Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sự quan trọng của chánh niệm - Kinh Đại Niệm Xứ

31/01/201218:02(Xem: 10948)
Sự quan trọng của chánh niệm - Kinh Đại Niệm Xứ

kinhdainiemxu_1SỰ QUAN TRỌNG CỦA CHÁNH NIỆM
KINH ĐẠI NIỆM XỨ

Thiền Sư U Silananda
Nita Truitner dịch Việt


Vài lời của người dịch

Từ lâu tôi luôn nghĩ rằng thực hành thiền Minh Sát là hành Chánh Niệm. Kinh nghiệm hành thiền và học thiền của tôi rất giới hạn gồm có thiền Minh Sát theo truyền thống của Ngài Mahasi Sayadaw,(Thiền sư U Pandita, Thiền Sư Khippapanno). Gần đây tôi có được cơ hội học được phương pháp Niệm Cảm Thọ của Thiền Sư Cư sĩ S.N. Goenka. Duyên may đưa đến năm nay tôi được đi học thiền "Niệm Tâm" ở thiền viện của Cố Hòa ThượngThiền Sư Shwe Oo Min, Miến Điện.

Tuy còn sơ cơ về pháp hành, tôi nhận xét tất cả những gì mà tôi thu thập được trong những phương pháp hành thiền kể trên, tôi nghĩ rằng, tất cả đều là thực hành chánh niệm và phương pháp hành thiền là theo trong kinh Tứ Niệm Xứ. Mỗi một Thiền sư danh tiếng tự chọn cho mình một "chuyên môn" theo kết quả kinh nghiệm cá nhân, nhưng chung quy vẫn là thiền Tứ Niệm Xứ hay Thiền Minh Sát, hay Vipassana. Hiện nay danh từ Vipassana thường dùng để chỉ thiền Minh Sát, hay Tứ Niệm Xứ, rất phổ thôngtrong cộng đồng tu thiền.

Tôi rất muốn diễn đạt sự hiểu biếtít nhiều về lý thuyết cũng như thực hành thiền, cho vài đạo hữu mới vào họcthiền, nhưng không biết làm cách nào để diễn tả giáo lý và thực hành một cáchrõ ràng minh bạch và gần với sự thực. May mắn thay, mới đây tôi mới có dịp đọc một quyển sách nhỏ tựa đề là "The Importance of Mindfulness", phía dưới đề là "The Mahasatipatthana Sutta" của Hòa Thượng Thiền sư USilananda viết, tôi vô cùng hoan hỉ vì sự giảng giải ngắn gọn nhưng rõ ràngminh bạch về nghĩa lý hàm chứa trong Kinh, rất gần với như sự hiểu biết và nhận xét của tôi về lý thuyết cũng như về thực hành thiền Minh Sát.

Trong tập sách nhỏ ấy, Hòa ThượngThiền Sư kết luận rằng, hành thiền Tứ Niệm Xứ tức là hành Chánh Niệm. Một điều tôi muốn được ghi nhận ở đây khi Thiền Sư nói rằng "thiền Minh Sát có thể đạt đến hai loại diệt trừ phiền não đó là sự diệt trừ từng chập và sự diệt trừ tạm thời, nhưng thiền Minh sát không thể đạt được sự diệt trừ thứ ba đó là sự diệt trừ phiền não toàn diện." (trang 23 bản tiếng Anh) Thoạt đầu tôi không hiểu rõ hàm ý câu nói trên, vì nếu thiền Minh Sát không đạt được sự diệt trừ phiền não toàn diện thì phương pháp nào hiệu quả hơn để giúp hành giả diệt trừ phiền não toàn diện và chứng ngộ Niết Bàn? Phải chăng đó là sự liên tục và tích cực thực hành chánh niệm đến một mức độ nào đó khi trí tuệ tột cùng phát sanh tâm đạo lấy Niết Bàn làm đối tượng?

Một điểm quan trọng khác mà tôi muốn ghi nhận ở đây là Thiền Sư U Silananda nói rằng (trang 19 trong bản tiếng Anh)chữ si - "moha" trong tiếng Pali, không được nói đến ở đây vì si(moha) rất khó để ngăn ngừa và diệt trừ. Tuy nhiên có thể moha được hàm chứa.Trong trang cuối quyển sách nhỏ nầy, Thiền Sư U Silananda đã hàm ý nói đến si(moha), khi Ngài nói đến thực hành thiền Vipassana. Khi thực hành thiềnVipassana, hành giả sẽ được phát sanh trí tuệ để thấy rõ tam tướng vô thường,khổ, vô ngã. Si (moha) mê có nghĩa là sự thiếu trí tuệ, thiếu chánh kiến, đểthấy rõ tam tướng vô thường, khổ, vô ngã. Mục đích của thiền Vipassana là đểphát sanh trí tưệ, khi trí tuệ phát sanh thì si mê tiêu diệt, cũng như khi cóánh sáng thì bóng tối biến mất. Tuy không nói nhiều về Vipassana trong quyểnsách nhỏ nầy, thiền Sư U Silananda đã viết và giảng rất nhiều về thiềnVipassana trong những khóa tu thiền.

Để giải thích sự diệt trừ phiền nãotoàn diện, những thiền sư hiện đại phải "giới thiệu" danh từVipassana một danh từ vừa có nghĩa minh sát (hay trí tuệ), vừa để giải thích vìsao hành thiền Tứ Niệm Xứ để tận diệt ba phiền não: tham, sân và si, và là"con đường duy nhứt... " theo như phần đầu trong kinh đã khẳng định.

Chúng ta phải hiểu rằng kinh Phậtdạy chỉ là một "chỉ nam", một "dàn bài," chớ không phải mộtbài giảng chi tiết cho một phương pháp. Thí dụ Thiền Sư U Silananda có nói rằngtrong đoạn nói về tâm định một yếu tố quan trọng trong ngủ căn, tâm định mặc dùkhông có được nêu lên trong kinh Đại Niệm Xứ, nhưng ta phải hiểu rằng tâm địnhđược hàm chứa, vì nếu không có tâm định thì ta sẽ không có tỉnh giác vân vân... Ngài cho thí dụ một người thợ săn nai chỉ thấy dấu chân nai rõ ràng ở haibên của tảng đá, người săn nai phải kết luận rằng con nai phải chạy ngang quatảng đá.

Nếu không giải thích rõ ràng, thiềnsinh sẽ dễ ngộ nhận cho rằng thiền Tứ Niệm Xứ và thiền Vipassana là hai phươngpháp hành thiền khác nhau.

Thay vì tự vặn óc để viết lên sựhiểu biết của tôi về chánh niệm là pháp hành thiền minh sát, tôi phát tâm hoanhỉ tự nguyện sẽ cố gắng dịch tập sách nhỏ nầy ra tiếng Việt để chia xẻ với bàcon mới vào học thiền. Tuy là quyển sách nhỏ, nhưng nó rất căn bản và là mộtkim chỉ nam cho những ai mới bắt đầu học thiền và hành thiền và cũng rất lợiích cho cả những thiền sinh kinh nghiệm.

NitaTruitner
Minnesota, Mùa Thu sang Đông 2003

Đoạnmở đầu của Kinh Đại Niệm Xứ

"Nầy Chư Tỳ Khưu, đây là conđường độc nhứt đưa đến sự thanh lọc cho chúng sanh, vượt khỏi sự sầu não, diệttrừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết Bàn, đó là Tứ Niệm Xứ.

Thế nào là bốn?

Nầy Chư Tỳ Khưu, ở đây vị Tỳ Khưusống quán thân trên thân, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ởđời.

Vị Tỳ Khưu sống quán thọ trên thọ,tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

Vị Tỳ Khưu sống quán tâm trên tâm,tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

Vị Tỳ Khưu sống quán pháp trên pháp, tinh cần, tỉnh giác,chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời".

Đoạn trên trích ra từ một trongnhững bài kinh của Đức Phật tựa là: "Bốn lãnh vực quán niệm"; theoPhạn ngữ Pali, kinh nầy gọi là "Mahasatipatthana Sutta" ( Đại NiệmXứ).

Tuy là đoạn mở đầu, đoạn kinh nầy đãtóm tắt cốt tủy của toàn bài kinh.

