tịnh trang nghiêm.

Donghĩa nầy nên tất cả thế giới của chư Phật đều thanhtịnh trang nghiêm.

NầyThiện nam tử ! Thế nào là Đại Bồ Tát tu hành kinh ĐạiNiết Bàn, thành tựu đầy đủ phần công đức thứ năm ?Nơi đây có năm điều công đức, một là nơi thân các căn đều trọn vẹn ; hai là chẳng sanh chốn biên địa, ba làchư Thiên Thần mến tưởng ; bốn là thường được chư Thiên,Ma Vương, Sa Môn, Bà La Môn v.v… cung kính, năm là được trítúc mạng. Do năng lực kinh Đại Niết Bàn mà Bồ Tát đồngđủ năm công đức như vậy.

CaoQuý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật : “ Thế Tôn ! Ngàytrước Phật dạy : Nếu có người bố thí thời được nămcông đức. Sao nay Như Lai lại bảo nhơn kinh Đại Niết Bànmà đặng năm công đức ?”

Phậtnói : “ Lành thay ! Lành thay ! Nầy Thiện nam tử ! Các côngđức ấy đều có nghĩa sai khác. Nay ta sẽ vì ông mà giảngnói.

Nămđiều công đức do bố thí mà được là không định, khôngthương, không tịnh, không thắng, không lạ, không phải vôlậu, không thể lợi ích an lạc xót thương tất cả chúngsanh.

Nếulà năm điều công đức do y theo kinh Đại Niết Bàn mà đượcthời là định, là thường, là tịnh, là thắng, là lạ, làvô lậu, có thể lợi ích an lạc xót thương tất cả chúngsanh.

NầyThiện nam tử ! Xét về người bố thí thời xa lìa đói khát.KinhĐại Niết Bàn có thể làm cho chúng sanh đều được xa lìabịnh khát ái trong hai mươi lăm cõi. Do nơi bố thí làm chosanh tử nối luôn, kinh Đại Niết Bàn có thể làm cho sanhtử phải dứt. Nhơn bố thí nên thọ lấy pháp phàm phu., nhơnkinh Đại Niết Bàn mà được pháp Bồ Tát. Do bố thí nêndứt được sự nghèo cùng khổ não, kinh Đại Niết Bàn cóthể dứt tất cả sự nghèo thiếu về pháp. Do bố thí màcó phần, có quả, do kinh Đại Niết Bàn mà được vô thượngBồ Đề không phần không quả.

Đâygọi là Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ năm.

Thếnào là Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầyđủ phần công đức thứ sáu ?

ĐạiBồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn được Kim Cang Tam Muội.An trụ trong chánh định nầy thời phá tan được tất cảpháp. Thấy tất cả pháp đều là vô thường, đều là tướnglay động, là nhơn duyên của sự khủng bố, bịnh khổ, cướptrộm, niệm niệm dứt hoại không chơn thiệt. Tất cả đềulà cảnh giới của ma, không có tướng đáng thấy.

ĐạiBồ Tát an trụ trong tam muội nầy, nhẫn đến không thấymột chúng sanh thiệt. Vì chúng sanh mà Bồ Tát tinh cần tutập Thi La Ba La Mật, nhẫn đến Bát Nhã Ba La Mật. Nếu BồTát còn thấy có một chúng sanh thời không thể rốt ráo đầyđủ Đàn Ba La Mật nhẫn đến Bát Nhã Ba La Mật.

NầyThiện nam tử ! Ví như vật gì bị chất kim cang dóa đậpthời đều bể tan, mà chất kim cang nầy không hề hư tổn.Cũng vậy, pháp gì bị Kim cang tam muội chiếu đến thời đềunát rã, mà tam muội nầy không hề hao tổn.

Trongcác thứ châu báu, chất kim cang là hơn tất cả. Cũng vậy,trong các tam muội, Kim cang tam muội là thứ nhứt. Vì Bồ Táttu tập tam muội nầy thời tất cả tam muội đều đến quythuộc.

Nhưcác vua chúa nhỏ đều đến quy thuộc Chuyển Luân Thánh Vương,tất cả chánh định đều đến quy thuộc Kim cang tam muội.

Vínhư có người là kẻ thù địch của quốc gia mọi ngườiđều nhàm ghét, ai giết được người nầy thời cả nướcđều ngợi khen công lao. Cũng vậy, Bồ Tát tu tập Kim Cangtam muội có thể phá hoại oán thù của tất cả chúng sanh,thế nên thường được tất cả tam muội tôn kính.

Vínhư có người mạnh mẽ không ai cự lại, nếu có ngườithắng được người nầy thời được người đời khen tặng.Cũng vậy, Kim Cang tam muội có sức phá dẹp những pháp khóphá, nên được tất cả tam muội đến quy thuộc.

Nhưngười đến tắm nơi biển lớn, phải biết rằng ngườinầy đã dùng nước của các sông ngòi suối ao. Cũng vậy,Bồ Tát tu tập Kim Cang tam muội, thời là đã tu tập tấtcả tam muội khác.

Nhưtrong Hương Sơn có một suối nước tên A Na Bà Đạp Đa, ngườinào được uống nước suối nầy thời không có những bịnhhoạn, vì nước suối nầy đủ tám vị. Cũng vậy, Kim Cangtam muội đủ tám chánh đạo, Bồ Tát tu tập tam muội nầythời dứt sạch những bịnh nặng phiền não tội lỗi.

Nhưngười cúng dường Trời Ma Hê Thủ La, thời là đã cúng dườngtất cả Chư Thiên. Cũng vậy, người tu tập Kim Cang tam muộithời là đã tu tập tất cả tam muội khác.

NầyThiện nam tử ! Nếu Bồ Tát an trụ trong Kim Cang tam muội thờithấy tất cả pháp không bị chướng ngại, như xem trái AMa Lặc trong bàn tay. Bồ Tát nầy dầu được thấy như vậy,nhưng trọn không có quan niệm là thấy tất cả pháp.

Nhưcó người ngồi nơi ngã tư đường, thấy mọi người đi,đứng, ngồi, nằm. Cũng vậy, Bồ Tát an trụ Kim Cang tam muộithời thấy sự sanh diệt mọc lặn của tất cả pháp.

Nhưngười lên núi cao trông xa thấy rõ tất cả cảnh vật. Cũngvậy, Bồ Tát lên núi Kim Cang chánh định thời thấyrõ tất cả pháp.

Nhưmùa xuân, trời mưa láy pháy, giọt mưa li ti không có chỗhở trống, người mắt sáng thời thấy rõ ràng. Cũng vậy,Bồ Tát đặng mắt thanh tịnh Kim Cang tam muội, thấyrõ những thế giới thành hoại ở mười phương, không chướngngại.

Nhưdo núi Càn Đà, bảy mặt trời đồng mọc, bao nhiêu cây cốinơi núi ấy đều cháy cả. Cũng vậy, Bồ Tát tu tập Kim Cangtam muội thời bao nhiêu rừng rậm phiền não liền tiêu diệt.

Nhưchất kim cang dầu có thể phá nát tất cả vật, nhưng trọnkhông có quan niệm rằng ta hay phá nát. Cũng vậy, Bồ Táttu tập Kim Cang tam muội có thể phá phiền não mà trọn chẳngcó quan niệm niệm rằng ta hay phá hoại phiền não. Như quảđất có thể giữ gìn muôn vật nhưng trọn chẳng có quanniệm rằng sức ta có thể giữ gìn ; lửa cũng chẳngnghĩ rằng ta hay đốt cháy ; nước cũng chẳng nghĩ rằng tahay thấm nhuần ; gió cũng chẳng nghĩ rằng ta hay thổi động; hư không cũng chẳng nghĩ rằng ta hay dung chứa ; Niết Bàncũng chẳng nghĩ rằng ta làm cho chúng sanh đặng diệt độ.Cũng vậy, Kim Cang tam muội dầu có thể diệt trừ tất cảphiền não, nhưng vẫn không nghĩ rằng ta hay diệt trừ.

Nếucó Bồ Tát an trụ nơi Kim Cang tam muội nầy, trong khoảng mộtniệm biến vô lượng thân như Phật, khắp cả hằng hà sathế giới ở mười phương, dầu biến hoá như vậy nhưngBồ Tát vẫn không có lòng kiêu mạn. Vì Bồ Tát thường nghĩrằng : Ai có chánh định nầy và biến hoá được như vậy? Chỉ có Bồ Tát an trụ Kim Cang tam muội nầy mới có thểbiến hóa như vậy. Bồ Tát nầy trong một niệmđi khắp hằnghà sa thế giới ở mười phương rồi trở về bổn xứ, dầucó thần lực như vậy nhưng cũng chẳng nghĩ rằntg ta đượcthần lực ấy đó là do sức của Kim Cang tam muội. Bồ Tátnầy lại ở trong một niệm có thể dứt những phiền nãocủa chúng sanh trong hằng hà sa thế giới ở mười phương,mà vẫn không có quan niệm rằng ta hay dứt phiền nãocủa chúng sanh, đó là do sức Kim Cang tam muội. Bồ Tát nầydùng một tiếng nói để thuyết pháp làm cho tất cả chúngsanh riêng theo loài của mình mà đặng hiểu rõ, lại thịhiện một sắc thân mà làm cho tất cả chúng sanh đều riêngthấy sắc thân riêng khác. Bồ Tát ở an một chỗ thân khôngdời đổi mà có thể làm cho chúng sanh theo chỗ ở của nóđều đặng thấy Bồ Tát diễn nói một pháp : Hoặc giới,hoặc nhập, mà tất cả chúng sanh đều riêng theo chỗ đãhiểu biết mà đặng nghe đó.

BồTát an trụ Kim Cang tam muội dầu thấy chúng sanh mà vẫn khôngcó tướng chúng sanh, dầu thấy nam nữ nhưng không tướngnam nữ, dầu thấy sắc thọ vị nhưng không có tướng sắcthọ vị, dầu thấy ngày đêm mà không có tướng ngày đêm,dầu thấy tất cả pháp nhưng không có tướng tất cả pháp,dầu thấy tất cả phiền não kiết sử cũng không có tướngtất cả phiền não, dầu thấy tám thánh đạo mà không cótướng tám thánh đạo, dầu thấy Bồ Đề thấy Niết Bànnhưng không có tướng Bồ Đề, Niết Bàn, vì tất cả phápvốn không có tướng. Bồ Tát nầy do sức Kim Cang tam muộinên thấy tất cả pháp bổn lai không có tướng.

NầyThiện nam tử ! Thế nào gọi là Kim Cang tam muội ? Như chấtKim cang nếu ở trong ánh nắng thời màu sắc chẳng nhứt định.Cũng vậy, Kim Cang tam muội ở trong đại chúng cũng chẳngnhứt định, vì thế nên gọi là Kim Cang tam muội.

Nhưchất Kim cang tất cả người đời không thể bình luận giácả. Cũng vậy, Kim Cang tam muội có bao nhiêu công đức tấtcả trời người không thể nghĩ lường được, do đây nênlại gọi là Kim Cang tam muội.

