Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 3: Chúng Đệ Tử

10/10/201015:00(Xem: 3361)
Chương 3: Chúng Đệ Tử

Chương 3
CHÚNG ĐỆ TỬ
[1]

Lúc bấy giờ,Duy-ma-cật trong lòng suy nghĩ, «Nay ta nằm bệnh; không lẽ đức Thế Tôn đại từchẳng đoái tưởng đến?»

Phật biết ýtưởng đó, nói với Xá-lợi-phất:

«Ông hãy đithăm bịnh Duy-ma-cật.»

Xá-lợi-phấtđáp:

«Bạch ThếTôn, con không đủ năng lực để đi thăm bệnh ông ấy. Vì sao vậy? Con nhớ lại, cólần, con đang ngồi tĩnh niệm[2] dưới tàn cây trong rừng,[3] Duy-ma-cật đến đó,và bảo con rằng,[4] ‹Kính thưa[5] ngài Xá-lợi-phất, bất tất[6] ngồi như vậy mớilà ngồi tĩnh niệm. Hiện thân và ý[7] mà không ở trong ba cõi, ấy mới là tĩnhtọa. Hiện các oai nghi[8] mà vẫn không xuất khỏi diệt tận định,[9] ấy mới làtĩnh tọa. Hiện thân làm các việc phàm phu[10] mà không xả Đạo pháp,[11] ấy mớilà tĩnh tọa. Tâm không trụ trong, không trụ ngoài, ấy mới là tĩnh tọa. Tu hànhba mươi bảy phẩm[12] mà không làm dao động các kiến chấp,[13] ấy mới là tĩnhtọa. Nhập Niết bàn mà không đoạn trừ phiền não,[14] ấy mới là tĩnh tọa. Ngồiđược như vậy, thì mới được Phật ấn khả.›

«Bấy giờ,bạch đức Thế Tôn, khi nghe ông nói những lời này, con ngồi im lặng, không trảlời được. Cho nên con chưa đủ năng lực để thăm viếng.»

Phật nói vớiĐại Mục-kiền-liên:

«Ông hãy đithăm bệnh Duy-ma-cật.»

Mục-kiền-liênbạch Phật:

«Bạch ThếTôn, con không đủ năng lực để đi thăm bệnh ông ấy. Vì sao vậy? Con nhớ lại, cólần, khi con đang giảng Pháp cho hàng tục gia đệ tử trên đường phố thànhTỳ-da-li, Duy-ma-cật đến bảo con rằng,[15] «Kính thưa ngài Đại Mục-liên, giảngPháp cho cư sĩ bạch y không phải như Nhân giả đang thuyết. Thưa ngài, khithuyết pháp, hãy như pháp mà thuyết. Pháp không chúng sinh, vì xa lìa cáu bẩncủa chúng sinh.[16] Pháp không thọ mạng,[17] vì xa lìa sinh tử. Pháp không cócon người,[18] vì tiền tế và hậu tế[19] đều cắt đứt. Pháp thường tịch nhiên, vìdiệt các tướng. Pháp lìa ngoài tướng, vì không sở duyên.[20] Pháp không ngônthuyết,[21] vì lìa giác quán.[22] Pháp không hình tướng, vì như hư không.[23]Pháp không hý luận vì rốt ráo không. Pháp không ngã sở, vì lìa ngã sở. Phápkhông phân biệt, vì lìa các thức. Pháp không so sánh, vì không tương đãi.[24]Pháp không thuộc nhân vì không ở trong duyên. Pháp đồng Pháp tánh, vì nhập vàocác pháp.[25] Pháp tuỳ theo Như vì không có gì để theo. Pháp trụ thực tế, vìkhông động các biên.[26] Pháp không động dao, vì không y sáu trần. Pháp khôngđến đi vì thường không trụ. Pháp thuận với Không, tùy theo vô tướng và ứng vớivô tác.[27] Pháp lìa đẹp xấu. Pháp không tăng giảm. Pháp không sinh diệt. Phápkhông chỗ về. Pháp vượt qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm.[28] Pháp khôngcao thấp; thường trụ, bất động. Pháp lìa hết thảy quán hạnh.[29]

«‹Kính thưangài Mục-liên, tướng của Pháp như vậy, làm sao diễn giảng? Thưa ngài, ngườithuyết pháp thì không diễn thuyết, không khai thị. Người nghe thì không nghe,không sở đắc. Như con người huyễn[30] giảng pháp cho người huyễn nghe. Ngài nênxác lập tâm ý này mà giảng Pháp. Cần phải hiểu rõ căn tánh nhạy bén hay u mê củachúng sinh. Bằng tâm đại bi mà tán dương Đại thừa; vì nhớ nghĩ báo đáp ân đứccủa Phật, không để Tam bảo đoạn tuyệt. Vì như vậy mà thuyết pháp.›

«NgheDuy-ma-cật nói pháp này xong, tám trăm cư sĩ đã phát tâm cầu giác ngộ tốithượng. Bạch Thế Tôn, con không có biện tài như vậy, nên không đủ khả năng thămbệnh.»

Phật nói vớiMa-ha Ca-diếp:

«Ông hãy đithăm bịnh Duy-ma-cật.»

Ma-ha Ca-diếpbạch Phật:

«Bạch ThếTôn, con không đủ năng lực để đi thăm bệnh ông ấy. Vì sao vậy? Nhớ lại, có lầncon đang khất thực nơi xóm nghèo, Duy-ma-cật đến nói: ‹Kính thưa ngài Ma-haCa-diếp, có tâm từ bi mà không rộng khắp, nên ngài bỏ nhà hào phú mà xin nhàbần hàn.