Chính Đức Phật đã thực hành và côngnhận rằng có sự lợi ích sẽ đem lại cho hành giả. Sau đó Ngài khuyến khích cácthầy Tỳ Khưu và các đệ tử của Ngài thực hành pháp môn Tứ Niệm Xứ, và trong suốt45 năm truyền bá giáo pháp, Đức Phật luôn luôn đề cập dẫn chứng và nhấn mạnhtầm quan trọng của kinh Tứ Niệm Xứ.

Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn nhữngphương pháp thực hành được góp nhặt và ghi chép lại trong tạng kinh Pali.

Những ai thực hành Tứ Niệm Xứ haythiền Minh sát phải hiểu một cách rõ ràng và đúng đắn đoạn kinh nầy. Thực vậy,tất cả những bài giảng dạy, chỉ dẫn hành thiền tại các khóa thiền Vipassana đềucăn cứ từ kinh Đại Niệm Xứ. Cho nên để được gặt hái trọn vẹn sự lợi ích, cácthiền sinh thực hành thiền Minh Sát nên đọc và hiểu rõ ràng và thấu triệt bàikinh quan trọng nầy.

Đềmục của bốn lãnh vực quán niệm

Theo kinh, có bốn lãnh vực quán niệm,và bốn đề mục của sự quán niệm như sau:

1) Thân

Danh từ "Thân" trong kinhTứ Niệm Xứ không chỉ có nghĩa là toàn thể tấm thân vật chất mà còn có nghĩa chỉmột nhóm của nhũng phần thuộc về vật chất. Nó bao gồm những phần khác nhau củathân thể hay tất cả những gì liên quan đế thân thể vật chất. Thí dụ hơi thởcũng gọi là thân.

2) Cảm thọ

"Cảm thọ" là gì? Cảm thọlà một tâm sở (trạng thái của tâm.) Có ba thứ cảm thọ - lạc thọ, khổ thọ và thọvô ký. Lấy sự đau nhức làm thí dụ. Ta kinh nghiệm sự đau nhức vật chất bằng cáitâm của ta. Cho nên khi có đau nhức, thì trạng thái tâm là có cảm giác sự đaunhức. Khi Đức Phật dạy rằng "thầy Tỳ Khưu quán thọ trên thọ" có nghĩarằng thầy Tỳ Khưu đang quán cái trạng thái tâm trên cảm thọ đó. Cho nên, trong thựctập chánh niệm, khi ta kinh nghiệm sự đau nhức vật chất, ta phải hay biết rằngđó là trạng thái tâm cảm nhận sự đau nhức trên thân.

3) Thức (hay tâm)

Tiếng Pali của thức là"citta". Thường thì tiếng Pali được dịch là "tâm". Nhưng Sưnghĩ chữ "thức" mới là chữ dịch nghĩa đúng hơn là chữ tâm. Chú ý làdù dùng chữ "thức" dịch từ danh từ "citta", nó vẫn khôngphải là chữ dịch thật đúng của "citta". "Thức" được địnhnghĩa sự hay biết một đề mục. Chỉ khi nào có sự hay biết một đề mục, thì mới cóthể có được sự xúc chạm với đề mục đó, cảm thọ đề mục, thích đề mục, khôngthích đề mục vân vân.. . Vậy những nhóm tâm sở nầy phụ thuộc vào thức, nhưngchúng cũng là phần tử của tâm.

Nhiều khi có sự lầm lẫn xảy ra giữahai danh từ "tâm" và "thức". Trong Vi Diệu Pháp, tâm gồm cóbốn nhóm tâm, gồm có thức, và ba nhóm tâm khác.

Như định nghĩa trên, thức là sự haybiết một vật. Ở đây sự hay biết không phải giống như sự hay biết trong khi thựchành thiền. Nó chỉ là một sự hay biết suông. Thí dụ như tôi đang hay biết cómột người nào ở đó mặc dầu tôi đang nhìn nơi nầy. Sự hay biết đó gọi là"thức". Ít ra, nó được gọi như vậy trong Vi diệu pháp. Một thí dụkhác là khi ta hành thiền và ta ghi nhận "khổ, khổ", ta có một cáithức đi cùng cái khổ. Cũng có thể là sự quán niệm trên cái thức. Khi ta niệm"giận, giận", ta cũng đang quán trên cái hay biết.

Còn tâm sở thì có tâm xúc, thọ,tưởng, chú tâm, thích, không thích vân vân.. Theo Vi diệu pháp, có tất cả nămmươi hai tâm sở, và chúng được gồm trong ba nhóm chánh - thọ, tưởng, và hành.

4) Pháp

Chữ "dhamma", là một trongnhững danh từ trong tiếng Pali khó dịch nhứt vì nó không thể nào được dịch ramột ngôn ngữ khác một cách thích hợp và đúng nghĩa. Danh từ nầy có nghĩa khácnhau trong mỗi trường hợp. Nơi đây Sư xin giới thiệu danh từ "đối tượng củapháp".

Nếu bạn quán niệm hay chú tâm vào sựgiận, đó là bạn đang quán pháp. Ở đây chữ pháp không có nghĩa giáo pháp haygiáo lý của Đức Phật. Cũng vậy nếu bạn thấy vật gì và bạn chánh niệm về cáithấy, đó là bạn đang niệm pháp. Đây chữ Pháp chỉ những pháp như những phápchướng ngại, ngũ uẩn, mười xứ, thất giác chi, hay tứ diệu đế. Như thế quán niệmđối tượng của pháp rất sâu rộng.. Chúng được gọi là Dhamma (Pháp) trong bàikinh nầy. Vì thế đó cho nên cứ dùng danh từ dhamma (pháp) hơn là dịch ra tiếng khácđể tránh sự lầm lẫn.

Không thể dịch danh từ dhamma chỉbằng một chữ sang tiếng Anh. Nếu bạn làm như vậy, bạn sẽ sai. Chữ dhamma hayđược dich là đối tượng tâm (mind object) hay sự vật thuộc về tâm (mentalobject). nhưng cách dịch nầy không được chính xác. Nếu dịch nó là "đốitượng tâm", và ta cho nó nghĩa là "tâm là đề mục", thì còn nhữngđối tượng không phải là tâm thì sao? Nếu ta dịch nó là sự vật thuộc về tâm, thìthật ra tất mọi sự vật đều là đối tượng hay sự vật của tâm. Thân vật chất cũnglà đối tượng của tâm. Vì ta không dịch được danh từ nầy một cách chính xác vàthích hợp, tốt hơn hết là cứ dùng từ tiếng Pali không dịch.

Ýnghĩa của câu "con đường độc nhứt" - "ekayano"

Trong phần bằng tiếng Pali, kinh bắtđầu bằng chữ "ekayano", con đường độc nhứt. Chữ tiếng Pali gồm có haiphần: "eka" và "ayana". "eka" nghĩa là "một"và ayana nghĩa là cách, con đường hay lối đi. Như thế "ekayano"nghĩa đen là "một con đường". Do đó từ ngữ "một con đường"có thể diễn đạt nghĩa của con đường không có lối rẻ hay chi nhánh. Vậy chỉ cómột con đường và nếu bạn dấn bước trên con đường nầy thì bạn chắc chắn sẽ đếnđích. Không có sự lầm lẫn sai lệch trên đại lộ nầy.

Một cách diễn đạt khác của"ekayano" - "con đường độc nhứt" - là chỉ mình ta đi, nghĩalà, con đường của mỗi cá nhân chọn lựa để đi một mình. Có nghĩa là khi đã chọnđi trên con đường nầy, bạn đi một mình đơn độc, bạn không có bạn đồng hành đichung. Bạn dù có tiến bộ hay không tiến bộ đều do khả năng riêng của bạn.

Còn có cách diễn dịch thứ ba củadanh từ "Ekayano" là: "Con đường của một Bực Độc Nhứt". Bực"độc nhứt ở đây chỉ Đức Phật. Đức Phật là bậc toàn mỹ toàn thiện cho nênNgài được gọi là "Bậc Độc Nhứt". Vì Ngài là người đã khám phá ra vàtruyền dạy Tứ Niệm Xứ cho nên Thiền Tứ Niệm Xứ được gọi là "Con đường củaBậc Độc Nhứt".