Nhưngười nghèo đặng báu Kim cang thời hết nghèo cùng khốnkhổ, lại khỏi ác quỉ tà độc. Cũng vậy, Đại Bồ Tátđược tam muội nầy thời có thể dứt hết phiền não khổhoạn xa lìa các ma tà độc, do đây nên gọi là Kim Cang tammuội.

Đâygọi là Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầyđủ phần công đức thứ sáu.

Thếnào là Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựuđầy đủ phần công đức thứ bảy ?

NầyThiện nam tử ! Đại Bồ Tát nầy nghĩ rằng : Pháp gì cóthể làm nhơn duyên gần với Đại Niết Bàn ? Bồ Tát nầyliền biết có bốn điều : Làm nhơn duyên gần, nếu rờibốn pháp nầy thời không thể được Đại Niết Bàn : Vìthế nên nói rằng siêng tu tất cả khổ hạnh mà được ĐạiNiết Bàn, thời không đúng.

Đâylà bốn điều : Một là gần gũi bạn lành ; hai là chuyêntâm nghe pháp ; ba là nhiếp niệm tư duy ; bốn là tu hành đúngpháp.

Nhưcó người mang bịnh : Hoặc nóng, hoặc lạnh, hư lao, các tàquỉ độc, người bịnh nầy, tìm đến lương y, lương y liềntheo bịnh cho thuốc. Người bịnh nầy hết lòng y theo lờichỉ dẫn của lương y, uống thuốc đúng cách, bịnh đượclành, thân được an. Người bịnh dụ cho Bồ Tát. Lươngy dụ cho thiện tri thức. Phương thuốc của lương y nóidụ cho kinh Đại Thừa. Y theo lời chỉ dẫn của lương y dụcho khéo suy nghĩ nghĩa lý của kinh Đại Thừa. Hiệp thuốcuống đúng cách dụ cho tu hành đúng pháp. Bịnh lành dụ chodứt hết phiền não. Thân an dụ cho đặng Niết Bàn thường,lạc, ngã, tịnh.

Vínhư có Quốc Vương muốn cai trị đúng pháp, làm cho nhơn dânđược an vui, nhà vua hỏi cách cai trị nơi các quan. Các quanbèn đem cách thức của Tiên Vương tâu với Quốc Vương. QuốcVương liền chí tâm tin tưởng thật hành theo, đúng như phápcai trị nước nhà, làm cho cả nước không giặc cướp, nhơndân an vui. Quốc Vương dụ cho Bồ Tát, các quan dụ cho bạnlành. Cách thức cai trị của các quan tâu dụ cho mười haibộ kinh. Quốc Vương hết lòng tin tưởng thật hành dụ choBồ Tát nhiếp tâm tư duy nghĩa lý của mười hai bộ kinh.Quốc Vương cai trị đúng pháp dụ cho Bồ Tát tu hành đúngtheo sáu môn Ba La Mật. Cả nước không giặc cướp dụ choBồ Tát đã lìa phiền não kiết sử. Nhơn dân đượcan vui dụ cho Bồ Tát chứng được Đại Niết Bàn thường,lạc, ngã, tịnh.

Nhưcó người bị bịnh phong hủi, có trí thức bảo rằng : Nếuông đến được bên núi Tu Di thời bịnh có thể lành. Vìnơi đó có vị thuốc hay như cam lộ, uống được thuốc đóthời bịnh gì cũng lành. Người bịnh tin theo lời đi đếnbên núi hái lấy thuốc cam lồ mà uống, tật bịnh liền hết,thân được an vui. Người bịnh dụ cho phàm phu. Trí thứcdụ cho Đại Bồ Tát. Tin theo lời bảo dụ cho bốn tâm vôlượng. Núi Tu Di dụ tám thánh đạo. Vị thuốc cam lồ dụcho Phật tánh. Bịnh hủi được lành dụ lìa phiền não. Đặngan vui dụ đặng Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh.

Vínhư có người nuôi những đệ tử thông minh trí huệ, ngàyđêm người nầy luôn dạy dỗ chẳng biết mõi. Bồ Tát cũngnhư vậy, tất cả chúng sanh hoặc tin, hoặc chẳng tin, BồTát luôn giáo hóa không biết nhàm mõi.

NầyThiện nam tử ! Thiện tri thức là nói chư Phật Bồ Tát vàhàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, cùng những người tin kinh ĐạiThừa. Thế nào gọi là thiện tri thức ? Hàng thiện tri thứccó thể chỉ dạy cho chúng sanh xa lìa mười điều ác,tu hành mười điều lành, do nghĩa nầy nên gọi là thiệntri thức. Lại hàng thiện tri thức lời nói đúng như phápthật hành đúng như lời nói, chính là tự mình chẳng sátsanh cũng bảo người chẳng sát sanh, nhẫn đến tự mình cóchánh kiến, cũng đem chánh kiến dạy cho người.

Nềucó thể được như đây thời gọi là chơn thiệt thiện trithức. Tự mình tu tập Bồ Đề cũng có thể dạy người tuhành Bồ Đề. Tự mình tu hành chánh tín, trì giới, bố thí,đa văn, trí huệ, cũng có thể dạy người như vậy, do đâynên gọi là thiện tri thức.

NầyThiện nam tử ! Hàng thiện tri thức có thiện pháp. Nhữnggì là thiện
pháp? Những việc của mình thật hành chẳng mong cầu tựvui, mà thường vì chúng sanh cầu an vui, thấy người kháccó lỗi không rao nói, miệng thường tuyên nói những việcthuần thiện, do đây nên gọi là thiện tri thức.

NầyThiện nam tử ! Như mặt trăng từ đêm mùng một đến đêmrằm lần lần thêm lớn đầy đủ. Cũng vậy, thiện tri thứclàm cho những người học đạo lần lần xa lìa pháp ác, thêmlớn pháp lành. Nếu người gần gũi thiện tri thức, từ trướcchưa có giới định huệ giải thoát, giải thoát tri kiếnnay bèn có đó, người chưa đầy đủ thời được thêm rộng,do vì gần gũi thiện tri thức. Sự gần gũi nầy làm cho ngườilại được rõ thấu nghĩa sâu của mười hai bộ kinh. Nếucó thể chăm nghe nghĩa sâu của mười hai bộ kinh thời gọilà thính pháp. Nghe kinh Đại Thừa thời gọi là chơn thậtthính pháp. Chơn thật thính pháp chính là nghe kinh Đại NiếtBàn, nghe có Phật tánh, Như Lai rốt ráo chẳng nhập NiếtBàn, do đây nên gọi là chuyên tâm thính pháp. Chuyên tâm thínhpháp gọi là tám thánh đạo, do tám thánh đạo có thể dứttham dục, sân khuể, ngu si, nên gọi là thính pháp. Xétvề người thính pháp gọi là mười một pháp không, do phápkhông nầy đối với tất cả pháp chẳng thấy có tướngmạo. Xét về người thính pháp gọi là sơ phát tâm nhẫnđến rốt ráo tâm vô thượng Bồ Đề, nhơn nơi sơ tâm màđặng Đại Niết Bàn, chẳng phải do nghe pháp mà đặng ĐạiNiết Bàn. Chính là do tu tập nên chứng Đại Niết Bàn. Nhưngười bịnh dầu nghe lời chỉ dẫn của lương y cùng têncủa món thuốc nhưng chẳng thể lành bịnh, phải do uốngthuốc bịnh mới được lành. Dầu nghe mười hai nhơn duyênnhưng chẳng thể dứt được tất cả phiền não, cầnphải nhiếp niệm khéo tư duy mới dứt được phiền não.Đây gọi là pháp nhiếp niệm tư duy thứ ba. Lại do nghĩagì gọi là nhiếp niệm tư duy ? Đây là nói ba môn tam muội: Không tam muội, vô tướng tam muội, vô tác tam muội. Khônglà đối với hai mươi lăm cõi chẳng thấy một cõi nào làcó thật. Vô tác là đối với hai mươi lăm cõi chẳng mongcầu. Vô tướng là không có mười tướng, chính là khôngcó sắc tướng, thinh tướng, hương tướng, vị tướng, xúctướng, sanh tướng, trụ tướng, diệt tướntg, nam tướng,nữ tướng. Tu tập ba môn tam muội như vậy thời gọi làBồ Tát nhiếp niệm tư duy.

Thếnào gọi là tu hành đúng pháp ? Chính là tu hành ĐànBa La Mật nhẫn đến Bát Nhã Ba La Mật, biết tướng chơnthật của ấm nhập giới, cũng biết Thanh Văn, Duyên Giácchư Phật đồng một đạo mà nhập Niết Bàn, chính là thường,lạc, ngã, tịnh, chẳng sanh già, bịnh, chết, chẳng đói khát,khổ não, chẳng thối chuyển chẳng hư mất.

NầyThiện nam tử ! Người hiểu nghĩa sâu của Đại Niết Bàn,thời biết chư Phật trọn chẳng rốt ráo nhập Niết Bàn.

NầyThiện nam tử ! Bực thiện tri thức chơn thật thứ nhứt làBồ Tát và chư Phật, vì bực nầy thường dùng ba pháp khéođiều ngự : Một là lời nói hoàn toàn dịu hòa, hai là hoàntoàn quở trách, ba là dịu hòa cùng quở trách. Do đây nênBồ Tát và chư Phật là bực thiện tri thức chơn thật. Phậtvà Bồ tát là bực đại lương y nên gọi là thiện tri thức,vì biết bịnh, biết thuốc, cho thuốc đúng bịnh.

Vínhư lương y thông thạo tám môn trị bịnh xem bịnh có ba tướng: Phong, nhiệt, hàn. Người bịnh phong cho uống thuốc dầutô, người bịnh nhiệt cho uống thuốc thạch mật, ngườibịnh hàn cho uống nước gừng. Do biết gốc bịnh cho thuốcđược lành nên gọi là lương y. Cũng vậy, Chư Phật và BồTát biết phàm phu có ba thứ bịnh :Tham dục, sân khuể, ngusi. Người tham dục dạy quán tướng xương trắng, ngườisân khuể dạy quán từ bi, người ngu si dạy quán mười hainhơn duyên. Do đây nên chư Phật và Bồ Tát gọi là thiệntri thức.

Nhưthuyền chủ vì giỏi đưa người nên gọi là đại thuyềnchủ. Cũng vậy, Chư Phật và Bồ Tát đưa chúng sanh khỏibiển sanh tử nên gọi là thiện tri thức.

NầyThiện nam tử ! Do Phật và Bồ Tát làm cho chúng sanh đượctu hành đầy đủ những căn lành. Ví như núi Tuyết là nơisản xuất những cội gốc thuốc hay vi diệu. Cũng vậy, chưPhật và Bồ Tát là chỗ xuất sanh tất cả căn lành, do đâynên gọi là thiện tri thức.