« Thưa ngàiCa-diếp,[31] an trụ nơi pháp bình đẳng thì nên hành khất thực theo thứ lớp. Vìsự không ăn,[32] cho nên cần phải hành khất thực. Vì để làm rã sự kết hợp[33]mà cầm lấy đồ ăn vo nắm.[34] Vì không thọ nhận[35] mà nhận lấy thực phẩm củangười kia. Bằng ấn tượng về xóm hoang[36] mà đi vào xóm. Nhìn sắc mà cũng đồngnhư mù. Nghe âm thanh cũng đồng như tiếng vọng. Ngửi mùi thơm cũng đồng như gióthoảng. Nếm thức ăn, mà không phân biệt. Tiếp thọ các xúc như trí chứng.[37]Biết vạn hữu đều như huyễn tướng, không có tự tánh, chẳng có tha tánh; từ xưavốn không bốc cháy thì nay không dập tắt.[38]

«Thưa ngàiCa-diếp, nếu có thể thành tựu tám pháp giải thoát mà không cần lìa tám tà;[39]bằng tà tướng mà nhập Chánh pháp; bằng một miếng ăn[40] mà bố thí tất cả; cùngchư Phật và Hiền Thánh Tăng. Cho đến được vậy mới nên ăn. Ăn như vậy không phảicó phiền não[41] cũng không lìa phiền não, không nhập định ý[42] cũng khôngxuất định ý; không phải trụ thế gian cũng không phải trụ Niết-bàn. Ai thí cho,công đức không nhiều cũng không ít. Vật thí không tốt cũng không hại. Đó làcách chân chánh đi vào Phật đạo, không nương dựa vào tiểu đạo của Thanh-văn.Thưa Ca-diếp, ăn như vậy mới là không ăn suông của người bố thí.›

«Bạch ThếTôn, khi nghe những lời này, được điều chưa từng có này, trong con khởi niềmtôn kính sâu sắc hết thảy chư Bồ tát, và con nghĩ: ‹Con người có gia đình mà cóthể có trí tuệ biện tài như vậy, ai nghe mà không khởi tâm cầu giác ngộ?› Từ đócon thôi không khuyên người bằng Thanh-văn hay Bích-chi-phật. Vì vậy cho nêncon biết mình không đủ năng lực đi thăm bệnh.»

Phật lại bảoTu-bồ-đề:[43]

«Ông hãy đithăm bịnh Duy-ma-cật.»

Tu-bồ-đề bạchPhật:

«Bạch ThếTôn, con không đủ năng lực để đi thăm bệnh ông ấy. Vì sao vậy? Nhớ lại, có lầncon đến nhà ông khất thực. Duy-ma-cật lấy bát[44] của con cho đầy cơm rồi bảo:‹Thưa ngài Tu-bồ-đề, nếu đối với sự ăn mà bình đẳng, thì đối với các pháp cũngbình đẳng. Các pháp bình đẳng thì đối với sự ăn cũng bình đẳng. Hành khất thựcnhư vậy mới đáng nhận thức ăn.[45]

«Thưa ngàiTu-bồ-đề, nếu có thể không cần dứt đoạn dâm dục, sân nộ, ngu si , mà cũng khôngcâu hữu với chúng; không hoại nơi thân mà tùy nhất tướng;[46] không diệt si vàái[47] mà đạt được minh và giải thoát;[48] bằng tướng của năm tội đạinghịch[49] mà được giải thoát nhưng cũng không được cởi, không bị trói; khôngthấy bốn Thánh đế, cũng không phải không thấy Thánh đế;[50] không phải đắc quả,không phải phàm phu, không phải lìa pháp phàm phu; không phải Thánh nhân, khôngphải không là Thánh nhân; tuy thành tựu hết thảy pháp mà vẫn xa lìa pháptướng.[51] Có như thế mới đáng nhận thức ăn.

«Thưa ngàiTu-bồ-đề, nếu không thấy Phật cũng không nghe Pháp;[52] sáu đại sư ngoại đạokia, là Phú-lan-na Ca-diệp, Mạt-già-lê Câu-xa-lê Tử, San-xà-dạ Tỳ-la-chi Tử,A-kỳ-đa Sí-xá-khâm-bà-la , và Ni-kiền-đà Nhã-đề Tử,[53] là Thầy của ngài; nhânhọ mà ngài xuất gia. Nếu các vị Thầy ấy đọa lạc thì ngài cũng đọa lạc theo. Nhưvậy ngài mới nên nhận thức ăn.

«Nếu Tu-bồ-đềđi vào các tà kiến, không sang bờ bên kia;[54] trụ trong tám nạn chứ khôngthoát khỏi tám nạn;[55] đồng với phiền não,[56] xa rời pháp thanh tịnh; nếu ngàichứng đắc Vô tránh tam-muội[57] thì hết thảy chúng sinh cũng chứng đắc định ấy;những ai bố thí ngài, không nói là gieo vào ruộng phước; những ai cúng dườngngài sẽ rơi vào cõi dữ; ngài cùng bọn Ma năm tay nhau làm bạn lữ trong trầnlao;[58] ngài cùng với bọn Ma và các trần lao giống nhau không khác;[59] đốivới hết thảy chúng sinh mà có tâm oán hận; báng bổ chư Phật, hủy hoại chanhpháp, không nhập tăng số, không được diệt độ.[60] Nếu được như vậy, ngài mớiđáng nhận thức ăn.