"Đây là con đường độcnhứt"

Câu đầu trong kinh được dịch là:"Nầy các thầy Tỳ khưu, đây là con đường độc nhứt đưa đến sự thanh lọc(tâm) chúng sanh ... đó là Tứ Niệm Xứ.

Như vậy chính ngay phần đầu của kinhĐức Phật đã nhấn mạnh "Đây là con đường độc nhứt". Có nghĩa là TứNiệm Xứ được nhấn mạnh là một con đường đưa đến sự thanh lọc (tâm) chúng sanh.Nhưng có câu hỏi là những chi của Bát chánh Đạo cũng là con đường đưa đến sựthanh lọc tâm chúng sanh? Xin thưa rằng những chi trong Bát Chánh Đạo khônghiện diện nếu không có Chánh Niệm. Cho nên khi Chánh Niệm được nêu lên thì bảychi đi cùng với Bát Chánh Đạo cũng được nêu lên.

Cócon đường nào khác không?

Những người Tây Phương thường đặtcâu hỏi "Tại sao Đức Phật nói rằng : Đây là con đường độc nhứt? Còn có conđường nào khác đưa đến sự thanh lọc tâm chúng sanh?" Họ tranh cãi rằng cónhiều con đường khác mà ta có thể đi để đến một khu xóm hay thành phố. Cũng thếấy, nếu có nhiều con đường để đưa đến một thành phố, thì tất nhiên phải cónhiều con đường khác nhau để chúng sanh có thể theo để thanh lọc tâm hay đưađến Niết Bàn.

Bạn nên nhớ là có nhiều khi sự sosánh không hoàn toàn thích hợp hay đúng đắn. Đúng vậy, có nhiều con đường đểdẫn đến một khu xóm hay thành phố. Hay là ta nói rằng con đường lộ là mộtphương tiện duy nhứt để ta đi đến một thành phố. Như thế, mặc dù có nhiều đườnglộ dẫn đến một khu xóm, nhưng những phương tiện đó cũng vẫn là đường lộ.

Cùng thế ấy mặc dú có nhiều phươngpháp khác nhau để thực hành chánh niệm, nhưng rốt ráo thì những phương pháp đóvẫn là phương pháp thực hành chánh niệm. Chỉ có chánh niệm mới có thể đưa tađến sự chứng ngộ Niết Bàn.

Ta biết rằng ta cần tập thể thao đểlàm các bắp thịt được săn cứng và nở nang. Như vậy, nếu bạn muốn cho các bắpthịt được mạnh chắc, bạn phải tập thể thao. Nhưng tập thể thao cũng có nhiềuphương cách khác nhau ví dụ như tập tạ, hay dùng các máy móc vân vân.. Cùng thếấy, chỉ có chánh niệm mới đưa chúng sanh đến sự chứng ngộ Niết Bàn, nhưng Chánhniệm có thể được thực hành dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong kinh Niệm Xứ,Đức Phật dạy rằng chánh niệm được thực hành theo 21 cách khác nhau. Có 21 cáchđể thực hành chánh niệm mà ta có thể chọn. Nhưng dù bạn chọn cách nào, chungquy cũng vẫn là thực hành chánh niệm, đó mới là điều quan trọng vì chỉ bằngchánh niệm tâm ta mới được sự thanh lọc.

Chánhniệm là sự bảo vệ tâm

Chánh niệm cũng giống như người hộvệ. Khi nào người hộ vệ bị dời đi, thì những cửa của giác quan sẽ không đượcbảo vệ. Như thế, chỉ khi nào có chánh niệm hiện diện ở các giác quan thì tâm tamới được thanh lọc. Những trạng thái tâm phiền não bất thiện sẽ không xâm nhậpvào tâm ta được vì có chánh niệm gìn giữ các giác quan ta. Chỉ khi nào chánhniệm bị mất đi, hay khi tâm ta ít chánh niệm thì những phiền não đủ loại sẽphát sanh. Thế nên chỉ có chánh niệm mới giúp giữ tâm trong sạch. Ở đây nên lưuý là Chánh niệm là một chi trong tám chi của Bát Chánh Đạo.

Nhữnghình thức của Chánh Niệm

Chánh niệm được thực hành dưới nhiềuhình thức - chánh niệm thân, chánh niệm cảm thọ, chánh niệm tâm, chánh niệmPháp hay chánh niệm các bộ phận của thân thể, vân vân. Những hình thức củachánh niệm được lược kê trong bài kinh (xin xem phần dưới đây). Như thế ấy, sựthực hành chánh niệm là một phương pháp duy nhứt để thanh lọc tâm chúng sanh.Xin chú ý, câu nói "thanh lọc chúng sanh" phải hiểu là "thanhlọc tâm của chúng sanh".

Sựquan trọng của sự thanh lọc tâm

Tại sao có sự nhấn mạnh về tâm? Tạivì Đức Phật luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thanh lọc tâm. Điều nầy khôngcó nghĩa là ta xem nhẹ việc vệ sinh và giữ gìn sức khoẻ của cơ thể. Nhưng quantrọng hơn chính là sự thanh lọc tâm của chúng ta.

Sự sạch sẽ của thân quan trọng nhưthế nào? Trong chú giải có nói rằng vệ sinh cá nhân hay sự sạch sẽ của cơ thểcũng như sự sạch sẽ tươm tất của nơi ăn chốn ở cũng vô cùng quan trọng vì chúngrất cần thiết trong sự hổ trợ để đạt tới định và phát sanh trí tuệ. Như thế tacần phải giữ gìn thân thể sạch sẽ và chăm sóc nơi ta thực hành thiền cho tươmtất gọn ghẽ. Hàm ý ở đây là trong khi ta không chểnh mãng trong sự giữ gìn thânthể sạch sẽ, ta càng cố công nỗ lực nhiều trong sự làm cho tâm trong sạch.

Nhữngsự lợi ích có được trong sự thực hành chánh niệm

1) Thanh lọc tâm

Trong kinh, Đức Phật kể những lợiích mà ta gặt hái được khi hành chánh niệm. Lợi ích thứ nhứt là sự thanh lọctâm.

2) Vượt khỏi sầu đau và ta thán

Lợi ích thứ hai mà Đức Phật kể là sựvượt khỏi sầu đau và ta thán. Nếu muốn vượt khỏi sầu đau và ta thán, Đức Phậtdạy ta nên thực hành chánh niệm. Ở đây sầu đau là trạng thái của tâm. Ta thánlà khóc than trong đau khổ và để thổ lộ trong lời than vãn.

3) Diệt trừ sự đau đớn và sầu bi

"Đau đớn" ở đây chỉ sự đauđớn của thể xác. "Sầu bi" ở đây chỉ sự phiền não trong tâm, buồnphiền, giận hờn, sân hận, ác ý. Thực hành chánh niệm giúp ta vượt qua mọi đauđớn và sầu bi và làm chúng tan biến đi. Nhưng dù bạn không thể chiến thắng sựđau đớn hay không thể hoàn toàn tiêu diệt nó hẳn, bạn cũng có thể sống với sựđau đớn và chấp nhận nó nếu bạn thực hành chánh niệm. Tâm của bạn sẽ không bịphiền nhiễu hay quấy rầy bởi cái đau nhức ở cơ thể. Khi tâm bạn không thấy bịphiền nhiểu bởi sự đau ở thể xác, thì cái đau nầy hình như không hiện hữu. Cũngnhư thế, để diệt trừ buồn phiền ưu tư, sân hận, ác ý, bạn phải thực hành chánhniệm.

Tâm không thể nào chú ý nhiều hơnmột sự việc cùng một lúc. Tâm chỉ có thể bắt một đối tượng trong một lúc. Vìthế ta nên dùng đặc tánh nầy của tâm để diệt trừ đau khổ buồn phiền khi ta thựchành chánh niệm. Lấy sự giận làm thí dụ. Thí dụ ta giận ông A. Khi nào tâm tacòn để trên ông A, cơn giận của ta sẽ tăng lên và ta sẽ càng giận thêm vì tađang lấy ông A làm đề mục của tâm ta. Nhưng một khi ta thay đổi đề mục từ ông Alà nguyên nhân của sự giận, sang sự giận lập tức ông A không còn hiện hữu trongtâm ta trong giờ phút đó. Ngay trong lúc ta để tâm vào sự giận, ông A đã biếnmất trong tâm ta. Khi tâm ta để vào cái giận và khi cái nguồn gốc của sự giậnkhông còn hiện hữu, thì cái giận cũng sẽ biến mất luôn.