Trongnúi Tuyết có vị hương dược tên là Ta Ha, người nào thấythuốc nầy thời được sống lâu, không có bịnh khổ, bốnthứ độc không làm hại được. Người nào rờ đụng thuốcnầy thời sống lâu đủ một trăm hai mươi tuổi. Ngườinào nhớ thuốc nầy thời được trí túc mạng. Đó là dothế lực của vị thuốc nầy. Cũng vậy, chư Phật và BồTát, nếu ai được thấy thời tất cả phiền não đều trừ,bốn ma chẳng nhiễu loạn được. Người nào gần gũi chưPhật và Bồ Tát, vì được nghe pháp, nên được trườngthọ chẳng bị sanh tử. Người nào tưởng niệm chư Phậtvà Bồ Tát thời được vô thượng Bồ Đề. Do đây nên chưPhật và Bồ Tát gọi là thiện tri thức.

Nhưtrong Hương Sơn có ao A Na Bà Đạp Đa, từ ao nầy thành nguồnbốn con sông lớn : Sông Hằng, sông Vân Đầu, sông Tư Đà,sông Bác Xoa. Người đời thường nói rằng : Nếu ngườicó tội tắm nơi bốn con sông nầy thời tội đều tiêu diệt.Nên biết lời nói nầy là hư vọng chẳng thật. Chỉ có chưPhật và Bồ Tát mới là chơn thật. Vì người nào đượcgần gũi thời tất cả tội chướng đều tiêu trừ. Do đâynên chư Phật và Bồ Tát gọi là thiện tri thức.

Vínhư trên mặt đất có bao nhiêu cỏ thuốc, rừng cây, trămgiống lúa, mía nho, các thứ bông trái. Gặp trời nắng hạnsắp khô chết, Nan Đà Long Vương vì xót thương chúng sanhnên ra khỏi biển lớn làm mưa xối xuống, nhờ đó tất cảcỏ cây bông trái đều được tươi tốt. Cũng vậy, tấtcả chúng sanh có bao nhiêu căn lành sắp tiêu diệt, chư Phậtvà Bồ Tát sanh lòng đại bi từ biển trí huệ rưới phápcam lồ, làm cho chúng sanh được mười hai pháp lành. Do đâynên chư Phật và Bồ Tát gọi là thiện tri thức.

Vínhư lương y thông thạo tám môn trị bịnh, thấy những ngườibịnh thời lo chữa trị, không ngó đến dòng họ, đẹp xấucũng không nghĩ đến châu báu, do đây nên người đời xưngtặng là đại lương y. Cũng vậy, chư Phật và Bồ Tát thấychúng sanh có bịnh phiền não, liền sanh lòng từ mẫn mà thuyếtpháp, không ngó đến dòng họ đẹp xấu cùng của cải, chúngsanh được nghe pháp, phiền não liền trừ diệt. Do đây nênchư Phật và Bồ Tát gọi là thiện tri thức. Do vì gần gũithiện hữu nên được gần Đại Niết Bàn.

Thếnào là Bồ Tát nhờ nghe pháp mà đặng gần với Đại NiếtBàn ? tất cả chúng sanh do nghe pháp mà có tín căn, vì cótín căn nên thích thật hành bố thí , trì giới, nhẫn nhục,tinh tấn , thiền định và trí huệ, được quả Tu Đà Hoànnhẫn đến quả Phật. Do đây nên biết rằng được nhữngpháp lành đều là thế lực của sự nghe pháp.

Vínhư trưởng giả chỉ có một con trai, ông sai con đến nướckhác buôn bán đổi chác. Ông chỉ rành đường sá, rồi lạidặn rằng : Nếu gặp dâm nữ thời con phải cẩn thận, chớgần gũi, nếu thương yêu gần gũi thời mất tiền của vàthân mạng cũng khó bảo toàn, cũng chớ giao du với ngườitệ ác. Người con kính thuận theo lời dạy của cha, thântâm an ổn được nhiều của báu mang về.

ĐạiBồ Tát giáo hóa chúng sanh cũng như vậy, chỉ rành đườngđạo cùng những pháp chướng ác. Nhờ nghe pháp mà chúng sanhxa lìa những điều ác, đầy đủ những pháp lành đây làdo sự thính pháp mà được gần với Đại Niết Bàn.

Vínhư gương sáng soi rõ mặt người. Cũng vậy, người đượcnghe pháp thời thấy rõ pháp lành, pháp ác, do đây nên đượcgần Đại Niết Bàn.

Vínhư nhà tìm châu bảo chẳng biết đường sá, có người hiểubiết chỉ đường, bèn đến được chỗ châu báu. Cũng vậy,tất cả chúng sanh muốn đến chỗ lành để lấy pháp bảo,chẳng biết phương pháp tu hành, nhờ Bồ Tát chỉ dạy, chúngsanh tuân theo mà được đến chỗ lành đặng pháp bảo vôthượng Đại Niết Bàn. Đây là do nghe pháp mà đặng gầnvới Đại Niết Bàn.

Vínhư voi say hung dữ, có nhà điều tượng dùng móc sắt mócrách da đầu, voi say liền điều thuận hết tâm hung dữ. Cũngvậy, tất cả chúng sanh do tham, sân , si nên muốn gây tạonhiều tội ác, Bồ Tát vì họ thuyết pháp, làm cho họ dứthết tâm ác, do đây nên gần được Đại Niết Bàn. Vì thếnên Như Lai ở trong các kinh bảo hàng đệ tử phải nhiếptâm lóng nghe và lãnh thọ mười hai bộ kinh, tu bảy giác chi,lìa năm thứ cái chướng. Do tu tập bảy giác chi thời đượcgần Đại Niết Bàn.

Dothính pháp mà Tu Đà Hoàn lìa những sự khủng bố :

Trưởnggiả Tu Đạt Đa trước kia mang bịnh nặng, ông rất lo rầusợ sệt. Sau khi được nghe Xa Lợi Phất nói bực Tu Đà Hoàncó bốn công đức, dùng mười thứ ví dụ để an ủi. Trưởnggiả nghe rồi liền hết sợ sệt. Đây cũng là do thính phápmà được gần Đại Niết Bàn, vì được mở thông pháp nhãn.

Trongđời có ba người : Một là không con mắt, hai là một conmắt, ba là đủ hai mắt. Người không con mắt dụ cho thườngchẳng được nghe pháp. Người một con mắt dụ cho đượctạm thời nghe pháp mà tâm không được an trụ. Người đủhai con mắt dụ cho chuyên tâm nghe pháp lãnh thọ và thực hành,do đây được gần Đại Niết Bàn.

NầyThiện nam tử ! Ngày trước lúc ta ở thành Câu Thi Na, Xá LợiPhất đương bịnh khổ. Ta sai A Nan đến thuyết pháp. Lúcđó Xá Lợi Phất nghe A Nan thuyết pháp, bèn bảo bốn ngườiđệ tử khiêng giường bịnh đến chỗ Phật để nghe pháp.Do phước lực nghe Phật thuyết pháp nên Xá Lơiï Phất đượclành bịnh thân thể an ổn. Vì thế nên nghe chánh pháp thờiđược gần Đại Niết Bàn.

Thếnào là Bồ Tát do tư duy mà được gần Đại Niết Bàn ? Nhơnsự tư duy nầy mà tâm được giải thoát. Vì tất cả chúngsanh thường bị ngũ dục ràng buộc, do tư duy nên đều đượcgiải thoát. Đây là do tư duy mà được gần Đại NiếtBàn.

Tấtcả chúng sanh thường bị thường, lạc, ngã, tịnh làm điênđảo. Do tư duy nên được thấy các pháp là vô thường, vôlạc, vô ngã, vô tịnh. Nhờ sự thấy nầy mà hết điên đảo.Đây cũng là do tư duy mà được gần Đại Niết Bàn.

Tấtcả pháp có bốn tướng : sanh tướng, lão tướng, bịng tướng,diệt tướng. Do bốn tướng nầy làm cho phàm phu đến Tu ĐàHoàn bị nhiều sự khổ não. Nếu người có thể nhiếp niệmkhéo tư duy, dầu gặp bốn tướng nầy nhưng chẳng bị khổnão. Đây cũng là do tư duy mà được gần Đại Niết Bàn.

NầyThiện nam tử ! Tất cả pháp lành đều do tư duy mà được.Vì có người dầu trải qua vô lượng vô biên vô số kiếpchuyên tâm thính pháp, nếu chẳn tư duy thời trọn không thểđược vô thượng Bồ Đề. Đây cũng là do tư duy màđược gần Đại Niết Bàn.

Nếucó chúng sanh tin Phật, Pháp, Tăng không biến đổi nên sanhlòng cung kính. Nên biết rằng đây là do năng lựccủa sự nhiếp niệm tư duy mới được dứt trừ tất cảphiền não. Đây cũng là do tư duy mà được gần Đại NiếtBàn.

Thếnào là Bồ Tát tu hành đúng chánh pháp ? Nầy Thiện nam tử! Dứt những pháp ác tu các pháp lành thời gọi là Bồ Táttu hành đúng pháp. Lại thấy tất cả pháp trống rỗng khôngchỗ có, không thường, không lạc, không ngã, không tịnh,do sự thấy biết nầy nên thà bỏ thân mạng chẳng phạmcấm giới. Đây gọi là Bồ Tát tu hành đúng pháp.

Tucó hai thứ : Chơn thật và chẳng thật. Chẳng biết tướngcủa Niết Bàn, Phật Tánh, Như Lai, Pháp, Tăng, thật tướng,tướng hư không v.v… đây gọi là chẳng thật. Nếu biếtthời gọi là chơn thật.

Thếnào gọi là biết tướng của Niết Bàn ? Niết Bàn có támđiều : Một là sạch hết, hai là tánh lành, ba là thật, bốnlà chơn, năm là thường, sáu là lạc, bảy là ngã, tám làtịnh. Niết Bàn lại có tám điều : Một là giải thoát, hailà tánh lành, ba là chẳng thật, bốn là chẳng chơn, năm làvô thường, sáu là vô lạc, bảy là vô ngã, tám là vô tịnh.

NiếtBàn lại có sáu tướng : Một là giải thoát, hai là tánh lành,ba là chẳng thật, bốn là chẳng chơn, năm là an lạc,sáu là thanh tịnh.

Nếuchúng sanh y theo đạo thế tục mà dứt phiền não, thời NiếtBàn đó có tám điều giải thoát chẳng chơn thật, vì làvô thường. Vì vô thường nên là không thật, vì khôngthật thời không chơn. Dầu dứt phiền não nhưng rồi sẽkhổ trở lại, do đây nên không có thường, lạc, ngã, tịnh,đây gọi là Niết Bàn có tám điều giải thoát không thật.

ThanhVăn Duyên Giác vì dứt phiến não nên gọi là giải thoát nhưngchưa được vô thượng Bồ Đề, đây gọi là chẳng thậtvì chẳng thật nên chẳng chơn. Đời vị lai sẽ được vôthượng Bồ Đề nên là vô thường. Vì được tám thánhđạo vô lậu nên gọi là thanh tịnh an lạc, đây gọi làNiết Bàn có sáu tướng.

NầyThiện nam tử ! Nếu biết như vậy đó là biết Niết Bàn,chẳng gọi là biết Phật tánh, Như Lai, Pháp, Tăng, thật tướng,hư không.