«Bạch ThưaThế Tôn, nghe những lời này mà con hoang mang; không biết đó là ngôn ngữ gì;không biết phải trả lời thế nào. Con bèn bỏ lại bình bát, định ra khỏi nhà.Duy-ma-cật kêu lại: ‹Thưa ngài Tu-bồ-đề, hãy nhận lấy bình bát, chớ có sợ hãi.Ngài nghĩ sao, nếu Như Lai khiến một người hoá[61] đến nạn vấn, khi ấy ngài cósợ chăng?› Con đáp, ‹Không sợ.› Duy-ma-cật tiếp, ‹Hết thảy pháp đều là tướngnhư huyễn hoá.[62] Cho nên ở đây ngài không nên sợ hãi. Vì sao? Vì văn tự vàngôn thuyết đều không xa lìa tướng ấy. Cho đến, bậc trí không dính mắc văn tựvà ngôn thuyết, vì vậy chẳng có gì để sợ. Tại sao? Tại vì văn tự và ngôn thuyếtkhông có tự tánh, đó là giải thoát. Tướng của giải thoát, đó là các pháp.›

«KhiDuy-ma-cật nói xong Pháp này, hai trăm người con của chư thiên chứng được sự minhtịnh của Pháp nhãn. Vì thế con biết mình chưa đủ năng lực đến thăm ông.»

Phật lại bảoPhú-lâu-na Di-đa-la-ni-tử:[63]

«Ông hãy đithăm bịnh Duy-ma-cật.»

Phú-lâu-nathưa với Phật:

«Bạch ThếTôn, con không đủ năng lực đến thăm bệnh ông ấy. Là vì, một hôm, trong rừng Đạilâm,[64] con đang thuyết Pháp cho một nhóm tì kheo mới thọ giới, Duy-ma-cậtchợt đến và nói: ‹Thưa ngài Phú-lâu-na, trước tiên ngài nên nhập định để thấurõ tâm tánh người nghe rồi mới nên giảng Pháp. Chớ để đồ ôi thiu trong chénquí. Ngài nên hiểu rõ tâm niệm[65] của các tỳ kheo này chứ đừng nhầm lẫn pha lêvới thủy tinh. Nếu ngài chưa rõ căn nguyên của chúng sinh thì đừng nên phátkhởi chúng bằng pháp Tiểu thừa. Kia chưa bị lở lói, chớ làm họ trầy xước. Vớingười muốn đi trên đường, đừng chỉ họ lối hẹp. Đừng rót biển cả trong dấu lõmchân trâu. Đừng ví ánh mặt trời với sắc màu đom đóm.[66]

«‹Phú-lâu-na,các tì kheo này đã phát tâm Đại thừa từ lâu nhưng nửa chừng quên mất. Sao ngàilại hướng dẫn họ bằng pháp Tiểu thừa? Trí của Tiểu thừa nông cạn, như người mù,không thể tỏ tường nguồn cội của chúng sinh.›

«Liền đó,Duy-ma-cật nhập đại định khiến các tì kheo nhớ lại kiếp trước của họ đã từnggặp năm trăm vị Phật, đã gieo trồng bao phước đức để hồi hướng cho phát nguyệncầu giác ngộ tối thượng của họ; khiến họ thức tỉnh và lập tức phục hồi tâmnguyện trong quá khứ. Họ liền cúi đầu đảnh lễ Duy-ma-cật, nghe ông thuyết giáo,và tiếp tục tầm cầu giác ngộ tối thượng, không còn thối chuyển.

«Con nghĩhàng Thanh-văn chưa quán sát rõ căn tánh của người nghe Pháp[67] thì không nênthuyết Pháp. Nên con thấy mình chưa đủ năng lực đến thăm bịnh ông.»

Phật bảoMa-ha Ca-chiên-diên:[68]

«Ông hãy đithăm bịnh Duy-ma-cật.»

Ma-haCa-chiên-diên thưa:

«Bạch đức ThếTôn, con không đủ năng lực đến thăm bệnh ông ấy. Vì có lần, sau khi Phật giảngcác yếu nghĩa của Pháp cho các tỳ kheo, con đã theo đó giải thích cho các tìkheo nghĩa vô thường, nghĩa khổ, nghĩa không, nghĩa vô ngã, và nghĩa tịch diệt.

«Bấy giờDuy-ma-cật đi dến và bảo con rằng: ‹Thưa ngài Ma-ha Ca-chiên-diên, đừng lấy tâmhành sinh diệt mà giải nghĩa pháp thật tướng. Ma-ha Ca-chiên-diên, các pháp rốtráo không sinh không diệt;[69] đó là nghĩa vô thường. Ngũ thủ uẩn rỗng suốt,trống không, không có gì sinh khởi; là nghĩa của khổ. Các pháp rốt ráo không,không có gì; là nghĩa của vô. Ngã và vô ngã không hai; là nghĩa vô ngã. Cácpháp nguyên lai không bùng cháy, nay chẳng có gì là dập tắt; đó là nghĩa tịchdiệt.»

«Duy-ma-cậtnói xong, các tì kheo hiện diện tâm được giải thoát. Cho nên con thấy mình chưađủ năng lực đến thăm bịnh ông.»

Phật bèn nói vớiA-na-luật :[70]

«Ông hãy đithăm bịnh Duy-ma-cật.»