Cùng thế ấy, ta nên chăm sóc nhữngtrạng thái tâm bằng chánh niệm, một thứ chánh niệm đơn giản nhưng mạnh mẽ haymột sự chánh niệm được đẩy mạnh. Ta phải dùng cách đó để đương đầu với nhữngxúc cảm trên như tham ái, sân hận, thù ghét, buồn phiền và đau khổ. Khi có nhữngtrạng thái tâm phát sanh, ta chỉ dùng chánh niệm và ghi nhớ. Khi tâm chánh niệmmạnh, những trạng thái tâm kia sẽ biến mất. Vì thế nên Đức Phật dạy: "Đâylà con đường độc nhứt để vượt khỏi sự sầu não, diệt trừ đau đớn và ưu tư trênđời".

Đâylà con đường độc nhứt đạt đến Đạo cao thượng

Nghĩa của "Con Đường" hay"Đạo"

Khi bạn đọc sách Đạo Phật, bạn sẽgặp chữ Path "Đạo" rất nhiều lần. Có khi chữ đó viết với chữ"p" nhỏ, nhưng thường thì chữ đó viết với chữ hoa "P". Chữcon đường hay Đạo là một thuật ngữ dùng để chỉ sự phối hợp hay nhóm của tám yếutố của Bát chánh đạo - Chánh kiến, chánh tư duy, vân vân... phát sanh cùng lúcvới khi chứng ngộ. Cái tâm thức đi chung cùng phát sanh với những yếu tố trêngọi là "Đạo".

Nghĩa của chữ " giác ngộ"

Chữ "giác ngộ" là một chữkhác rất quan trọng, mà nghĩa của nó cũng rất khó hiểu. Người đời thường dùngchữ nầy một cách tự do, nhưng chỉ một số ít mới thật hiểu nghĩa của nó một cáchtrọn vẹn. Nếu không định nghĩa thì nghĩa của nó rất mơ hồ. Chữ nầy đối vớinhiều ngườI, hay đối với nhiều tôn giáo thì mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Nhưthế, nghĩa của chữ "giác ngộ" đối vớI một Phật tử rất khác đối với"giác ngộ" của ngườI Công giáo. Cho nên khi nói đến sự giác ngộ,trước hết ta nên định nghĩa nó cho được rõ ràng.

Đối với đạo Phật, "giácngộ" có nghĩa là sự diệt trừ phiền não và chứng ngộ Niết Bàn, thấy và nhậndiện Niết Bàn cùng một lúc. Khi một người thực hành thiền Minh Sát và tiến bộtừ giai đoạn nầy sang giai đoạn khác, đến tầng cao hơn do kết quả sự thực hànhthiền Minh Sát, đến một lúc khi có một loại tâm thức phát sanh trong tâm màngười ấy chưa bao giờ được kinh nghiệm trước kia. Tâm nầy đồng sanh khởi vớinhững tâm sở khác vô cùng mãnh liệt đến nổi chúng có thể tiêu diệt hoàn toànnhững ô nhiễm, và không để những ô nhiễm nầy còn trở lại trong tâm. Đồng thờitâm thức nầy lấy Niết Bàn làm đối tượng, được gọi là "Tâm Đạo".

Ngay sau "Tâm Đạo", có haihay ba "Tâm Quả" phát sanh. Bạn phải hiểu Vi Diệu Pháp mới có thểhiểu rõ vấn đề nầy hoàn toàn. Giản dị mà nói, đạt đến Đạo cao thượng chỉ là mộtcách để giác ngộ. Khi nào bạn đạt đến Đạo cao thượng, khi đó bạn mới giác ngộ,và bạn mới có thể diệt trừ ô nhiễm trong tâm và lấy Niết bàn làm đối tượng.

Đâylà con đường độc nhứt để chứng ngộ Niết Bàn

Đây có cùng nghĩa với đạt đến Đạocao thượng. Cho nên khi một hành giả đạt đến Đạo cao thượng, và khi Tâm Đạosanh khởi nơi tâm của người ấy và cái tâm đó lấy Niết bàn làm đối tượng, ngườiấy được cho rằng đã đạt Niết bàn. Do đó, đạt đến Đạo cao thượng và chứng ngộNiết bàn có cùng một nghĩa. Cho nên Đức Phật dạy rằng thực hành chánh niệm,nghĩa là thực hành Tứ Niệm Xứ, là phương pháp độc nhứt để diệt trừ buồn phiềnvà ta thán, diệt trừ đau khổ và phiền não, để đạt đến Đạo cao thượng và chứngngộ Niết Bàn.

Ýnghĩa của Bốn Lãnh Vực Quán Niệm

Có hai chữ quan trọng ở đây là"lãnh vực" và "chánh niệm". Trước khi ta nói về Bốn LãnhVực Quán Niệm, ta nên hiểu nghĩa của "chánh niệm" là gì. Tuy ta thựchành chánh niệm lâu năm, đôi khi ta được hỏi: "chánh niệm" là gì, takhông thể trả lời một cách thoả đáng.

Nghĩa của chữ "niệm"(sati)

""Chánh niệm" là chữdịch từ chữ Pali "sati". Bài kinh nầy gọi là kinh Niệm Xứ(Satipatthana). Ở đây "niệm" (sati) dịch là "chánh niệm".Có lẽ không có danh từ nào đúng hơn trong tiếng Anh để dịch chữ đó. Nghĩa đen"sati" là "nhớ". Nhưng thật ra, chữ đó gồm nhiều nghĩa hơnlà "nhớ". Bởi vì theo nguồn gốc ngôn ngữ thì "sati" cónghĩa là "nhớ", tuy nhiên do thông dụng thì "sati" còn hàmchứa nhiều nghĩa hơn. "Sati" được định nghĩa trong Chú giải là"nhớ" và đặc tánh của nó là không hời hợt, không nổi lềnh bềnh trênbề mặt. Nếu đúng là "sati" nó không giả tạo, mà nó đi sâu vào đốitượng. Vì thế cho nên, Sư luôn luôn nói rằng "sati" hàm chứa nghĩa:"hay biết hoàn toàn đối tượng" hay là "hay biết thấu triệt đối tượng"."Sati" còn có nghĩa là có chức năng không làm mất đối tượng. Khi nàocó "sati" hay chánh niệm, ta không mất đối tượng, ta không quên đốitượng. Sati không phải là sự hay biết hời hợt giả tạo, mà là một sự biết sâurộng và thấu đáo một đối tượng.

Nghĩa của "lãnh vực chánhniệm"

Bây giờ ta nên bàn về thuật ngữ"lãnh vực chánh niệm". Nó có nghĩa là "sắp đặt" đặt nềntảng của chánh niệm hay là "sự thiết lập chặt chẽ chánh niệm" hay"chánh niệm được thiết lập vững chãi". Danh từ tiếng Pali satipatthanađược dịch ra là "lãnh vực của chánh niệm" nhưng thật ra nó có nghĩalà "sự sắp đặt một chánh niệm vững mạnh" hay "thiết lập mộtchánh niệm vững vàng".

Thực hành "Bốn Lãnh vực chánhniệm"

Trong kinh nầy, Đức Phật dạy rằng cóbốn lãnh vực chánh niệm. Khi bạn thực hành thiền Minh sát, bạn phải thực hànhcả bốn lãnh vực chánh niệm, nhưng bạn thực hành chúng tự do và không theo thứtự cái nầy trước hay cái nầy sau theo thứ tự trong kinh. Bởi vì khi bạn thựchành thiền Minh Sát, bạn phải chánh niệm đối tượng trong giây phút hiện tại.Đối tượng ở giây phút hiện tại có thể là một trong bốn lãnh vực - có khi đó làthân, có khi đó là cảm thọ, có khi đó là tâm thức, có khi đó là pháp. Bạn phảiniệm những đối tượng ngay khi chúng phát sanh vì bạn không có lựa chọn. Bởi thếcó khi người ta cho rằng thiền Minh Sát là thiền không chọn lựa. Nghĩa là bạnkhông lựa chọn, bạn chỉ ghi nhận những gì xảy đến với bạn. Cho nên bạn thựchành bốn lãnh vực chánh niệm một cách không thứ tự, cái gì phát sanh ra, bạnchỉ niệm, đó là cách hành thiền Minh Sát.