Phậttánh có sáu điều : Một là thường, hai là tịnh, ba là thật,bốn là thiện, năm là sẽ thấy, sáu là chơn. Phật tánh lạicó bảy điều : Sáu điều như trên, bảy là có thể chứng,đây gọi là Bồ Tát biết Phật tánh.

NhưLai chính là tướng giác ngộ, tướng lành, là thường, lạc,ngã, tịnh, là giải thoát chơn thật, dạy đạo có thể thấyđược, đây gọi là Bồ Tát biết tướng Như Lai.

Pháplà hoặc lành chẳng lành, hoặc thường chẳng thường, hoặclạc chẳng lạc, hoặc ngã chẳng ngã, hoặc tịnh chẳng tịnh,hoặc tri chẳng tri, hoặc giải chẳng giải, hoặc chơn chẳngchơn, hoặc tu chẳng tu, hoặc sư chẳng phải sư, hoặc thậtchẳng thật, đây gọi là Bồ Tát biết pháp tướng.

Thế nào là Bồ Tát biết Tăng tướng ?

Tănglà thường, lạc, ngã, tịnh, là tướng đệ tử, tướng cóthể thấy, là thiện , là chơn, chẳng thật, vì tất cả ThanhVăn sẽ được thành Phật, vì tỏ ngộ chơn tánh nên gọilà chơn. Đây gọi là Bồ Tát biết tướng của Tăng.

Thiệttướng là : Hoặc thường, vô thường, hoặc lạc, vô lạc,hoặc ngã, vô ngã, hoặc tịnh, vô tịnh, hoặc thiện, bấtthiện, hoặc có, hoặc không, hoặc Niết Bàn, hoặc chẳngphải Niết Bàn, hoặc giải thoát, hoặc chẳng phải giảithoát, hoặc tri, hoặc bất tri, hoặc đoạn, hoặc bất đoạn,hoặc chứng, hoặc chẳng chứng, hoặc tu, hoặc chẳng tu, hoặcthấy, hoặc chẳng thấy, đây gọi là thiệt tướng, chẳngphải là Niết Bàn Phật tánh, Như Lai, Pháp, Tăng, hư không.

Đâygọi là Bồ Tát nhơn tu kinh Đại Niết Bàn nầy biết tướngsai khác của Niết Bàn, Phật tánh, Như Lai, Pháp, Tăng, thiệttướng, hư không.

NầyThiện nam tử ! Đại Bồ Tát tu kinh Đại Niết Bàn chẳngthấy hư không, vì Phật và Bồ Tát dầu có ngũ nhãn nhưngchẳng thấy, chỉ có huệ nhãn mới thấy được. Chỗ thấycủa huệ nhãn là không có pháp thấy được nên gọi là thấy.Nếu là không có vật gọi là hư không, thời hư không ấygọi là thật, do vì thật thời gọi là thường không, vìthường không nên không có lạc, ngã và tịnh.

NầyThiện nam tử ! Trống không gọi là không có pháp, không cópháp gọi là trống không. Như trong đời chỗ không có vậtgọi là trống không, tánh hư không cũng như vậy, vì khôngchỗ có nên gọi là hư không.

NầyThiện nam tử ! Tánh chúng sanh cùng tánh hư không đều khôngcó thiệt tánh. Như có người nói rằng :Trừ dứt những vậtcó rồi sau mới là không. Nhưng hư không nầy thiệt chẳngthể làm ra, vì là không chỗ có, đã không chỗ có nênbiết là không có hư không. Tánh hư không nầy nếu có thểlàm ra thời gọi là vô thường, nếu là vô thường thờichẳng gọi là hư không.

NầyThiện nam tử ! Như người đời nói rằng hư không là khôngsắc chất, không cách ngại, là thường chẳng biến đổi,do đây nên trong đời gọi tánh hư không là đại chủng thứnăm. Nhưng hư không nầy thiệt ra không có tánh, do ánh sángnên gọi là hư không, thật ra không có hư không. Như thếđế thiệt ra không có tánh vì thuận theo chúng sanh mà nóilà có thế đế.

NầyThiện nam tử ! Thể Niết Bàn cũng không có chỗ trụ, chínhnơi chư Phật dứt sạch phiền não mà gọi là Niết Bàn. NiếtBàn chính là thường, lạc, ngã, tịnh. Niết Bàn dầu là lạc,nhưng chẳng phải là thọ lạc, bèn là sự vui tịch diệtvi diệu vô thượng. Chư Phật có hai thứ vui : Một là tịchdiệt lạc, hai là giác tri lạc. Thể thiệt tướng có ba thứvui : Một là thọ lạc, hai là tịnh diệt lạc, ba là giáctri lạc. Phật tánh có một thứ vui, vì sẽ được thấy,lúc chứng vô thượng Bồ Đề thời gọi là Bồ Đề lạc.

CaoQuý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật : “ Bạch Thế Tôn ! Nếuchỗ phiền não dứt là Niết Bàn thời không phải. Vì xưakia lúc Đức Như Lai mới thành Phật, đi đến bờ sông NiLiên Thiền, Ma Vương cùng quyến thuộc đến chỗ Phật thưarằng : Thời kỳ Niết Bàn đã đến sao Thế Tôn chẳng nhập?”

Phậtbảo Ma Vương : Nay ta chưa có hàng đa văn đệ tử giới hạnhtinh nghiêm
Tríhuệ thông minh, có thể giáo hoá chúng sanh, nên ta chẳng nhậpNiết Bàn.

Nếunói rằng chỗ phiền não dứt là Niết bàn, Bồ Tát từ vôlượng kiếp đã dứt phiền não, cớ sao chẳng đặng gọilà Niết Bàn ? Đều đồng dứt, cớ sao gọi riêng chư Phậtcó Niết Bàn, còn Bồ Tát thời không ? Nếu dứt phiền nãochẳng phải là Niết Bàn cớ sao ngày trước đức Như Laibảo ông Sanh Danh : Chính thân của ta đây là Niết Bàn. ?

LúcNhư Lai ở nước Tỳ Xá Ly, Ma Vương lại đến thưa : ThếTôn ngày trước nói rằng vì chưa có hàng đệ tử đa văntrì giới thông minh trí huệ có thể giáo hóa chúng sanh, nênThế Tôn chẳng nhập Niết bàn. Nay đã đầy đủ cớ sao ThếTôn chẳng nhập ? Như Lai bảo Ma Vương : Sau đây ba tháng tasẽ nhập Niết Bàn.

BạchThế Tôn ! Giả sử diệt độ chẳng phải nhập Niết bàn,tại sao đức Như Lai lại hẹn ba tháng sẽ nhập Niết Bàn?

BạchThế Tôn ! Nếu dứt phiền não là Niết Bàn, ngày trước lúcđức Như Lai ngồi nơi đạo tràng Bồ Đề dứt hết phiềnnão bèn là Niết Bàn, sao lại nói với Ma Vương sau ba thángsẽ nhập Niết Bàn ?

BạchThế Tôn ! Nếu lúùc đó là Niết Bàn, tại sao lại tuyênbố đến cuối đêm sẽ nhập Niết Bàn ?

ĐứcNhư Lai là đấng thành thiệt, cớ sao lại nói những lờihư vọng như vậy ?

Phậtbảo Cao Quý Đức Vương Bồ Tát : “ Nầy Thiện nam tử !Như Lai đã đặng tướng lưỡi rộng dài, phải biết rằngNhư Lai từ vô lượng kiếp đã lìa vọng ngữ. Tất cả chưPhật và Bồ Tát phàm có nói ra đều là lời thành thật chắcchắn không hư dối.

NầyThiện nam tử ! Ngày trước Ma Ba Tuần thỉnh Phật nhập NiếtBàn, mà Ma Vương chẳng biết tướng Niết Bàn. Ý Ma Vươngcho rằng chẳng giáo hoá chúng sanh yên lặng bất động đólà Niết Bàn. Ví như người đời thấy có ai chẳng nói chẳnglàm, bèn cho rằng người nầy như chết. Ý Ma Vương cũngnhư vậy.

NầyThiện nam tử ! Như Lai chẳng nói Phật Pháp và chúng Tăngkhông có tướng sai khác. Chỉ nói thường trụ và thanh tịnhhai pháp nầy không sai khác. Phật cũng chẳng nói Phật cùngPhật tánh và Niết Bàn không có tướng sai khác, chỉ nóithường hằng bất biến là không sai khác, Phật cũng chẳngnói Niết Bàn và thiệt tướng không có tướng sai khác, chỉnói thường trụ và thật chẳng biến đổi không có sai khác.

NầyThiện nam tử ! Có lúc hàng Thanh Văn đệ tử của tasanh sự tránh tụng, như các Tỳ Kheo ở nước Câu Diêm Vitrái lời dạy của Phật phạm nhiều cấm giới, chẳng kínhtrọng Phật, Pháp, Tăng, giới luật hòa thượng. Những TỳKheo ác nầy chẳng tin lời dạy của Phật. Vì những ngườinầy mà ta bảo Ma Ba Tuần ông chớ lo rằng chậm. Sau ba thángta sẽ nhập Niết Bàn.

NầyThiện nam tử ! Nhơn vì các Tỳ Kheo ác nầy, khiến hàng ThanhVăn chẳng thấy thân của ta, chẳng nghe ta thuyết pháp, bèncho rằng Như Lai nhập Niết Bàn. Chỉ hàng Bồ Tát thấy đượcthân ta, thường nghe ta thuyết pháp, nên chẳng cho rằngPhật nhập Niết Bàn.

Dầuhàng Thanh Văn nói rằng Như Lai nhập Niết Bàn, nhưng thậtra ta chẳng nhập Niết Bàn.

NếuThanh Văn đệ tử của ta nói rằng Như Lai nhập Niết Bàn,phải biết người nầy chẳng phải đệ tử của Phật, làbè đảng của ma, là người tà kiến chẳng phải chánh kiến.Nếu nói Như Lai chẳng nhập Niết bàn, phải biết ngườinầy thiệt là đệ tử Phật, là người chánh kiến chẳngphải bè đảng của ma.

NầyThiện nam tử ! Ta chẳng thấy trong hàng đệ tử có ngườinào cho rằng Như Lai chẳng giáo hóa chúng sanh yên lặng bấtđộng gọi là Niết bàn.

Vínhư trưởng giả có đông con cái, đi đến xứ khác chưa trởvề. Những người con đều cho rằng cha mình đã chết. Nhưtrưởng giả nầy thiệt chẳng chết, mà những người conđiên đảo tưởng rằng chết. Cũng vậy, hàng Thanh Văn đệtử vì chẳng thấy Phật, bèn cho rằng Như Lai đã nhập NiếtBàn trong rừng Ta La nơi thành Câu Thi Na, nhưng thật ra ta chẳngnhập Niết Bàn, mà hàng Thanh Văn tưởng là nhập Niết Bàn.

Vínhư ngọn đèn sáng, có người che kín đó, những kẻ khôngbiết cho rằng đèn đã tắt, nhưng đèn sáng nầy thiệt chẳngtắt, vì không biết nên cho là tắt. Cũng vậy, hàng Thanh Vănđệ tử dầu có huệ nhãn nhưng bị phiền não che đậy làmcho tâm điên đảo chẳng thấy được thân chơn thật củaPhật, bèn tưởng là Phật diệt độ, nhưng thiệt ra ta chẳngdiệt độ.