A-na-luậtthưa:

«Bạch ThếTôn, con không đủ năng lực đến thăm bệnh ông ấy. Vì có lần con đang đi kinhhành,[71] một Phạm vương tên là Nghiêm Tịnh, cùng mười ngàn chư thiên hào quangchiếu rọi, đến gặp con, cúi chào và hỏi: ‹Thiên nhãn của ngài nhìn xa đến đâu?›Con đáp: ‹Thưa Nhân giả, tôi nhìn thấy ba nghìn đại thiên quốc độ của PhậtThích-ca-mâu-ni như trái am-ma-lặc[72] trong lòng bàn tay.› Khi ấy Duy-ma-cậtxuất hiện, nói rằng: ‹Thưa ngài A-na-luật, cái thấy bằng thiên nhãn của ngài làcó tướng trạng hay không có tướng trạng?[73] Giả sử có tướng trạng, thì chẳnghơn hàng ngoại đạo đã tập thành năm phép thần thông. Nếu không có tướng trạng,thì đó là vô vi, không có sự thấy.›

«Bạch ThếTôn, lúc ấy con lặng thinh không trả lời được. Các Phạm thiên khi nghe nhữngđiều chưa từng nghe, liền làm lễ rồi cung kính hỏi: ‹Vậy trên thế gian này aicó chân thiên nhãn?› Ông đáp: ‹Phật Thế Tôn có chân thiên nhãn, vì thường trụtrong tam-muội,[74] nhìn thấy hết thảy cõi Phật không do bởi hai tướng.›[75]

«Ngay lúc ấy,Phạm vương Nghiêm Tịnh và năm trăm chư thiên quyến thuộc đã phát tâm vô thượngchánh đẳng chánh giác. Họ cung kính đảnh lễ dưới chân Duy-ma-cật rồi biến mất.Đó là lý do con nói mình chưa đủ năng lực để thăm bịnh ông ta.»

Phật bảoƯu-ba-li:[76]

«Ông hãy đithăm bịnh Duy-ma-cật.»

Ưu-ba-lithưa:

«Bạch ThếTôn, con không đủ năng lực đến thăm bệnh ông ấy. Vì sao? Con nhớ lại, xưa kiacó hai tì kheo phạm giới, xấu hỗ không dám đến hỏi Phật, đến nói với con: ‹Thưangài Ưu-ba-li, chúng tôi đã phạm luật và rất hỗ thẹn vì tội này, không dám đếnhỏi Phật, xin hỏi ông cách sám hối để giũ sạch tội lỗi.› Con bèn theo như phápmà giảng giải cho họ.

«Lúc ấyDuy-ma-cật đến nói với con: ‹Thưa ngài Ưu-ba-li, đừng làm nặng thêm tội của haitỳ kheo này mà hãy ngay thẳng trừ diệt. Chớ làm rối loạn tâm của họ. Vì sao? Vìbản chất tội không ở trong không ở ngoài,[77] cũng không ở giữa. Như Phật đãdạy, chúng sinh cáu bẩn vì tâm cáu bẩn; nếu tâm trong sạch, hết thảy đều trongsạch. Tâm cũng không ở trong không ở ngoài, không ở giữa. Tâm như nhiên, tộicũng như nhiên. Các pháp cũng như nhiên, không vượt ngoài Như. Như ngàiƯu-ba-li, nếu tâm tướng[78] đã giải thoát, còn có gì cáu bẩn chăng?› Con đáp:‹Không còn.› Ông ấy nói: ‹Cũng vậy, tâm tướng của chúng sinh thảy đều vô cấu,cùng như vậy. Thưa ngài Ưu-ba-li, vọng tưởng là cáu bẩn; không vọng tưởng làthanh tịnh.[79] Điên đảo là cáu bẩn; không còn điên đảo là thanh tịnh. Chấp ngãlà cáu bẩn; không chấp ngã là thanh tịnh. Ưu-ba-li, hết thảy pháp khởi và diệtkhông đình trú, như ảo ảnh như tia chớp. Các pháp không đối đãi nhau,[80] khôngđình trú trong mỗi tâm niệm. Chúng đến từ những quan niệm sai lầm, như chiêmbao, như quáng nắng, như trăng trong đáy nước, như bóng trong gương, vì chúngsinh ra từ vọng tưởng. Hiểu được như vậy là người phụng trì giới luật. Hiểu nhưvậy là hiểu biêt thiện xảo.[81]›

«Ngay lúc ấy,hai vị tì kheo thán phục: ‹Siêu việt thay trí tuệ, mà ngài Ưu-ba-li không thểsánh bằng. Tuy là bậc trì luật đệ nhất cũng không thể nói được như vậy› Con mớinói: ‹[82]Duy trừ Phật ra, chưa từng có một Thanh-văn hay Bồ tát nào vượt hơnbiện tài vô ngại[83] của người này vì trí tuệ minh đạt của ông thù thắng nhưvây.›

«Hai vị tìkheo nhờ đó đã dứt đoạn nghi tình và hối hận, phát tâm cầu giác ngộ tối thượngvà lập nguyện cho hết thảy chúng sinh đều được biện tài như vậy. Cho nên con đủkhả năng đến thăm bịnh ông ấy.»

Phật bèn nói vớiLa-hầu-la:[84]
«Ông hãy đi thămbịnh Duy-ma-cật.»

La-hầu-lathưa:

«Bạch ThếTôn, con không đủ năng lực đến thăm ông ấy. Vì nhớ lại, có lần con trai nhàtrưởng giả thành Tỳ-da-li[85] đến gặp con, cúi chào và hỏi: ‹La-hầu-la, ông làcon của Phật, đã bỏ ngôi vị Chuyển luân vương mà xuất gia học đạo. Xuất gia nhưvậy được lợi ích gì?› Con bèn như pháp mà nói các lợi ích của công đức xuấtgia, Duy-ma-cật bỗng đến, nói: ‹Thưa ngài La-hầu-la, ông chớ nên nói về các lợiích lợi ích của công đức xuất gia. Vì sao? Vì không lợi ích, không công đức; đólà xuất gia. Chỉ pháp hữu vi mới nói đến lợi ích và công đức. Xuất gia là phápvô vi. Trong pháp vô vi, không có lợi ích, không có công đức. La-hầu-la, xuấtgia là vượt khỏi cái sự chỗ này, chỗ kia, hay ở giữa; là vượt khỏi sáu mươi haikiến chấp,[86] an trú Niết-bàn,[87] được người trí lãnh thọ, là lối đi của bậcThánh thực, hàng phục các ma, thoát ngoài năm đạo, thanh tịnh năm con mắt,thành tựu năm lực, tạo lập năm căn, không gây não hại cho đời, xa lìa mọi điềuxấu, đẩy lui Ngoại đạo, siêu việt giả danh tự, ra khỏi vũng sình,[88] không bịràng buộc, không ngã sở; không có gì để chấp thủ, không bị nhiễu loạn, nội tâmhoan hỷ, hộ trì tâm ý kẻ khác,[89] tùy thuận thiền định,[90] và thoát khỏi mọisai lầm. Làm được như vậy mới là đích thực xuất gia.›