"Nầy các thầy Tỳ Khưu, ở đây vịTỳ Khưu sống quán thân trên thân, tinh cần, tỉnh giác (hay ý thức sáng suốt) vàchánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời".

Câu trên đây có nhiều nghĩa quantrọng, Sư sẽ bắt đầu phân tách những nghĩa của nó một cách chi tiết như sau:

Bốn lãnh vực quán niệm là gì?

Đó là:

- niệm thân trong thân

- niệm thọ trong thọ

- niệm tâm trong tâm

- niệm pháp trong pháp

Ta phải thực hành chánh niệm như thếnào?

Trong đoạn mở đầu của kinh Đại NiệmXứ kể trên, ta thấy Đức Phật dạy rằng, mỗi lảnh vực chánh niệm, ta phải tinhtấn nỗ lực, phải tỉnh giác hay ý thức sáng suốt , và phải chánh niệm để diệttrừ tham ái, khổ đau trên đời.

"Quán thân trong thân"

Nghĩa là thầy Tỳ Khưu hay người cưsĩ thực hành chánh niệm hay quán thân, người ấy phải thật chính xác. Người ấyquán thân chỉ ở trong thân mà thôi, người ấy không quán cảm thọ trong thân haylà quán con người ở trong thân, vân vân.... Để cho có một đề mục thật rõ ràngĐức Phật lập lại những chữ "thân, thọ, tâm và Pháp" trong những câutrên. Nghĩa là Đức Phật vô cùng chính xác trong sự chánh niệm hay quán thân,cảm thọ, tâm thức và Pháp. Khi quán niệm thân, Ngài tinh cần, ý thức sáng suốtvà chánh niệm.

Ta phải tinh cần trong sự thực hành

Danh từ tiếng Anh "ardent"- "tinh cần" không phải chữ dịch đúng nghĩa của chữ Pali"atapi". Khi một chữ từ ngôn ngữ nầy được dịch sang ngôn ngữ khác,thế nào cũng bị mất ít nhiều ý nghĩa. Chữ "atapi" tiếng Pali lấy từchữ "atapa". "Atapa" có nghĩa là "sức nóng của mặttrời". Ta biết rằng mặt trời có thể đốt nóng những vật cho đến khi nhữngvật ấy trở nên héo úa và có khi thiêu cháy.

Cùng thế ấy nỗ lực mà hành giả đểvào sự hành thiền làm nóng và đốt cháy mọi phiền não trong tâm. Người mà có"atapa" nghĩa là tinh cần thì được gọi là "atapi, chữ "I"chỉ sự làm chủ. Cho nên chữ "atapi" chỉ người có cố gắng trong hànhthiền, không dễ duôi, người thực sự cố gắng để chánh niệm và hiểu biết thấuđáo. Khi đọc kinh bằng tiếng Pali và thấy chữ "atapi" ta nên hiểu chữđó có nghĩa thực sự như vậy. Ta phải thấy sự tinh tấn sẽ đốt cháy được phiềnnão. Bây giờ bạn mới thấy tại sao khi dịch chữ "atapa" ra tiếng Anh(hay ra tiếng Việt là "tinh cần") bạn sẽ mất đi ý niệm trên.

Ta phải để nhiều nỗ lực

Khi Đức Phật còn là một vị Bồ Tátngồi dười cội bồ đề hành thiền để trở thành Phật, Ngài đã phát nguyện mạnh mẽtrong tâm. "Dù cho chỉ còn da, gân, xương, dù cho thịt và máu có khô cạn,ta quyết không bao giờ ngưng hay bỏ bỏ mọi nỗ lực phi thường cho đến khi thànhPhật. Ta sẽ không rời khỏi chỗ ngồi nầy cho đến khi thành Phật. Ta sẽ vô cùngcố gắng để đạt đến mục đích." Nỗ lực như thế gọi là "Chánh TinhTấn".

Để có chánh tinh tấn bạn phải cónhiều nỗ lực thực sự, chớ không phải nỗ lực hời hợt. Nỗ lực ở đây cũng là chánhtinh tấn, một trong tám chi của Bát Chánh Đạo. Chánh tinh tấn nghĩa là sự nỗlực để diệt trừ hay tránh xa những bất thiện tâm và để trau dồi và gặt háinhững thiện tâm. Muốn chống lại những trạng thái tâm bất thiện để diệt trừnhững điều xấu, bạn cần có nỗ lực. Nếu bạn không nỗ lực, bạn không thể chống lạiđiều bất thiện. Cùng thế đó, bạn cần có sự cố gắng thật sự, mạnh mẽ để thựchánh thiền Tứ Niệm Xứ.

Tỉnh giác hay ý thức sáng suốt

Danh từ kế đó là "tỉnhgiác". Tỉnh giác có nghĩa là "thấy rõ ràng". Đối tượng nào màhành giả để tâm niệm, vị ấy thấy thật rõ ràng. "Rõ ràng" có nghĩa làgì? Nghĩa là hành giả thấy thấu đáo thông suối, thấy với trí tuệ. Khi hành giảniệm hơi thở, vị ấy thấy hơi thở rõ ràng. Vị ấy thấy hơi thở vào rõ ràng phânbiệt với hơi thở ra, và hơi thở ra thật rõ ràng phân biệt với hơi thở vào. Hànhgiả cũng thấy hơi thở phát sanh và diệt. Hành giả trong thời gian nầy chỉ thấycó hơi thở và sự biết hơi thở và không có gì khác mà thường được cho là conngười hay một cá nhân. Sự hiểu biết đó gọi là "tỉnh giác" hay ý thứcsáng suốt.

Khi bạn có sự tỉnh giác về một việcgì, bạn biết việc ấy và những trạng thái của nó. Cũng theo giáo pháp của ĐứcPhật, bạn biết rằng chỉ có vật được quan sát và cái tâm quan sát vật ấy, ngoàira không có gì gọi là một người, hay một cá nhân, đàn ông, đàn bà. Nhìn sự vậtnhư thế ấy được gọi là tỉnh giác. Sự tỉnh giác nầy sẽ đến với bạn sau một thờigian thực tập, không phải đến ngay khi bạn mới bắt đầu hành thiền.

Khi mới bắt đầu hành thiền bạn cóthể không thấy hơi thở rõ ràng. Có khi những hơi thở lẫn lộn và không rõ ràng.Nhưng từ từ, với sự tìến triển của tâm định và thực hành, bạn sẽ thấy đối tượngcàng ngày càng rõ thêm luôn cả sự sanh và diệt của hơi thở, vân vân... Như thế,sự tỉnh giác nầy xảy ra không phải ngay lúc đầu, nhưng sau một thời gian bạn cókinh nghiệm.

Muốn có sự tỉnh giác phát sanh, tacần một yếu tố nữa, tuy trong kinh không nói tới. Ta cần có tâm định. Nếu khôngcó tâm định, tỉnh giác sẽ không thể phát sanh.

Ta cần phải phát triển tâm định

Tâm định là gì? Tâm định là mộttrạng thái tâm hay một yếu tố của tâm, để giữ những chi của tâm nằm trong đềmục và không để chúng chạy sang những đề mục khác. Tâm định thường được diễn tảlà một thứ tâm có thể ở trên đề mục một thời gian khá lâu. Lấy hơi thở làm đềmục để làm thí dụ, tâm định của bạn luôn luôn để trên hơi thở và tâm bạn khôngchạy đi nơi khác. Luôn luôn tâm định giữ tâm và những yếu tố của tâm chung lạinhau trên đề mục. Sự định tâm nầy rất cần thiết cho sự tĩnh giác phát sanh.Không có tâm định bạn không hy vọng xuyên thấu được sự vật, và cũng không hyvọng có sự tỉnh giác.