Nhưngười sanh manh chẳng thấy mặt trời mặt trăng, chẳng biếtngày đêm sáng tối, vì chẳng biết bèn nói rằng không cómặt trời mặt trăng thiệt, do vì không thấy nên sanh tưởngđiên đảo. Cũng vậy, hàng Thanh Văn đệ tử, vì chẳngthấy Như Lai bèn cho rằng Phật nhập Niết Bàn. Nhưng thậtra Như Lai chẳng nhập Niết Bàn.

Vínhư mây mù che khuất mặt trời mặt trăng, kẻ ngu si cho rằngkhông có mặt trời mặt trăng. Cũng vậy, Vì các phiền nãoche đôi mắt trí huệ nên hàng Thanh Văn chẳng thấy Như Laibèn cho rằng Như Lai nhập Niết Bàn.

NầyThiện nam tử ! Đây là đức Như Lai thị hiện Anh Nhi Hạnhchớ chẳng phải diệt độ.

NầyThiện nam tử ! Như lúc mặt trời lặn, vì Hắc Sơn che khuấtmặt trời, nên chúng sanh Diêm Phù Đề chẳng thấy, nhưngthật ra mặt trời không có lặn, vì không thấy nên chúngsanh tưởng là lặn. Cũng vậy, hàng Thanh Văn đệ tử bịphiền não che ngăn chẳng thấy thân Phật, vì chẳng thấynên cho rằng Như Lai nhập Niết Bàn, nhưng thiệt ra Phậtchẳng nhập Niết Bàn.

Dođây nên Phật ở nước Tỳ Da Ly bảo Ma Ba Tuần : Sau ba thángta sẽ nhập Niết Bàn.

NầyThiện nam tử ! Như Lai thấy trước rằng Ca Diếp Bồ Tátsau ba tháng căn lành sẽ thành thục, cũng thấy núi HươngSơn ông Tu Bạt Đà La an cư xong sẽ đến chỗ ta, nên ta bảoMa Ba Tuần sau ba tháng sẽ nhập Niết Bàn.

NầyThiện nam tử ! Có năm trăm lực sĩ mãn ba tháng cũng sẽ pháttâm vô thượng Bồ Đề, vì họ nên ta bảo ma Ba Tuần sauba tháng Phật sẽ nhập Niết Bàn.

NầyThiện nam tử ! Bọn ông Thuần Đà năm trăm Lê Xa tử, vàAm La nữ
Sauba tháng thời đạo tâm vô thượng sẽ thành thục, vì nhữngngười nầy nên ta bảo ma Ba Tuần sau ba tháng Như Lai sẽ nhậpNiết Bàn.

NầyThiện nam tử ! Ông Tu Na Sát Đa theo hàng ngoại đạo Ni KiềnTử, ta vì ông thuyết pháp trọn mười hai năm, ông chẳngtin chẳng thọ, chẳng bỏ tà kiến, ta biết ác tâm tà kiếncủa ông sau ba tháng quyết định có thể dứt trừ, nên tabảo ma Ba Tuần sau ba tháng Phật sẽ nhập Niết Bàn.


NầyThiện-nam-tử ! Như nơi ngã tư đường có người đựng đầyđồ ăn thơm ngon trong chậu, trong bát, bày ra để bán. Cóngười khách từ xa đến quá đói, thấy đồ ăn ấy thơmngon, liền hỏi đây là vật gì ? Người bán nói : Đây làđồ ăn thơm ngon, nếu ai ăn thứ nầy, thời đặng sắc tốt,sức mạnh, có thể hết đói, hết khát và đặng thấy chưThiên. Nhưng chỉ có một tai hại là sẽ chết. Ngườikhách nghe xong nghĩ rằng : Nay tôi chẳng dùng sắc đẹp, sứcmạnh, thấy chư Thiên, vì tôi chẳng muốn chết. Nghĩ xonghỏi rằng : Ăn vật thực nầy nếu phải chết sao ông lạiđem bán.

Ngườibán đáp : Những người có trí không ai bằng lòng mua. Chỉcó kẻ ngu, chẳng biết việc nầy, họ tham ăn nên họ trảgiá đắt cho tôi.

NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát cũng như vậy, chẳng nguyệnsanh cõi trời, đặng sắc đẹp, đặng sức mạnh, thấy chưThiên, vì sanh cõi trời chẳng khỏi những khổ não. Kẻ phàmphu ngu si sanh chỗ nào cũng đều tham luyến vì họ chẳng thấygìa, bệnh, chết.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như cây độc, gốc rễ cũng có thể giếtngười, thân cây, vỏ, bông, trái, hột đều cũng có thểgiết người. Tất cả thân ngũ ấmtrong hai mươi lăm cõi đềucó thể hại chúng sanh cũng như vậy.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như phân nhơ, nhiều hay ít đều hôi cả.Cũng vậy, thọ sanh dầu sống lâu tám muôn tuổi hay mườituổi cũng đều khổ não cả.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như hầm sâu nguy hiểm, lấy cỏ che trênmiệng hầm, bờ bên kia của hầm có mạch cam-lồ, ngườinào được ăn chất cam lồ, sẽ sống lâu ngàn năm không bệnhtật, an ổn , khoan khoái. Kẻ ngu si tham chất cam lồ, chẳngbiết dưới đó có hầm sâu, bèn chạy đến lấy, chẳng ngờtrật chơn té xuống hầm mà chết. Người trí biết sự nguyhiểm, nên không đến lấy chất cam-lồ.

Đại-Bồ-Tátcũng như vậy còn chẳng muốn nhận lấy vật thực thượngdiệu cõi trời huống là tong loài người. Kẻ phàm phu bènở nơi địa ngục nuốt hoàn sắt, huống là thức ăn thượngdiệu cõi trời cõi người mà có thể chẳng ăn.

NầyThiện-nam-tử ! Do những điều thí dụ như vậy, ngoài ra cònvô lượng thí dụ khác, nên biết thọ sanh thiệt là rấtkhổ.

Đâygọi là Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát sanh là khổ.

NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát lão là khổ như thế nào ?

Sựgià yếu hay làm ho hen, ngăn nghẹn hơi, đưa lên, có thể làmmất sức mạnh, trí nhớ kém, sự tráng kiện không còn, mấtsự an vui thơ thới, khoan khoái. Tuổi già hay làm lưng còm,mỏi nhọc, lười biếng, bị người khi dể.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như hoa sen nở tốt đầy trong ao nướcrất đáng ưa thích, gặp trận mưa đá, tất cả đều hưnát. Cũng vậy, tuổi già có thể phá hoại tráng kiện, sắcđẹp.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như quốc vương có một trí thần dùngbinh giỏi. Có vua nước địch chống cự chẳng thuận hảo.Quốc vương sai trí thần đem binh qua đánh, bắt vua nướcnghịch mang về dưng cho quốc vương. Cũng vậy, tuổi già bắtđược tráng kiện, sắc đẹp đem giao cho tử vương.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như trục xe đã gãy, xe đó không còn dùngđược. Cũng vậy, già suy thời không còn dùng được vàoviệc gì.

NầyThiện-nam-tử ! Như nhà giàu to có nhiều của báu : Vàng ,bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não. Có bọn cướpnếu vào đặng nhà đó thời có thể cướp giựt hết cả.Cũng vậy, tuổi tráng kiện và sắc đẹp thường bị giặcgià suy cướp giựt.

Nầythiện-nam-tử ! Ví như người nghèo tham thức ăn ngon, y phụcmịn màng, dầu có hy vọng nhưng không thể được. Cũng vậy,tuổi già suy dầu có tâm than, muốn hưởng thọ ngũ dụcsung sướng mà chẳng thể đặng.

NầyThiện-nam-tử ! Như con rùa ở trên đất cao lòng nó thườngnghĩ đến nước. Cũng vậy, người đời đã già suy khô héomà lòng họ thường nhớ tưởng những khoái lạc ngũ dụcthuở tráng kiện.

Nầythiện-nam-tử ! Như mùa thu ai cũng ưa ngắm hoa sen nở, đếnkhi hoa tàn héo, mọi người đều không thích. Cũng vậy, sựtráng kiện, sắc đẹp mọi người đều ưa thích, đến khigià suy ai cũng nhàm ghét.

Nầythiện-nam-tử ! Ví như cây mía, sau khi bị ép, bã xác khôngcòn vị ngọt. Cũng vậy, tráng kiện sắc đẹp đã bị giàép, thời không có ba thứ vị : Một là vị xuất gia, hai làvị đọc tụng, ba là vị tọa thiền.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như mặt trăng tròn ban đêm thời tỏ sáng,ban ngày thời không như vậy. Cũng vậy, tráng kiện thời hìnhmạo nở nang xinh đẹp, già thời suy yếu, thân thể và tinhthần kém suy.

NầyThiện-nam-tử ! ví như có nhà vua thường dùng chánh pháp caitrị nhơn dân, chơn thật, không lừa dối, từ bi ưa bố thí.Thuở đó nhà vua bị nước địch xâm lăng đánh bại, bènlưu vong đến nước khác. Nhơn dân trong nước kia thấy nhàvua đều cảm thương nói rằng : Đại-vương ngày trước dùngchánh pháp trị nước chẳng uổng lạm bá tánh, thế sao naylại lưu vong đến đây. Cũng vậy, loài người đã bị giàsuy làm bại hoại, thời thường tán thán sự nghiệp đã làmthuở tráng kiện.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như tim đèn dầu nhờ mỡ dầu nhưng mỡdầu sẽ hết, thế chẳng lâu dài. Cũng vậy, thân ngườidầu nhờ cậy sự tráng kiện, nhưng tráng kiện phải trảiqua già suy, đâu còn được dùng lâu.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như con sông cạn khô không có thể lợiích cho ngưới, cho phi nhơn, chim thú. Cũng vậy, thân ngườibị già suy khô héo, không còn làm được việc gì, chẳngthể có lợi ích.

NầyThiện-nam-tử ! Ví như cây cheo leo bờ sông, nếu gặp gióto, ắt sẽ đổ ngã. Như vậy đến tuổi già ắt phải chết,thế chẳng thể còn được.

NầyThiện-nam-tử ! Như trục xe đã gãy, không thể chở chuyên.Cũng vậy, già suy không thể học hỏi tất cả pháp lành.

NầyThiện-nam-tử ! Như trẻ thơ bị người khinh khi. Cũng vậy,già suy thường bị người khinh hủy.

NầyThiện-nam-tử ! Do những điều dụ như vậy cùng vô lượngthí dụ khác nên biết sự già thiệt là rất khổ.

Đâygọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát già là khổ.

NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát bịnh khổ như thế nào ?

Vínhư mưa đá làm hại mạ lúa. Cũng vậy, tật bệnh có thểphá hoại tất cả những sự an ổn vui vẻ.