«Đoạn,Duy-ma-cật nói với những người con của các trưởng giả: ‹Các chú nên xuất giatrong Chánh Pháp. Vì sao? Vì không dễ gì được sống cùng thời với Phật.› Cácngười này nói: ‹Thưa Cư sĩ tôn kính, chúng tôi có nghe Phật dạy, nếu cha mẹchưa cho phép thì con không được xuất gia.› Duy-ma-cật bảo: ‹Đúng vậy. Nhưngkhi phát tâm cầu giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác, là các chú đã xuấtgia.›

«Bấy giờ, bamươi hai người con của các trưởng giả đã phát tâm vô thượng chánh đẳng chánhgiác. Vì vậy con chưa đủ năng lực đến thăm bịnh ông ấy.»

Phật bèn bảoA-nan:

«Ông hãy đithăm bịnh Duy-ma-cật.»

A-nannói:

«Bạch ThếTôn, con không đủ năng lực đến thăm bịnh ông ấy. Vì nhớ lại, có lần khi thânThế Tôn có chút bịnh, cần sữa bò, con lấy bát đến đứng trước cửa nhà ngườiBà-la-môn. Khi ấy Duy-ma-cật đi đến, bảo con rằng: ‹Thưa ngài A-nan, có chuyệngì mà cầm bát đứng đây sớm thế?› Con đáp: ‹Cư sỹ, đức Thế Tôn thân có chútbịnh, cần sữa bò, vì vậy tôi mới đứng đây.› Duy-ma-cật chặn lại: ‹Thôi im đi,ngài A-nan. Chớ nói những lời như vậy. Thân Như Lai là thể kim cương. Mọi điềuxấu đã bị đoạn trừ; mọi điều thiên hội đủ. Làm gì có bệnh? Làm gì có não? Ngàihãy im lặng mà đi. Chớ phỉ báng Như Lai. Đừng để người khác nghe được lời thô tháođó. Chớ để chư thiên có uy đức và Bồ tát đến từ các quốc độ thanh tịnh nghethấy. Thưa ngài A-nan, Chuyển luân thánh vương mới chỉ tích góp vài công đứcnhỏ đã không còn bịnh não. Huống chi Như Lai đã hội đủ vô lượng phước đức thùthắng đức lại còn bịnh sao? Hãy đi đi, thưa ngài A-nan, đừng làm xấu hết cảchúng tôi. Nếu người Bà-la-môn ngoại đạo nghe lời này, họ sẽ nghĩ: ‹Sao đánggọi là Tôn Sư? Người này cứu được ai khi ông chưa cứu nổi thân mình?› Hãy âmthầm mà đi nhanh đi, đừng để ai nghe lời ngài nói. A-nan, nên biết, thân NhưLai là Pháp thân, không đến từ tâm tưởng và dục vọng. Phật là đức Thế Tôn, thânNgài vượt ngoài ba cõi. Thân Phật là vô lậu, vì các lậu đã dứt sạch. Thân Phậtlà vô vi, không thể gọi tên.[91] Thân như vậy làm sao có bịnh?›

«Bạch ThếTôn, nghe ông nói, con ngập tràn hỗ thẹn, tự hỏi phải chăng con tuy gần Phậtnhưng đã nghe nhầm chăng? Nhưng lúc ấy, con nghe một tiếng nói từ không trungvọng xuống: ‹A-nan, Cư sĩ nói đúng, nhưng vì Phật hiện thân trong đời năm trượcác, hiện hành pháp này để cứu độ chúng sinh. A-nan, cứ đi xin sữa, chớ hỗthẹn.›

«Bạch ThếTôn, trí tuệ và tài biện thuyết của Duy-ma-cật như vậy, con quả thật không đủkhả năng đến thăm bịnh ông.»

Như vậy nămtrăm đại đệ tử của Phật đều kể lại những cuộc gặp bất ngờ của họ vớiDuy-ma-cật, đều nói không đủ khả năng đến thăm bịnh ông.

[10] DMC:phàm phu sự 凡夫事. VCX: dị sanh chưpháp 異生諸法 (Skt. pṛthagjana-dharmā).

[11] VCX.:«Hiện hành các pháp của hết thảy dị sanh (phàm phu) mà không xả những gì đãchứng.»

[12] Phẩm 品, chỉ Đạo phẩm. VCX,: bồ-đề phần pháp 菩提分法, chỉ các pháp hỗ trợ tuệ trí, Skt. bodhipākṣika-dharma .

[13] Chư kiến 諸見 ; CDM, Triệu nói: đólà chỉ 62 vọng kiến. VCX.: nhất thiết kiến thú 一切見趣 (Skt. sarva-dṛṣṭi-gata), đây chỉ 5 kiến chấp: thân kiến, biên kiến, kiến thủkiến, giới thủ kiến, tà kiến.

[14] VCX:«Không xả sinh tử mà không còn phiền não. Tuy chứng Niết-bàn mà vô sở trụ.»

[15] Xemchth. 4 trên.