Khi ta đạt được tâm định, tâm của talắng xuống và trở nên vắng lặng. Đây là lúc ta bắt đầu thấy rõ sự vật. Giốngnhư nước dơ hay nước bùn trong một ao hồ. Trước tiên, khi có đất cát dơ hay bùnsình trong nước, ta sẽ không thấy đáy của ao hồ qua mặt nước. Nhưng khi đất cátdơ hay bùn sình được lắng đọng xuống và mặt nước trở nên trong ta mới có thểthấy xuyên qua nước. Cùng thế đó, tâm ta cũng như nước bùn hay nước dơ tại vìnó chứa đồ dơ bẩn hay là những ô nhiễm. Khi nào tâm ta còn bị nhiễm độc bởinhững ô nhiễm, ta không thể thấy sự vật một cách rõ ràng. Ta phải đè nén hay đểnhững ô nhiễm của tâm lắng đọng xuống trước khi ta có thể thấy sự vật một cáchrõ ràng. Những ô nhiễm nầy gọi là những chướng ngại trong tâm.

Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ cóthể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắcphục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng. Chỉ có khi đó tỉnh giác hay sự hiểubiết thật sự của mọi sự vật sẽ phát sanh.

Tuy rằng tâm định không được nêu lêntrong kinh Đại Niệm Xứ, ta nên hiểu rằng sự cần thiết của tâm định được hàmchứa bởi vì nếu không có tâm định ta sẽ không thể có sự tỉnh giác phát sanh.Cho một thí dụ giãn dị sau đây. Một người thợ săn đang đuổi theo một con nai.Người ấy thấy một tảng đá bằng phẳng và người ấy thấy dấu chân ở hai nơi đốidiện nhau của tảng đá, mà không phải ở trên mặt hay xung quanh tảng đá. Theo sựnhận xét nầy, người ấy suy diễn rằng con nai phải phóng ngang qua bề mặt trêncủa tảng đá để đi từ bên nầy sang bên kia. Nghĩa là người ấy thấy phần đầu, vàngười ấy thấy phần cuối và người ấy suy diễn phần giữa, nghĩa là, con nai phảiphóng ngang qua tảng đá. Tương tợ như vậy, chánh niệm ở đoạn đầu và tỉnh giác ởphần cuối. Phần giữa phải là tâm định vì nếu không có tâm định, sẽ không cótỉnh giác.

Bốntrạng thái tâm căn bản cần thiết

Có bao nhiêu phần tử của tâm mà tađã nói đến? Ta có bốn - và chúng kết hợp thành bốn trạng thái tâm rất căn bảncần thiết trong sự thực hành thiền chánh niệm. Thứ nhứt là tinh cần, thứ hai làtỉnh giác, thứ ba là tâm định, và thứ tư là chánh niệm. Bốn trạng thái tâm nầylà những phần tử cần thiết của sự thực hành thiền. Khi ta thực hành thiền, bốnphần tử của tâm nầy phải làm việc chung và hòa hợp với nhau. Nhưng còn một tâmkhác mà không được nêu lên trong kinh, đó là đức tin.

Ta cần có đức tin

Đức tin hay sự tin tưởng cũng là mộtyếu tố quan trọng bởi vì nếu ta không có sự tin tưởng nơi phương pháp dạy củaĐức Phật, ta sẽ không áp dụng thực hành. Nếu không có đức tin, sẽ không có sựthành công trong bất cứ việc làm gí. Trong Phật giáo, ta không có đức tin mùquáng. Đó không có nghĩa là ta không có đức tin. Ta có đức tin hay sự tin tưởngnơi Đức Phật và giáo lý của Ngài. Ta tin tưởng rằng chú tâm quán niệm những đềmục trong Tứ Niệm Xứ ta sẽ thấy đặc tánh thật của những sự vật nầy- là vôthường, và nó dẩn đến đau khổ và chúng vô ngã.

Đức tin cũng là một phần của sự thựctập thiền tuy nó không tích cực hoạt động khi thiền hay khi thực tập chánhniệm, nó vẫn hiện diện và làm việc hòa hợp với những yếu tố tâm khác. Cho nênnếu ta thêm yếu tố đức tin vào bốn yếu tố mà ta bàn tới lúc đầu, bây giờ ta cónăm yếu tố và chúng được gọi là Ngũ Căn. Tiếng Pali gọi là Indriyas. Các thiềnsư thường thích nói về Ngũ căn nầy. Năm yếu tố nầy phải làm việc cùng một lúcvà hòa hợp với nhau nếu ta muốn có được một sự thưc hành tốt đẹp. Nếu chúngkhông làm việc hòa hợp nhau thì ta mất thiền.

Thăng bằng giữa tinh tấn và định

Khi ta thực hành thiền sự thăng bằnggiữa tinh tấn và định rất quan trọng. Nếu chúng không thăng bằng, nghĩa là, nếumột trong hai cái quá nhiều, ta sẽ kinh nghiệm sự khó khăn trong khi hànhthiền. Ta phải nỗ lực cho vừa đủ, không nhiều lắm và cũng không ít lắm. Nhiềukhi ta nổ lực nhiều quá vì ta nóng lòng muốn đạt được điều gì. Kết quả là ta mấtthăng bằng. Thế nên, quá nhiều tinh tấn không đem lợi gì cho ta. Ngược lại,việc gì xảy ra khi ta nỗ lực ít ? Ta sẽ trở nên buồn ngủ, lười biếng và takhông thể chú tâm và không thể hành thiền được. Cho nên ta tinh tấn vừa đủkhông nhiều quá và cũng không ít quá. Khi có quá nhiều tinh tấn thì định tâmkhông đủ. Nếu bạn để quá ít tinh tấn, thì sự định tâm lại không đủ.

Giả thử như bạn hành thiền và bạnđược định tâm tốt. Sau khi được định tâm tốt, bạn sẽ giảm bớt nỗ lực, bạn sẽtrở nên lười biếng hay buồn ngủ. Khi việc nầy xảy ra, bạn phải cố gắng nhiềuhơn và chú tâm nhiều hơn trong sự hành thiền. Nhiều khi bạn phải chú tâm đếnnhiều đề mục khác, chú tâm đến mỗi đề mục mỗi lần riêng biệt trong sự hànhthiền. Như vậy, tinh tấn và định tâm phải thăng bằng để cho ta hành thiền tốtđẹp và có sự tỉnh giác.

Có khi, bạn đang hành thiền có tâmđịnh tốt, thình lình bạn mất đi sự định tâm. Tại sao? Một trong những lý do cóthể là bạn để quá nhiều tinh tấn. Do sự mong muốn để cho sự hành thiền tốt hơn,ta có lẽ để quá nhiều sự tinh tấn. Kết quả là ngược lại sự mong muốn của ta. Cókhi trong khi hành thiền bạn có được tâm định tốt và mặc dù tâm định tốt, bạncảm thấy buồn ngủ hay ngủ gật. Tại sao vậy? Có thể là bạn có quá nhiều tâmđịnh. Nếu có quá nhiều định tâm, bạn nên giảm bớt sự định tâm và tăng thêm sựtinh tấn.

Như vậy, hành thiền không phải dễ.Sư không muốn làm bạn nãn lòng chớ thật sự hành thiền không phải dễ. Nó rấttinh tế. Chỉ một chút mất thăng bằng của tâm cũng có thể phá sự định tâm mà bạnđã công phu bồi đấp với nhiều nỗ lực. Cho nên, năm trạng thái tâm kể trên phảilàm việc song song và hòa hợp với nhau. Hành thiền cũng giống như một cái máy.Có nhiều bộ phận trong một cái máy, và mỗi bộ phận phải làm việc đúng và đồngăn khớp, hòa hợp với nhau. Nếu một bộ phận không chạy thì cả cái máy sẽ khôngchạy. Cùng thế ấy nếu một yếu tố trong tâm không làm việc đúng thì cả sự hànhthiền sẽ bị mất đi sự thăng bằng. Thế cho nên, mỗi một trạng thái tâm trong ngũcăn phải làm việc đúng và hòa hợp với những trạng thái tâm kia.

Giá trị của chánh niệm

Bây giờ đây ta nên suy xét một cáchnghiêm túc về giá trị của chánh niệm. Chánh niệm là một yếu tố tâm điều hành.Chính chánh niệm giữ cho sự tinh tấn không quá độ, chánh niệm cũng giúp sự địnhtâm không quá độ vân vân.. Vì vậy chánh niệm là một yếu tố điều hành trong ngũcăn trong sự hành thiền. Vì thế cho nên chánh niệm được cho là rất cần thiết.Không bao giờ nói rằng có quá nhiều chánh niệm. Chánh niệm vô cùng cần thiếttrong mọi lúc giống như muối dùng để nêm nếm đồ ăn, và giống như ông quan lớnlàm tất cả những nhiệm vụ của một ông vua. Tuy chánh niệm là một yếu tố quantrọng trong ngũ căn nhưng mỗi yếu tố kia đều quan trọng và chúng phải làm việcđồng nhứt hóa hợp và thăng bằng với những yếu tố kia.