Nhưngười có oán thù , tâm thường lo rầu sợ sệt. Cũng vậy,tất cả chúng sanh thường bị bịnh khổ, lo rầu không yên.

Vínhư có người hình dung xinh đẹp, Vương-phi tâm dục yêu thương,sai sứ đòi đến để cùng giao thông. Vua bắt đặng, liềntruyền lịnh khoét một mắt,cắt một vành tai, chặt mộttay, một chân, bấy giờ người đó hình dung đổi khác bịngười nhờm gớm khinh rẻ. Cũng vậy, thân người trướcthời dung mạo tươi tốt, tai mắt đầy đủ, đã bị bịnhkhổ hành hạ, thời xấu xa bị người nhờm gớm.

Nhưcây chuối, cây tre, cây lau, cây la, hễ có con, có trái thìchết. Cũng vậy, người có bịnh thời chết.

Nhưvua Chuyển-Luân, đại thần, chủ binh thường làm tiền đạođi trước, nhà vua theo sau cũng như chúa cá, chúa kiến, chúaốc, chúa trâu, thương chủ, lúc ở trước chúng mà đi, thờitoàn chúng thảy đều đi theo không rời. Cũng vậy, sựchết thường theo sát bịnh khổ không rời.

NầyThiện-nam-tử ! Nhơn duyên của bịnh làm cho khổ não, rầulo, buồn than, thân tâm không an ổn. Hoặc bị kẻ giặc cướpbức hại, trái nổi bể hư, phá hoại cầu cống, đều cũngcó thể cướp giựt mạng sống. Bịnh lại có thể phá hoạisự tráng kiện, sắc đẹp, thế lực, an vui, mất lòng tàmquý, có thể làm cho thân tâm xót xa bức rức.

Donhững điều dụ đó và vô lượng thí dụ khác, nên biếtbịnh rất là khổ não.

Đâygọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát bịnh khổ.

Nầythiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừaĐại- Niết-Bàn quán sát tử khổ ? Sự chết có thể đốtcháy tiêu diệt. Như hỏa tai khởi lên có thể đốt cháy tấtcả, chỉ trừ cõi trời nhị thiền trở lên, vì thế lựccủa hỏa tai chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết có thểtiêu diệt tất cả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừaĐại-Niết-bàn vì thế lực của sự chết không đến được.

Nhưlúc thủy tai khởi lên, tất cả đều trôi, đều ngập,chỉ trừ cõi tam-thiền trở lên, vì thế lực của thủy taichẳng đến được. Cũng vậy, sự chết làm chìm mất tấtcả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.

Nhưlúc phong tai khởi lên, có thể thổi tan tất cả, chỉ trừcõi tứ thiền, vì thế lực của phong tai chẳng đến được.Cũng vậy, sự chết có thể tiêu diệt tất cả, chỉ trừBồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.

Ca-Diếp-Bồ-Tátbạch Phật : “ Thế-Tôn ! Cõi Tứ-thiền kia do cớ gì màgió không thổi đến, nước chẳng ngập đến, lửa chẳngcháy đến ?”

_ NầyThiện-nam-tử ! Cõi Tứ-Thiền kia không có tất cả quá hoạntrong thân và ngoại cảnh.

CõiSơ- Thiền có quá hoạn : Trong có giác quán, ngoài có hỏatai.

CõiNhị-Thiền có quá hoạn : Trong có vui mừng, ngoài có thủytai.

CõiTam-Thiên có quá hoạn : Trong có hơi thở, ngoài có phong tai.

CõiTứ-Thiền trong ngoài đều không quá hoạn, nên ba thứ taihọa lớn chẳng thể đến được.

Đại-Bồ-Tátcũng như vậy, an trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn, trongngoài đều không tất cả quá hoạn, nên sự chết chẳng đếnđược.

Lạinầy Thiện-nam-tử : Như Kim-Súy-Điểu có thể nuốt, có thểtiêu tất cả loài rồng, cá và châu báu, vàng, bạc vân vân,chỉ trừ chất kim cương không tiêu được. Cũng vậy, sựchết có thể nuốt, có thể tiêu tất cả chúng sanh, chỉkhông tiêu được Đại-Bồ-tát trụ nơi Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn.

Lạinầy Thiện-nam-tử ! Ví như những cỏ cây ở bờ sông, nướclụt dưng lên đều trôi theo dòng vào biển lớn, chỉ trừcây dương liễu, vì thứ cây nầy mềm dẽo. Cũng vậy, tấtcả chúng sanh đều trôi lăn vào biển chết, chỉ trừ Bồ-Táttrụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.

Lạinầy Thiện-nam-tử ! Như thần Na-La-Diên có thể hàng phụctất cả lực sĩ, chỉ trừ gió to, vì gió to vô ngại. Cũngvậy, sự chết có thể hàng phục tất cả chúng sanh, chỉtrừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn, vì bậcnầy vô ngại.

Lạinầy Thiện-nam-tử ! Ví như có người đối với kẻ thù giảlàm thân thiện, theo sát bên như bóng theo hình, chờ khi thuậntiện mà giết đó, nếu phòng bị chặt chẽ, thời ngườikia không hại được. Cũng vậy, sự chết luôn theo rình chúngsanh chờ dịp làm hại, chỉ không thể hại được bậc Đại-Bồ-Táttrụ nơi Đại-thừa Đại- niết-bàn, vì bậc Bồ-Tát nầychẳng phóng dật.

Lạinầy Thiện-nam-tử ! Ví như trời bỗng mưa kim cương xốixuống tất cả cỏ cây, núi rừng, đất cát, ngói, đá, vàng,bạc, lưu ly, cùng tất cả vật đều bị hư nát, chỉ kimcương chơn bảo không bị hư. Cũng vậy, sự chết đều cóthể phá hoại tất cả chúng sanh, chỉ trừ kim cương Bồ-Táttrụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.

Lạinầy Thiện-nam-tử ! Như Kim-súy-điểu có thể nuốt các loàirồng, chỉ không nuốt được rồng thọ Tam-quy-y. Cũng vậy,sự chết có thể nuốt tất cả chúng sanh, chỉ trừ Bồ-Táttrụ ba môn chánh định : Không, vô tướng vô nguyện.

Lạinầy Thiện-nam-tử ! Như độc rắn ma-la, khi rắn nầy cắnnhằm người, những chú hay, thuốc tốt đều không cứu được,chỉ có chú A-Kiệt Đa-Tinh là có thể chữa lành. Cũng vậy,sự chết tất cả phương thuốc đều không cứu được, chỉtrừ Bồ- Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.

Lạinầy Thiện-nam-tử ! Như có người bị nhà vua giận, có thểdùng lời dịu dàng khéo léo, dâng của cải châu báu mà đặngkhỏi tội. Sự chết không như vậy, dầu dùng lời nói dịudàng, tiền của châu báu để cống dưng cũng chẳng thoátkhỏi.

NầyThiện-nam-tử ! Luận về sự chết là chỗ hiểm nạn, khônggì giúp đỡ, đi đường xa xôi mà không bạn bè, ngày đêmđi luôn chẳng biết bờ mé, sâu thẳm tối tăm, không có đènđuốc, nó vào không có cửa nẻo mà có chỗ nơi, dầu khôngchỗ đau đớn nhưng chẳng thể chữa lành, nó qua không aingăn được, nó đến không thể thoát được, không phá pháchgì mà người thấy sầu khổ, nó không phải màu sắc xấuxa mà làm cho người kinh sợ. Nó ở bên thân người mà chẳnghay biết được.

NầyCa-Diếp Bồ-Tát, do những điều dụ đó cùng vô lượng thídụ khác, nên biết sự chết thật là rất khổ.

Đâygọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát tử khổ.

NầyThiện-nam-tử! Thế nào là Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sát ái-biệt-ly khổ ? Ái biệt-ly nầy có thể làmcội gốc cho tất cả sự khổ. Như nói bài kệ rằng :

Nhơnái sanh lo, Nhơn ái sanh sợ, Nếu lìa sự ái, Nào lo nào sợ.

Vìái nên sanh sự lo khổ, vì lo khổ nên làm cho chúng sanh cógià suy. Ái- biệt-ly khổ là nói sự chết. Vì biệt-ly haysanh những sự khổ vi-tế, nay sẽ vì ông mà phân biệt rõràng.

NầyThiện-nam-tử ! Thuở quá khứ người sống vô lượng tuổi,có quốc vương tên là Thiện-Trụ nhà vua trị nước tám muônbốn ngàn năm. Trên đỉnh đầu của vua mọc lên một bứuthịt mềm nhuyễn như bông. Bứu ấy lần lần to lớn, khônglàm đau nhức. Mãn mười tháng, bứu ấy nứt ra, sanh mộtđồng tử hình dung đẹp lạ. Nhà vua vui mừng đặt tên làĐãnh-Sanh.

Thờigian sau vua Thiện-Trụ đem việc nước giao cho Thái-tử Đảnh-Sanh,tồi rời bỏ cung điện quyến thuộc vào núi tu hành. Ngàyrằm Thái-Tử Đảnh-Sanh lên ngôi, đương ở trên lầu caotắm gội trai giới, phương Đông liền có báu kim- luân, bánhxe vàng đủ một ngàn cây căm tự nhiên bay đến. Vua Đảnh-Sanhnghĩ rằng : Từng nghe Ngũ-Thông tiên nhơn nói : Nếu dòng vuaSát-Đế-Lợi ngày rằm ở trên lầu cao tắm gội trai giới,có báu kim luân đủ ngàn cây căm tự nhiên bay đến, thời nhà vua đó sẽ đặng làm Chuyển-Luân Thánh-Vương. Nay ta nênthí nghiệm. Nghĩ xong, vua Đảnh-Sanh tay tả bưng báu kim-luân,tay hửu cầm lư hương, qùy gối bên mặt mà phát thệ rằng: Nếu đây thiệt là báu kim-luân, thời nên bay đi như vuaChuyển-Luân Thánh-Vương thuở quá khứ. Nhà vua phát thệ vừaxong, thời báu kim-luân bay lên hư không, bay khắp mười phương,rồi trở về dừng lại trên tay tả vua Đảnh-Sanh. Nhàvua vui mừng biết chắc mình sẽ là Chuyển-Luân Thánh-Vương.

Sauđó không bao lâu, có tượng bảo xuất hiện, mình trắng nhưbạch liên-hoa, xinh đẹp, mạnh mẽ đôi ngà chấm đất. Vìmuốn thí nghiệm vua Đảnh-Sanh liền bưng lư hương quì gốibên hữu mà phát thệ rằng : Nếu thật là báu bạch tượngnên bay đi như thuở vua Chuyển-Luân Thánh-Vương quá khứ.Phát thệ xong, bạch tượng liền từ sáng đến chiều bayđi khắp tám phương, tột đến mé biển, rồi trở về cungvua. Kế đó lại có Mã-bửu xuất hiện, lông màu xanh biếcmướt đẹp, lông đuôi cùng gáy màu vàng ròng. Vì muốn thínghiệm vua Đảnh-Sanh tay bưng lư hương quì gối bên hữu phátthệ rằng : Nếu thiệt là Mã-bảo thời phải như củavua Chuyển-Luân Tánh-Vương thuở quá khứ. Phát thệ xong, từsáng đến chiều, Mã-bảo ấy đi khắp tám phương, đến mébiển rồi trở về cung vua.