[16] DMC:chúng sinh cấu 眾生垢, Thập nói: «Tức làhai mươi thân kiến (Skt. satkāyadṛṣṭi: tát-ca-da tà kiến = hữu thân kiến). VCX:ngã cấu 我垢. VCS: cáu bẩn do ngãchấp hay của ngã chấp

[17] DMC: thọmạng 壽命; VCX: mạng giả 命者, Skt. jīva, một khái niệm khác về ātman (ngã chấp, tự ngã haylinh hồn) trong một số học thuyết; tự ngã như là chủ thể của thọ mạng hay sinhtồn.

[18] DMC:nhân 人. VCX: bổ-đặc-già-la 補特伽羅, Skt. pudgala (nhâncách, nhân vị, cá thể ngã), một khái niệm về ātman của một số học thuyết; Hándịch là số thủ thú 數取趣, chỉ chủ thể của luânhồi, tự ngã như là chủ thể trong luân chuyển tái sinh. Từ trên, bản của HuyềnTrang đề cập bốn hình thái của ngã chấp (ātma-graha) hay khái niệm về tự ngã(ātma-dṛṣṭi): ngã (ātman), hữutình (= chúng sinh, Skt. sattva), sinh mạng (jīva) và nhân vị hay nhân cách(pudgala). Bản La-thập chỉ kể có ba: chúng sinh, thọ mạng và con người.

[19] Tiềntế 前際, hay bản tế 本際 (Skt. pūrvakoṭi), biên tế tối sơ; hậu tế 後際 (Skt. paścima-koṭi), biên tế tối hâu.Chỉ giới hạn khởi điểm và tận cùng của thời gian.

[20] VCX:«Pháp lìa tham trước (chấp), vì không sở duyên.» Sở duyên 所緣, Skt. ālambana, cái mà chủ thể (thức) bám vàođể sinh khởi và hoạt động.

[21] VCX:«Pháp không văn tự, vì ngôn ngữ bị cắt đứt.»

[22] Giácquán 覺觀, Triệu nói: «NhịThiền trở lên không còn giác và quán, nên nói là sự im lặng của Hiền Thánh.»Theo đó, giác quán là hai thiền chi đầu của sơ thiền; cũng là hai trong bốn tâmsở bất định của Duy thức; Skt. vitarka-vicāra, tầm và tứ 尋伺.

[23] VCX:«Pháp không thí thuyết (thí dụ và ngôn thuyết) vì xa lìa hết thảy tư duy sóngcuộn (ba lãng tư 波浪思, Skt. taraṅga-cintā?). Pháp phổbiến tất cả vì như hư không. Pháp không hiển hiện, không tướng, không hình, vìxa lìa hết thảy hành động sự.» Bản La-thập lược một số chi tiết.

[24] Tươngđãi 相待: quan hệ hỗ tương.

[25] VCX:«Pháp đồng pháp giới, vì thể nhập hết thảy chân pháp giới.»

[26] VCX: tấtcánh bất động , Skt.. atyantācala (rốt ráo hay tuyệt đối không dao động), bảnLa-thập đọc là antācala.

[27] Ba giảithoát môn : Không, Vô tướng, Vô tác (=Vô nguyện). Skt., trayo vimokṣāḥ, śūnyatā animittaḥ apraṇihitaḥ. VCX: «Pháp thuậnKhông, tùy Vô tướng, ứng Vô nguyện, vì xa lìa hết thảy tư duy tăng giảm.»

[28] VCX:«Pháp không chấp tàng (Skt. nir-ālaya, phi a-lại-da), vì lìa hết thảy conđường của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.»

[29] VCX:«Pháp lìa hết thảy sở hành của phân biệt, vì hết thảy hý luận đều bị rốt ráođoạn trừ.»

[30] Huyễnsĩ 幻士, Skt. māya-puruṣa.

[31] VCX: Tôngiả Ca-diếp-ba.

[32] Bấtthực 不食; Triệu nói: đây chỉNiết-bàn. Cf. Trường A-hàm 8, kinh Chúng tập (T.1, tr. 49c19), «Hết thảy chúngsinh đều do thức ăn mà tồn tại.» Cf. Saṅgīti, D.iii. 211: sabbe sattā āhāra-tiṭṭhitikā.

[33] DMC:hoại hoà hiệp tướng 壞和合相.

[34] DMC:đoàn thực 揣食, thức ăn được vòthành viên, tức thực phẩm vật chất; Skt. kavalīkāra āhāra. CDM, Triệu nói: «Votròn (đoàn) là vật được hoà hiêp. Hoại hoà hiệp, tức phá hoại sự hoà hiệp củanăm uẩn. Sự phá hoại năm uẩn tức là Niết-bàn.» VCX: «Vì để hoại thực chấp 食執 của người kia nên hành khất thực.» VCS: «Bản dịch cũ nói hoàhiệp tướng, tức chỉ thực chấp.»

[35] Bất thọ 不受;Triệu nói: «Bất thọ, tức là pháp Niết-bàn.»

[36] DMC:không tụ tưởng 空聚想. VCX: không tụ tướng 空聚相。

[37] Tríchứng 智證, La-thập: «Bằng trímà xúc thật tướng.» Đạo Sinh nói: «Trong tiếng Phạn, xúc và trí chứng đối nghĩanhau.»

[38] DMC: bảnbất nhiên 本不然. CDM, Triệu nói: «Nhưlửa, không cháy thì không tắt.» VCX: vô xí nhiên , vô tịch diệt 無熾燃無寂滅.

[39] Tám tà,tức tám tà đạo, đối nghịch với tám chánh đạo.

[40] DMC:nhất thực 一食. VCX: nhất đoàn thực 一揣食 (một nắm thức ăn)

[41] VCX: tạpnhiễm 雜染, Skt. saṃkleśa. Khuy Cơ nói,cựu dịch «phiền não» không chính xác.