Áidục

Vượt khỏi tham ái và sân hận trênđời

Khi ngũ căn làm việc thăng bằng vàhành giả có được sự tỉnh giác, vậy kết quả là gì? Kết quả là sự vượt khỏi thamái và sân hận trên đời. Đó chính là kết quả mà hành giả có được khi có sự tỉnhgiác của sự tu tập chánh niệm. Ở đây khi dịch ra tiếng Anh, có một sự thiếu sótvề ý nghĩa. Thường thì được dịch là "đãđược vượt khỏi" hay"đãđược vứt bỏ" hay "đãđược chế ngự" thamái và sầu đau trên đời. Thực hành thiền để làm gì? Thực hành chánh niệm để làmgì? Thưc hành thiền để vượt khỏi tham ái và sầu đau ở trên đời. Tham ái nghĩalà sự bám víu, và sầu đau nghĩa là ác ý hay sân hận. Như thế, thực hành thiềnMinh Sát hay thiền Tứ Niệm Xứ là để vượt ra khỏi tham ái và sầu đau. Nếu ta đãđạt được mục đích nầy rồi thì ta đâu cần thực tập thiền nữa. Như thế, ở đây tanên dịch câu đó như thế nầy "đangvượt khỏi tham ái và sân hận(cùng lúc đang phát sanh)", chớ không phải "đãđược vượt khỏitham ái và sân hận." Có nghĩa là hành giả đangvượt khỏi tham ái vàsân hận khi hành giả đanghành chánh niệm. Sư muốn các bạn nên chú ý đếnđiểm nầy. (Ở đây nên giảng nghĩa văn phạm tiếng Pali cho được rõ ràng hơn,nhưng vì quá dài dòng cho nên Sư phải bỏ qua ở đây).

Vượt khỏi tham ái và sân hận ở đờicó nghĩa là tránh xa tham lam hay bám víu hay sân hận, hay ác tâm đối với đốitượng mà hành giả đang quan sát niệm. "Trên thế gian" nghĩa là thếgiới của thân, cảm thọ vân vân.. đối với đối tượng. Khi ta thấy một vật, và tatrở nên bám víu vào vật ấy, Và nếu ta kết luận rằng vật ấy đẹp, hay tốt, ta sẽbám víu vào vật ấy. Ngược lại, ta có thể phát sự sân hận hay oán ghét vân, vân.. về vật đó nếu ta cho đó là xấu xa hay ghê tỡm. Cho nên những phiền não trongtâm có thể phát sanh trong tâm khi ta kinh nghiệm một việc gì.

Nghĩa sâu rộng của "áidục"

Khi Đức Phật dạy rằng "vượtkhỏi tham ái và sân hận trên đời" có nghĩa là hành giả có thể phòng ngừakhông cho tham ái và sân hận phát sanh đối với vật mà hành giả đang quan sát.

Ở đây tham ái hay ái dục có nghĩa làgồm tất cả những thứ bám víu, tham lam, ái dục, và những trạng thái tâm tươngtợ như vậy, và "sầu đau" có nghĩa sầu não, sân hận, ganh ghét, đaubuồn, sầu khổ, tất cả đều bao gồm trong nghĩa của sân hận. Đây là ba nguồn gốccủa tâm bất thiện, đó là tham, sân , và si. Trong ba tâm bất thiện đó, có haitâm được kể ra đây. Tham ái thực ra là tâm đầu tiên, là sự bám víu. Tiếng Paligọi là "lobha", tâm thứ hai được gọi là "dosa". Cho nên,"tham ái" có nghĩa bao gồm trong "lobha" và sân hận cónghĩa bao gồm trong "dosa". Si, gọi là "moha" tiếng Palikhông có được gồm chung ở đây, bởi vì moha "si" thật rất khó để ngănngừa và tiêu diệt. Vì thế cho nên tại sao Đức Phật dạy các vị Tỳ Khưu nên nỗlực cố gắng chánh niệm để phát sanh tâm định và tâm tỉnh giác khi hành giả quánniệm để hành giả có thể tránh xa sự tham ái và ngăn ngừa sân hận không cho phátsanh. Phương pháp nầy cũng được áp dụng khi hành giả quán niệm tho, tâm vàPháp.

Bảo vệ chống lại với tâm ô nhiễm

Để ngăn ngừa không cho những tâm ônhiễm phát sanh, ta cần có phương cách để bảo vệ. Cách bảo vệ nầy chính làchánh niệm. Khi ta chánh niệm thì những ô nhiễm đó không có cơ hội để phát sanhtrong tâm ta. Khi ta chánh niệm, khi ta tỉnh giác, và khi ta thấy sự vật mộtcách rõ ràng, ta biết rằng chúng sẽ đến và đi và chúng vô thường. Ta cũng hiểurõ rằng ta không nên bám víu vào chúng. Cho nên ta có thể tránh khỏi sự tham áihay bám víu hay sân hận đối với vật ấy do sự thực hành chánh niệm.

Khi ta nói "vượt khỏi" hay"diệt trừ", thật ra ta đang tránh hay ngăn ngừa không để ô nhiễm phátsanh. Đó không có nghĩa là ta diệt trừ hay vượt khỏi ô nhiễm sau khi chúng phátsanh. Nghĩa thật của nó là ngăn ngừa tham ái và sân hận không cho chúng phátsanh ở trong tâm ta. Nếu ta không chánh niệm trên đối tượng đó, thì chắc chắntham ái hoặc sân hận sẽ phát sanh. Những tâm ấy có thể phát sanh, nhưng nếu tachánh niệm, ta có thể ngăn ngừa không cho chúng phát sanh. Ngăn ngừa không đểchúng phát sanh trong tâm là ý nghĩa của câu "vượt khỏi ô nhiễm".(Nhưng nếu chúng phát sanh, thì ta lại phải dùng chúng là đề mục của chánh niệmđể diệt trừ chúng).

Khi ta nói đến giác ngộ, ta thườngdùng đến chữ "trong giây phút giác ngộ" những ô nhiễm sẽ được tiêudiệt. Những tâm ô nhiễm nào được tiêu diệt trong lúc đó? Hiện tại, quá khứ haytương lai? Quá khứ thì đã qua, ta không cần làm gì cả để mà tiêu diệt chúng.Còn tương lai, những ô nhiễm chưa phát sanh, ta không làm gì được cả. Còn hiệntại? Nếu ô nhiễm có mặt, thì sẽ không có giác ngộ. Tại sao? Bởi vì chứng ngộ làmột tâm trong sạch và ô nhiễm là tâm không trong sạch. Tâm trong sạch và tâmkhông trong sạch không cùng hiện hữu. Chúng không hiện diện chung. Cho nênnhững ô nhiễm mà nói là được tiêu diệt trong lúc giác ngộ không phải ở quá khứ,tương lai hay trong hiện tại.

Nhữngô nhiễm nào được tiêu diệt?

Thật ra nói cho cùng thì những ônhiễm bị tiêu diệt không phải gọi là ô nhiễm, hay kilesas trong tiếng Pali.Chúng được gọi là "ngủ ngầm" hay anusayas trong tiếng Pali. Chữ"anusayas" nghĩa là có tiềm năng để phát sanh. Cái mà tâm giác ngộ sẽtiêu diệt đó chính là cái tiềm năng (ngũ ngầm) đó. Thí dụ như hút thuốc lá. Giảthử như bạn là một người hút thuốc lá. Ngay bây giờ bạn không có hút thuốc lá.Giả thử Sư hỏi bạn "Bạn có hút thuốc lá?" và bạn trả lời rằng"Dạ ,tôi có hút". Đó có nghĩa là bạn đã có hút thuốc lá trong quákhứ, và bạn sẽ hút thuốc lá trong tương lai. Tóm lại là bạn không có bỏ hútthuốc. Thế cho nên tuy rằng bạn không hút thuốc lá ngay trong lúc nầy, bạn trảlời "Dạ, tôi có hút thuốc ".