Kếđó lại có Nữ-bảo xuất hiện xinh đẹp đệ nhứt, chơnlông thoảng mùi chiên đàn, hơi miệng thơm sạch như hoa senxanh, mắt sáng nhìn xa một do tuần, tai nghe, mũi ngữicũng xa như mắt, lưỡi rộng lớn le ra có thể trùm cả mặt,da mịn láng như lá đồng đỏ, rất thông minh có trí huệ,lời nói dịu dàng đối với tất cả mọi người. Tay ngườiấy lúc chạm đến áo của vua, liền biết thân vua khỏe mạnhhay bịnh hoạn, cũng biết những ý nghĩ của vua.

Kếđó trong cung vua tự nhiên có Ma-ni bảo châu lớn bằng bắpvế của người, màu thuần xanh, trong suốt, trong chỗ tốicó thể chiếu sáng một do tuần. Nếu trời mưa giọt lớnnhư trục xe, thế lực của bảo châu nầy có thể che mộtdo tuần, giọt mưa không rơi xuống được.

Sauđó, lại có Chủ- tạng thần hiện ra, cặp mắt có thể thấythấu những kho châu báu ở trong lòng đất, tùy ý vua muốnđều có thể dưng đủ. Vua Đảnh-Sanh muốn thí nghiệm bèncùng Chủ-tạng thần ngồi thuyền ra biển, vua bảo chủ-tạngthần : Nay ta muốn đặng châu báu. Chủ-tạng thần liền lấyhai tay quậy nước biển, đầu mười ngón tay liền hiện ramười kho châu báu lấy dưng cho vua tâu rằng : “Tùy ý nhàvua chọn dùng, còn thừa lại nên ném trả xuống biển.”

Kếđó lại có chủ-binh thần xuất hiện, thao lược đệ nhứt,điều khiển bốn binh chủng rất giỏi. Lúc vua cần binh thờihiện quân lính ra để dùng. Lúc chẳng dùng binh, thời quânlính ẩn mất. Xứ nào chưa hàng phục chủ binh thần nầycó thể làm cho hàng phục. Xứ nào đã hàng phục, thời đủsức giữ gìn.

Lúcđó vua Đảnh-Sanh tự biết là Chuyển-Luân -Vương, bèn bảocác quan :
“Cõi Diêm-Phù-Đề nầy an ổn giàu vui, nay bảy báu đã đủ,cả ngàn vương tử cũng đủ, giờ đây nên làm việc gì ?”

Cácquan tâu : “ Châu Phất-Bà-Đề phương Dông còn chưa qui thuận,đại vương nên đem binh qua chinh phục.”

VuaĐảnh-Sanh bèn cùng thất-bảo bay qua châu Phất-Bà-Đề, nhơndân trong châu đó đều vui mừng qui thuận.

Cácquan lại tâu nên chinh phục châu Cù-Đà-Ni ở phương Tây. Kế đó lại đến chinh phục châu Uất-Đơn-Việt. Sau khi chinhphục ba châu xong. Vua Đảnh-Sanh bảo các quan : “ Châu Nam-Diêm-Phù-Đềnày cùng ba châu đều an onå giàu vui, tất cả đều qui thuậnta, nay đây lại nên làm việc gì ?”

Cácquan tâu : “ Cõi trời Đao-Lợi tuổi thọ dài lâu , an ổn,khoái lạc, thân chư Thiên xinh đẹp hơn nhơn gian, cung điệnnhẫn đến giường ghế toàn bằng bảy báu, cậy phước trờichưa chịu đến qui phục, nay nên đem binh đánh dẹp.”

VuaĐảnh-Sanh lại cùng thất bảo bay lên cõi trời Đao-Lợi,trông thấy một cây màu xanh đậm bèn hỏi đại thần : Đólà cây gì ?

Đại-thầntâu : Cây ấy tên là Ba-Lợi-Chất-Đa-La, chư Thiên cõi Đao-Lợinầy đến ngày mùa hạ thường tựu hợp vui chơi dưới câyđó.

Lạitrông thấy màu trắng như bạch vân, vua Đảnh-Sanh hỏiđại thần chỗ đó là gì ? Đại-thần tâu đó là thiện-pháp-đường,chư thiên cõi Đao-Lợi thường nhóm nơi đó để bàn luậnnhững việc cõi trời cõi người.

Thiên-ChúaThích-Đề-Hoàn-Nhơn biết vua Đảnh-Sanh đã đến, liền ratiếp rước, cầm tay vào thiện-pháp-đường lên tòa mà ngồi.Hai vua hình dung tướng mạo giống nhau, chỉ có đôi mắt nhìnnháy là khác nhau.

Lúcđó vua Đảnh-Sanh nghĩ rằng : nay ta có thể đuổi thiên-chúanầy để ta ở đây làm thiên-vương.

Thiên-Đế-Thíchvốn thọ trì đọc tụng kinh điển Đại-thừa, thường vìchư Thiên giảng thuyết, chỉ chưa thông đạt hết thâm nghĩacủa kinh. Do thọ trì giảng thuyết Đại-thừa nên Thiên-Đếcó oai đức hơn.

Khivua Đảnh-Sanh khởi ác tâm đối với Thiên-Đế, tổn phướcliền tự rớt xuống Diêm-Phù-Đề, nhớ tiếc cõi trời lòngrất khổ não. Không bao lâu vua Đảnh-Sanh phải bịnhchết.

NầyThiện-nam-tử ! Thiên-Đế thuở đó chính là Phật Ca-Diếp,vua Đảnh-Sanh thời là tiền thân của ta.

NầyThiện-nam-tử ! Phải biết ái-biệt-ly như vậy rất là khổnão.

NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát còn nhớ những trường hợpái-biệt-ly khổ thuở quá khứ, huống là Bồ-Tát trụ nơikinh Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn mà nên chẳng quán sát sựái-biệt-ly khổ trong đời hiện tại !

NầyThiện-nam-tử ! Thế nào là Đại Bồ-Tát tu hành kinhĐại-thừa Đại- Niết-Bàn quán sát oán-tằng-hội khổ ?

Đại-Bồ-Tátnầy quán sát địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ, loài người,trên trời đều có sự oán-tằng-hội-khổ như vậy.

Vínhư có người quán sát lao ngục giam nhốt, gông xiềng làrất khổ. Cũng vậy, Đại-Bồ-Tát quán sát năm loài chúngsanh đều là oán-tằng-hội-hiệp rất khổ sở.

Vínhư có người thường sợ kẻ oán thù, gông cùm, xiềng xích,nên bỏ cha mẹ, vợ con, quyến thuộc, cùng của báu sản nghiệpmà trốn lánh đi xa. Cũng vậy, Đại-Bồ-Tát sợ sanh tử,nên tu hành sáu môn Ba-La-Mật, chứng nhập Niết- Bàn. Đâygọi là Bồ-Tát tu hành Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sátoán-tằng-hội khổ.

NầyThiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát tu hành Đại-thừaĐại-Niết- Bàn quán sát cầu-bất-đắc khổ ?

Cầulà mong cầu tất cả , có hai thứ : Một là cầu pháp lành,hai là cầu pháp chẳng lành. Cầu pháp lành mà chưa đặngthời khổ, pháp ác muốn rời mà chưa rời được thời khổ.

Đâylà lược nói ngũ- ấm-thạnh khổ. Đây gọi là khổ đế.

Ca-diếpBồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Như lời Phật nói, ngũấm thạnh khổ nghĩa đó chẳng phải. Vì như ngày trướcPhật bảo Thích-Ma-Nam : Nếu sắc là khổ, tất cả chúng sanhlẻ ra chẳng nên cầu sắc, nếu có người cầu thời chẳnggọi là khổ. Lại như Phật bảo các Tỳ-kheo thọ có ba thứ: Khổ thọ, lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ. Lại như lúctrước đức Phật nói với các Tỳ-kheo : Nếu người nàocó thể tu hành pháp lành thời đặng thọ lạc. Lại như đứcPhật nói : Ở trong đường lành sáu căn lãnh thọ sáu cảnhvui : Mắt thấy sắc đẹp là vui, tai, mũi, lưỡi, thân nhẫnđến ý suy nghĩ pháp lành cũng như vậy.

NhưPhật từng nói kệ :

Trìgiới thời là vui, Thân chẳng thọ sự khổ. Ngủnghỉ đặng an ổn, Thức dậy lòng vui vẻ. Lúc nhậnlấy y thực, Đọc tụng và kinh hành, Ở riêng nơinúi rừng, Như vậy là rất vui. Nếu đối với chúngsanh, Ngày đêm tu lòng từ, Nhơn đây được thườngvui, Vì chẳng hại người khác. Ít muốn biết đủ vui, Học rộng biết nhiều vui, A-La-Hán không chấp, Cũnggọi là thọ vui, Các vị Đại Bồ-Tát, rốt ráođến bờ kia. Những việc làm đã xong, Đây gọilà rất vui.

Thế-Tôn! Trong các bộ kinh nói về tướng vui ý nghĩa như vậy. Thếnào tương ứng với nghĩa của Phật nói hôm nay ?

Phậtbảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Lành thay ! Lành thay ! Ông khéocó thề thưa hỏi đức Như-Lai những nghĩa như vậy.

NầyThiện-nam-tử ! Tất cả chúng sanh đối với sự khổ hạnghạ tưởng lầm là vui. Vì thế nên nay ta nói tướng khổkhông khác với ngày trước đã nói.

Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : “ Như lời Phật hỏi : Đối vớisự khổ hạng hạ tưởng cho là vui, thời sanh, lão, bệnh,tử hạng hạ cùng ái-biệt-ly, cầu-bất-đắc, oán- tằng-hội,ngũ-ấm-thạnh hạng hạ, những sự khổ như vậy lẽ ra cũngnên có vui.

Thế-Tôn! Sanh hạng hạ là ba ác thú, sanh hạng trung là loài người,sanh hạng thượng là trên trời.

Nếulại có người hỏi rằng : Nếu ở nơi sự vui hạng hạ tưởngcho là khổ, trong sự vui hạng trung tưởng cho là không khổkhông vui. Trong sự vui hạng thượng tưởng cho là vui, thờiphải trả lời thế nào ?

Thế-Tôn! Nếu trong sự khổ hạng hạ tưởng cho là vui, chưa thấycó người nào sẽ bị phạt đánh ngàn trượng, lúc mới đánhmột trượng đầu mà đã tưởng là vui. Nếu lúc đánhtrượng đầu chẳng tưởng là vui, thế sao nói rằng : Nơitrong sự khổ hạng hạ mà tưởng cho là vui ?”

Phậtbảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Phải lắm ! Phải lắm ! Đúng nhưlời ông nói. Do nghĩa nầy nên không có tưởng là vui, vìnhư người tội kia sẽ bị phạt đánh ngàn trượng, khi bịđánh một trượng rồi liền đặng tha. Người nầy bèn sanhlòng vui. Vì thế nên biết rằng trong sự không vui lầm tưởnglà vui.”

Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : Thế-Tôn ! Người đó chẳng vì bị đánhmột trượng mà sanh vui. Chính vì đặng tha mà sanh lòngvui.

_ NầyThiện-nam-tử ! Vì thế nên ta ngày trước nói với Thích-Ma-Namtrong ngũ ấm có vui, lời đó là đúng, thiệt chẳng phảimâu thuẩn vậy.

NầyThiện-nam-tử ! Có ba thọ và ba khổ. Ba thọ là : Lạc thọ,khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. Ba khổ là : Khổ-khổ,hành khổ, hoại khổ.

NầyT.hiện-nam-tử ! Khổ thọ chính là cả ba món khổ : Khổ-khổ,hành khổ và hoại khổ. Hai món thọ kia chính là hành khổvà hoại khổ. Do đây nên trong sanh tử thiệt có lạc thọ.Đại-Bồ-Tát thấy tánh khổ cùng tánh lạc chẳng rời lìanhau nên nói rằng tất cả đều khổ.

NầyThiện-nam-tử ! Trong sanh tử thiệt không có vui, vì chư Phật Bồ-Tát tùy thuận thế gian nên nói là có vui.

Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Chư Phật và Bồ-Tát nếutùy theo thế tục mà nói, thời là có hư vọng chăng ? NhưPhật thường nói, người tu hành pháp lành thời thọ quảbáo vui. Trì giới an vui thân chẳng thọ khổ, nhẫn đến việclàm đã xong đây là rất vui. Lời nói thọ vui trong các kinhnhư vậy, chừng có hư vọng chăng . Nếu là hư vọng, thờichư Phật Thế-tôn trong vô lượng trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ-kiếptu hành đạo bồ-đề đã lìa vọng ngữ. Nay Phật nói nhưvậy ý nghĩa thế nào ?

_ NầyThiện-nam-tử ! Như bài kệ nói về những sự thọ lạc trướckia chính là cội gốc của đạo Bồ-Đề, cũng có thể trưởng-dưỡngvô thượng bồ-đề. Do nghĩa đó nên trong những kinh trướcnói tướng vui như vậy.

Vínhư trong thế gian những đồ cần dùng cho đời sống, cóthể làm nhơn cho sự vui, nên gọi là vui. Như nữ sắc, rượuuống, đồ ăn ngon, lúc khát được nước, lúc lạnh đượclửa, y phục, chuỗi ngọc, voi ngựa, xe cộ, tôi tớ, vàng,bạc, lưu ly, san hô, chơn châu, kho đựng lúa gạo, những vậtnhư vậy người đời cần dùng có thể làm nhơn cho sự vuinên gọi là vui.

NầyThiện-nam-tử ! Những vật như vậy cũng có thể sanh sự khổ.Nhơn nơi nữ sắc sanh sự khổ, lo, rầu, buồn, khóc nhẫnđến phải chết cho người nam. Nhơn nơi rượu, đồ ăn ngon,nhẫn đến lúa gạo cũng có thể làm cho người phải lo khổnhiều. Do nghĩa đó nên tất cả đều khổ không có tướngrốt ráo vui.

NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát nơi tám điều khổ nầy, hiểurỏ là khổ nên không bị khổ.

NầyThiện-nam-tử ! Tất cả hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác chẳng biếtnhơn của sự vui, nên Phật vì họ ở trong sự khổ hạnghạ nói có tướng vui. Chỉ có Bồ- Tát trụ nơi Đại-ThừaĐại-Niết-Bàn bèn có thể biết nhơn của sự khổ sự vuinầy.

NầyThiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát trụ nơi Đại-ThừaĐại-Niết- Bàn quán sát tập đế ? Đại-Bồ-Tát quán sáttập đế là nhơn duyên ngũ ấm. Tập nghĩa là trở lại ái-luyếnnơi hữu. Ái có hai thứ : Một là ái thân mình, hai là áiđồ cần dùng. Lại có hai thứ : Năm thứ dục lạc, lúc chưađặng tâm luôn tìm cầu, đã tìm cầu đặng rồi luôn đắmtrước. Lại có ba thứ : dục ái, sắc ái, vô sắc ái. Lạicó ba thứ : Nghiệp nhơn duyên ái, phiền não nhơn duyên ái,khổ nhơn duyên ái. Người xuất gia có bốn thứ ái : Y phục,đồ ăn uống, đồ nằm, thuốc thang. Lại có năm thứ : Thamlam nơi ngũ ấm, tùy chỗ cần dùng tất cả đều tham ái toantính phân biệt vô-lượng vô-biên.

NầyThiện-nam-tử ! Ái có hai thứ : Một là thiện ái, hai là bấtthiện ái. Chỉ người ngu tìm cầu bất thiện ái. Cácvị Bồ-Tát cầu nơi thiện-ái. Thiện ái lại có hai thứ: Bất thiện và thiện. Cầu pháp Nhị-thừa gọi là bất thiện.Cầu pháp Đại- thừa gọi là thiện.

NầyThiện-nam-tử ! Kẻ phàm phu tham ái gọi là “ tập” chẳnggọi là “đế”. Sự ái của Bồ-Tát thời gọi là thậtđế chẳng gọi là tập, vì Bồ-Tát muốn độ chúng sanh nênthị hiện thọ sanh, chẳng phải vì tham ái mà thọ sanh.

Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : Thế-Tôn ! Như trong các kinh khác đứcPhật vì chúng sanh mà nói nghiệp làm nhơn duyên, hoặc nóikiêu mạn, hoặc nói lục xúc, hoặc nói vô minh làm nhơn duyênmà có ngũ ấm xí-thạnh. Hôm nay do nghĩa gì đức Phậtnói bốn Thánh-Đế riêng lấy ái làm nhơn cho ngũ ấm.

Phậtkhen Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Lành thay ! Lành thay ! Đúng như lờiông vừa nói, các nhơn duyên chẳng phải làm cũng chẳng phảinhơn, chỉ vì năm ấm cần phải nhơn nơi ái.

Vínhư quốc vương lúc đi tuần du các quan quyến thuộc thảyđều theo hầu. Cũng vậy, ái đi đến chỗ nào thời các kiếtsử cũng đi theo.

Vínhư y phục thấm mồ hôi, bụi bay đến liền bám dính. Cũngvậy, chỗ nào có ái những nghiệp kiết cũng ở nơi đó.

Vínhư đất ướt thời có thể mọc mầm. Cũng vậy, ái có thểsanh tất cả mầm nghiệp phiền não.

NầyThiện-nam-tử ! Đại Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bànquán sát kỹ ái nầy có chín thứ : Một là như thiếu nợ,hai là như vợ La-Sát, ba là như trong cọng hoa đẹp có rắnđộc vấn , bốn là như vật thực độc mà cố ăn đó, nămlà như dâm nữ, sáu là như hột ma-lâu-ca, bảy là như thịtthúi trong mụn nhọt, tám là như gió bão, chín là như sao chổi.

Nhưthiếu nợ là thế nào ! Ví như người nghèo cùng thiếu tiềncủa người khác, dầu đã trả nợ mà vẫn còn thiếu, nênbị giam nhốt chưa ra khỏi ngục. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giácvì còn tập khí thừa của ái nên chẳng chứng đặng vô thượngbồ-đề.

Nhưvợ La-Sát là thế nào ? Ví như có người lấy gái La-Sátlàm vợ, gái La- Sát nầy hễ sanh con liền ăn thịt, ăn thịtcon đẻ hết lại ăn luôn thịt chồng. Ái cũng vậy, tùy ngườisanh thiện căn nó liền ăn, ăn hết thiện căn nó lại ănluôn cả người làm cho phải đọa địa ngục, súc sanh ngãquỉ. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.

Nhưcọng hoa đẹp có rắn độc vấn là thế nào ? Như có ngườithích hoa đẹp mà chẳng thấy cọng hoa có rắn độc, liềnđến ngắt hoa bị rắn cắn chết. Tất cả phàm phu tham đắmngũ dục mà chẳng thấy độc hại của ái, nên bị ái làmhại, sau khi chết đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ các vịBồ-Tát.

Vậtthực độc mà cố ăn là thế nào ? Như có người cố ănvật thực độc, ăn xong đau bụng thổ tả mà chết. Chúngsanh trong ngũ đạo vì tham ái mà phải bị đọa trong ba đườngác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.

Nhưdâm nữ là thế nào ? Ngư người ngu tư thông với dâm nữ,dâm nữ nầy thường dối phĩnh gạt đoạt hết tiền củarồi xua đuổi người ấy. Người ngu không có trí tuệ bịtham ái đoạt tất cả pháp lành rồi xua đuổi vào trong bađường ác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.

Nhưhột ma-lâu-ca là thế nào ? Nếu chim ăn hột ma-lâu-ca, phẩnchim do gió thổi rớt dưới cây liền mọc lên đeo vấn câyto làm cho khô chết, tham ái ràng buộc phàm phu làm cho pháplành không tăng trưởng nhẫn đến khô diệt, sau khi chếtđọa vào ba đường ác. Chỉ trừ các vị đại Bồ-Tát.

Thịtthúi trong mụn nhọt như thế nào ? Như người bị ung nhọt,trong nhọt sanh thịt thúi, người bịnh nầy phải chuyên tâmchạy chữa, nếu chểnh mãng thời thịt thúi sanh trùng cóthể phải chết, ngũ ấm của phàm phu cũng như vậy, ái sanhtrong đó, phải nên siêng năng điều trị tham ái, nếu khôngđiều trị sẽ phải đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ cácvị Bồ-Tát.

Nhưgió bão là thế nào ? Gió bão có thể làm lở núi ngãcây. Cũng vậy, tham ái sanh tâm ác đối với cha mẹ,có thể làm ngã trốc cội cây vô thượng Bồ- Đề của cácông Đại-Trí Xa-Lợi-Phất vân vân. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.

Nhưsao chổi là thế nào ? Như sao chổi mọc thời trong thiênhạ phải bịnh tật, đói kém, họa tai khổ sở. Cũng vậy,ái có thể dứt tất cả căn lành làm cho phàm phu cơ cùngthiếu thốn sanh bịnh phiền não lưu chuyển trong sanh tử mangnhiều sự khổ. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.

NầyThiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát Đại-Thừa trụ nơi Đại-Niết-Bànquán sát tham ái có chín thứ như vậy.

Donghĩa trên đây, hàng phàm phu có khổ, không đế. Hàng Thanh-VănDuyên- Giác có khổ đế mà không chơn thật. Các vị Bồ-Táthiểu khổ không có khổ mà có chơn đế. Hàng phàm phu cótập không có đế. Hàng Thanh-Văn Duyên- Giác có tập có tậpđế. Các vị Bồ-Tát hiểu tập không có tập mà có chơnđế. Hàng Thanh- Văn Duyên-Giác có diệt mà chẳng phải chơn.Đại-Bồ-Tát có diệt có chơn đế. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giáccó đạo mà chẳng phải chơn. Đại Bồ-Tát có đạo có chơnđế.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567