[42] DMC:định ý 定意; VCX: tĩnh định 靜定.

[43] DMC:Tu-bồ-đề 須菩提. VCX: Đại ThiệnHiện 大善現. VCS: Ma-ha Tô-bổ-để, đây nói là Đại Thiện Hiện 摩訶蘇補底此云大善現. Skt.(Mahā)Subhūti.

[44] VCX: «Saukhi lễ, rồi đón lấy bình bát.»

[45] VCX:«Nếu, có thể bằng tính bình đẳng từ nơi sự ăn, mà thể nhập tính bình đẳng củahết thảy pháp; bằng tính bình đẳng của hết thảy pháp mà thể nhập tính bình đẳngcủa hết thảy chư Phật. Được như vậy mới đáng nhận thức ăn.»

[46] VCX:«Không hoại tát-ca-da kiến mà nhập nhất thú đạo.» Khuy Cơ giải: Tát-ca-dakiến 薩迦耶見 (Skt. satkāya-dṛṣṭi) là ngụy thân kiến(chấp thân hư nguỵ này là thực hữu). Lý vô ngã được nói là nhất thú 一趣 (Skt. ekagati: định hướng duy nhất; hoặc ekayāna, lối đi độcnhất). Vì đó là đích quay về của hành giả trong cả ba thừa.

[47] DMC: sivà ái 癡愛. VCX: vô minh và hữu ái 無明有愛, Skt.. avidyā và bhava-tṛṣṇā.

[48] DMC:minh thoát 明脫. VCX: tuệ minh vàgiải thoát. Minh, chỉ ba minh (tisro vidyāḥ). Giải thoát, chỉ tám giải thoát (aṣṭau vimokṣāḥ).

[49] DMC: ngũnghịch 五逆, năm tội đại nghịch, hay vô gián nghiệp. Skt. pañcaānantarya-karmāṇi. VCX: vô gián bình đẳng pháp tính 無間平等 法性 (Skt.anantarya-samadharmatā). Khuy Cơ giải: vô gián ở đây chỉ địa ngục vô gián, nêuchỗ cực khổ để đối nghịch đại lạc là Niết-bàn.

[50] Kiếnđế 見諦 (Skt. satya-darśana),đây chỉ sự chứng đắc Thánh quả, đặc biệt Sơ quả.

[51] DMC:pháp tướng . Skt. dharma-lakṣaṇa. VCX. pháp tưởng . Skt. dharma-saṃjñā.

[52] VCX:thêm: «không phụng sự Tăng.»

[53] DMC: lụcsư ngoại đạo 外道六師: Phú-lan-na Ca-diệp 富蘭那迦葉, Mạt-già-lê Câu-xa-lê Tử 末伽梨拘賒梨子, San-xà-dạ Tỳ-la-chi Tử 刪闍夜毘 羅胝子, A-kỳ-đa Sí-xá-khâm-bà-la 阿 耆 多翅 舍 欽 婆 羅 , Ca-la-cu-đà Ca-chiên-diên 迦羅鳩馱迦旃延 và Ni-kiền-đà Nhã-đềTử 尼犍陀若提子. VCX, Ngoại đạo lụcsư 外道六師: Mãn Ca-diếp-ba 滿迦葉波, Mạt-tát-yết-liCù-xá-li Tử 末薩羯離瞿舍離子, Tưởng Phệ-đaTử 想吠多子, Vô Thắng Phát Hạt 無勝髮褐, Phong Ca-diễn-na 犎迦衍那, Ly hệ thânTử 離繫親子. Skt.. Pūraṇa-Kāśyapa, Maskarī-Gosālīputra, Sañjayī-Vairaṭīputra,Ajita-Keśakambala, Kakuda-Kātyāyana, Nirgrantha-Jñātiputra. Pali, Cf.Sāmañña-phala-sutta, D.i. 47tt.

[54] VCX:«Rơi vào các kiến thú (Skt. dṛṣṭigati: xu hướng kiến chấp tà vạy) mà không đi đến trung biên(Skt. madhyānta: trung đạo và hai biên chấp hay cực đoan).

[55] VCX: bátvô hạ 八無暇 , tám hoàn cảnh khôngthuận lợi cho sự tu tập chánh pháp. Skt. aṣṭāv akǎaṇāḥ; Cf. Pali, Saṅgīti, D.iii. 287, aṭṭh’ akkhaṇā asamayābrahmacariya-vāsāya.

[56] DMC:phiền não 煩惱; VCX: tạp nhiễm 雜染, Skt. saṃkleśa.

[57] Vô tránhtam-muội/định, Skt. araṇā-samādhi; cf. Câu-xá 27 (T.29, tr.141c24): «Nói vô tránh tammuôi, nghĩa là, A-la-hán quán sát sự khổ của chúng sinh do bởi phiên não. Tựbiết thân của mình là ruộng phước bậc nhất, nhưng ngại rằng phiền não của ngườikhác lấy thân của A-la-hán làm đối tượng để sinh khởi, cho nên ngài dẫn pháttướng trí như vậy. Do phương tiện này khiến cho các chúng sinh khác không lấythân của A-la-hán làm đối tượng để sinh khởi tham, sân, các thứ….» Cf.Vajracchedikā §9: aham asmi bhagavaṃs tathāgatenārhatā samyaksaṃbuddhena araṇāvihāriṇām agrayo nirdiṣṭaḥ, Thế Tôn, con đượcNhư Lai xác nhận là đệ nhất trong các vị sống với hạnh vô tránh. Cf. Pali, A.i.24: etad aggaṃ bhikkhave mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ araṇavihārīnaṃ yadidaṃ subhūti… dakkhineyyānaṃ yadidaṃ subhūti, «Trong cácTỳ-kheo đệ tử của ta, đệ nhất trong những vị sông vô tránh là Subhūti; đệ nhấttrong những vị đáng cúng dường là Subhūti.»

[58] DMC: laolữ 勞侶. VCX: bạn lữ 伴侶. VCS: «Cựu dịch là lao lữ; ý nói, làm bầu bạn để đưa nhau vàochốn khổ nhọc của sinh tử.»

[59] VCXthêm: «Tự tính của hết thảy phiền não cũng chính là tự tính của Tôn giả.»

[60] VCX;«Rốt ráo không có Bát-niết-bàn.»

[61] Hoánhân 化人, Skt. nirmitaka,người hay vật được biên hoá ra do pháp thuật hay ảo thuật.

[62] VCX:«Tánh tướng của các pháp đều như huyễn hoá (Skt. māyā-nirmita-sadśṭa).

[63] DMC:Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử 富樓那彌多羅尼子; VCX: Mãn Từ Tử 滿慈子. Skt., Pūrṇa-Maitrāyaṇi-putra.

[64] Xemchth. 3 ở trên.

[65] DMC: tâmchi sở niệm. VCX: ý lạc, xu hướng và sở thích; Skt. āśaya.

[66] VCXthêm: «Đừng nhét Diệu cao (núi Tu-di) vào trong hạt cải. Đừng nhầm tiếng gầmcủa sư tử với tiếng tru của chó sói.»

[67] VCXthêm¨«Vì họ không thưòng xuyên tại định như Phật.»

[68] Ma-haCa-chiên-diên 摩訶迦旃延. VCX: Ma-haCa-đa-diễn-na 摩訶迦多衍那. VCS: Hán dịch là ĐạiTiễn Thế Nam大剪剃男 (Con trai người thợ cạo). Skt. Mahā-Kātyāyana.

[69] VCX:«không phải đã sinh, đang sinh, sẽ sinh; không phải đã diệt, đang diệt, sẽdiệt.»

[70] DMC:A-na-luật 阿那律; VCX: Đại VôDiệt 大無滅. Skt. Aniruddha.

[71] VCX:«trong Đại lâm.»

[72]Am-ma-lặc quả 菴摩勒果; VCX: a-ma-lạc quả 阿摩洛果 . Triệu (Đại 38, tr.354c20) nói: «… hình dáng như quả cau. Ănvào, trừ phong lãnh.» Skt. āmalaka, dịch là dư cam tử 餘甘子 (Mahāvyutpatti).

[73] DMC: táctướng 作相; VCX: hànhtướng 行相 Skt. ākāra (hìnhtrạng, biểu hiện).

[74] VCX:không xả tịch định 不捨寂定

[75] VCX: nhịtướng 二相, chủng chủng tướng 種種相; hình thái nhị nguyên đối đãi, và hình thái đa thù sai biệt.Skt. dvayākāra, nānākāra.

[76] CDM,Triệu nói, «Ưu-ba-li 優波離, tiên Tần nói là ThượngThủ 上首. Trì luật đệ nhất trong các đệ tử Phật.» VCS: «Ưu-ba-li,đây nói là Cận Chấp 近執 . Khi Phật còn làThái tử, …Ông là quan giữ kho.»

[77] VCX:«không an trụ bên trong, cũng không xuất hiện ra ngoài.»

[78] DMC: tâmtướng 心相, VCX: tâm bản tịnh 心本淨.

[79] VCX: «Cóphân biệt, có dị phân biệt, là phiền não.»

[80] DMC:tương đãi 相待 ; VCX: tương cốđãi 相顧待, quan hệ, chiếu cốlẫn nhau. Skt. āpekṣika.

[81] DMC:thiện giải 善解; (Skt. suvimukta).VCX: thiện điều phục 善調伏 (khéo tự chế ngự);Skt. suvinita.

[82] VCX cóthêm: «Các Thầy chớ nghĩ tưởng vị này là Cư sỹ.»

[83] Nhạothuyết biện tài 樂說之辯, khả năng biện luậnlưu loát. Skt. pratibhāna-pratisaṃvid.

[84] DM:La-hầu-la 羅睺羅; VCX: La-hỗ-la 羅怙羅. Skt. (=Pali) Rāhula.

[85] DMC:Tì-da-li chư trưởng giả tử 毘耶離諸長者子 ; VCX: Các công tửdòng họ Licchavī 諸童子離呫毘種.

[86] DMC: lụcthập nhị kiến 六十二見, Xem Trường A-hàm 14,kinh Phạm động (Đại 1, tr. 88), Cf. D.1 Brahmajāla. VCS (Đại 38, tr.1055a17):«Các kiến chấp, ở đây bao gồm cả năm kiến, trong khi Cựu dịch nêu 62 kiến chỉthuộc biên kiến, nghĩa rất hạn hẹp.»

[87] VCX:«(xuất gia) là con đường Niết-bàn.»

[88] VCX:«vũng sình dục vọng.»

[89] CDM,Thập nói: «tùy thuận chúng sinh, không trái nghịch tâm tư của chúng.»

[90] VCX:«tùy thuận tịch chỉ, cần tu thắng quán.» Tức tu chỉ và quán (Skt.śamatha-vipaśyana).

[91] DMC: bấtđoạ chư số 不墮諸數. Skt. na saṃkhyāṃ gacchati VCX: «ThânPhật là vô vi, lìa các hữu vi; vượt qua các số, vì các số vĩnh viễn tĩnh lặng.»CDM (Đại 38, tr.360a15): Triệu nói, «…số, tức hữu số 有數 (số loại hữu vi).» VCS (Đại 38, tr.1056c17): «… số, tức sinh số生數 (= số loại thọ sinh).»

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567