Cùng thế ấy, ngay trong lúc bây giờ,Sư nói rằng Sư không có ô nhiễm trong tâm và bạn cũng không có ô nhiễm trongtâm bạn. Nhưng sau buổi nói chuyện, bạn đi ra và bạn đạp phải một vật nhọn haylà có người nào đó xô đẩy bạn và bạn nổi giận. Sự ô nhiễm nầy được dịp sanhkhởi bởi vì nó có điều kiện để sanh khởi. Chính cái "tiềm năng phátsanh" nầy mới là cái bị tiêu diệt bởi giác ngộ.

Làmthế nào ngăn ngừa không để ô nhiễm phát sanh?

Những ô nhiễm mà nói là được diệttrừ trong lúc giác ngộ không gì hơn là những tiềm năng ngủ ngầm có thể phátsanh. Khi chúng phát sanh thì chúng đã hiện diện rồi. Cùng thế đó, nói rằngvượt khỏi tham ái và sân hận nghĩa là tránh hay ngăn ngừa không để chúng phátsanh trong tâm. Bằng cách nào? Bằng cách thực hành chánh niệm. Nếu ta tinh tấn,nếu ta áp dụng chánh niệm và nếu ta có tâm định, ta sẽ thấy sự vật rõ ràng. Nếuta thấy sự vật rõ ràng, thì sẽ không có cơ hội để cho tâm ô nhiễm phát sanh.Như vậy ta nói rằng thực hành thiền Minh Sát hay thực hành chánh niệm để diệttrừ phiền não.

Sựdiệt trừ ô nhiễm nầy có phải là vĩnh viễn hay không?

Sự diệt trừ ô nhiễm nầy chỉ có tánhcách tạm thời, vì nó chỉ thay thế tạm thời thôi. Chỉ một phút giây sau là chúngtrở lại. Nó chỉ kéo dài một thời gian ngắn thôi. Sự diệt trừ nầy được gọi là"diệt trừ bằng sự thay thế". Có nghĩa là bạn trừ bỏ những tâm bất thiệnbằng sự thay thế những tâm thiện. Khi có sự hiện diện của tâm thiện thì sẽkhông có sự hiện diện của tâm bất thiện. Bạn đặt những tâm thiện ở một chỗtrong tâm thì những tâm bất thiện không có chổ để phát sanh. Sự diệt trừ nầygọi là diệt trừ ô nhiễm bằng sự thay thế. Nhưng trạng thái tâm đó chỉ tồn tạitrong một thời gian ngắn ở trong tâm của hầu hết hành giả. Chỉ một lúc sau ônhiễm lại trở lại. Khi thực hành thiền Minh Sát, tham ái và sân hận được tiêudiệt bằng cách đó. Khi bạn ra khỏi thiền và bạn gặp những điều kiện thuận lợicho những ô nhiễm phát sanh, chúng sẽ phát sanh trở lại.

Diệt trừ ô nhiễm tạm thời

Có một sự diệt trừ ô nhiễm gọi là" diệt trừ tạm thời". Sự diệt trừ nầy bằng cách đẩy lui chúng đi. Khibạn đẩy lui một vật gì sang một bên, nó sẽ ở đó một thời gian hay nó không trởlại ngay, giống như cây nổi trôi trên mặt nước. Nếu bạn đẩy gạt nó đi nó sẽđứng yên ở đó một thời gian, nhưng từ từ nó cũng sẽ trở lại. Sự diệt trừ nhưvậy được gọi là "diệt trừ tạm thời" hay diệt trừ bằng sự đẩy gạt nóqua một bên. Trạng thái tâm nầy được đạt tới khi hánh giả đang trong trạng tháitâm "phỉ lạc" trong thiền. Khi một hành giả có được phỉ lạc hay kinhnghiệm phỉ lạc, hành giả nầy có thể đẩy lui ô nhiễm trong tâm trong một thờigian. Chúng có thể sẽ không trở lại trong tâm hành giả trọn ngày, hay có thể cảtuần hay cả tháng, nhưng sau cùng chúng cũng sẽ trở lại trong tâm hành giả.

Diệt trừ ô nhiễm toàn diện

Sự diệt trừ ô nhiễm thứ ba gọi là"diệt trừ toàn diện". Tiếng Pali gọi là "samuccheda" = cắtđứt, nghĩa là diệt trừ bằng sự cắt đứt. Nếu bạn chặt đứt rễ của một cây, nó sẽkhông mọc trở lại. Như vậy sự diệt trừ toàn diện gọi là sự diệt trừ bằng cáchcắt đứt và sự cắt đứt ô nhiễm toàn diện nầy được đạt đến trong lúc chứng ngộ.Những ô nhiễm được diệt trừ trong lúc chứng ngộ là toàn diện và chúng sẽ khôngbao giờ trở lại trong tâm hành giả.

Người nào đã diệt trừ được mọi phiềnnão?

Chỉ có A la Hán là ngườI hoàn toàndiệt trừ những ô nhiễm. Ngài không còn bám víu, không còn sân hận, không cònngã mạn, không còn ganh tị hay những trạng thái tâm bất thiện nào khác. Cảnhững khi các Ngài bị thách đố, các Ngài cũng không nổi giận. Cả những khi cácNgài nhìn thấy một vật gì hấp dẩn hay tốt đẹp, các Ngài cũng không cảm thấy bịbám víu hay mong muốn vật ấy. Những bậc nầy đã hoàn toàn tiêu diệt ô nhiễm bằngcách hoàn toàn chặt đứt mọi ô nhiễm trong tâm các Ngài.

Diệt trừ ô nhiễm tạm thời bằng thiềnMinh Sát

Những sự vật mà ta gặp phải cũng cóthể gây ra sự tham ái hay sân hận trong tâm ta. Nếu ta không chánh niệm về vậtđó, ta sẽ phát sanh bám víu hay sân hận đối với vật ấy. Việc nầy hay xẩy ra chophần đông chúng ta.

Nếu bạn hành thiền Minh Sát tốt vàbạn đã có kinh nghiệm tránh được tham ái và sân hận đối với vật mà bạn quansát, bạn sẽ thấy rằng bạn cũng có thể ngăn ngừa không cho phát sanh cả nhữngvật bạn không có quan sát. Đó được gọi là "tạm thời diệt trừ ô nhiễm bằngthiền Minh Sát".

Thiền Minh Sát có thể đạt được haisự tiêu diệt ô nhiễm đó là sự diệt trừ từng chập hay sát na diệt trừ, và diệttrừ tạm thời. Nhưng thiền Minh Sát không thể đạt được sự tiêu diệt ô nhiễm thứba đó là sự diệt trừ toàn diện; sự diệt trừ nầy chỉ được thực hiện bằng sựchứng ngộ hay chứng Đạo.

Nhiều khi hành giả nghĩ rằng nếu họkhông chú tâm trên đề mục chánh, thì họ không thực sự hành thiền. Nhiều khi họnói rằng: "à, ta đã để thì giờ hay phí thì giờ theo dõi tâm đi chỗ nọ chỗkia mà ta không để nhiều thì giờ để niệm đề mục chánh." Bất kỳ bạn niệm đềmục chánh hay đề mục phụ, khi nào bạn có được chánh niệm là bạn thiền đúng rồi.Bạn đang thực sự hành thiền và thực tập thiền Minh Sát. Điều quan trọng trongthiền Minh Sát thứ nhứt là sự chánh niệm của đề mục trong giây phút hiện tại.Có khi bạn có thể quên chánh niệm và cái quên nầy sẽ trở nên đề mục thiền củabạn. Bây giờ bạn phải chánh niệm cái "quên" và đem tâm trở về đề mụcthiền của bạn.

Chánhniệm dẫn đến sự chứng ngộ "vô thường"

Bạn phải luôn luôn chánh nìệm. Nếubạn có thể giữ chánh niệm rốt ráo, bạn sẽ có tiến bộ rất nhanh và bạn sẽ bắtđầu thấy đặc tánh thật của sự vật. Chỉ có cách đó bạn mới bắt đầu thấy sự vậtsanh và diệt. Khi bạn thấy chúng sanh và diệt, bạn cũng sẽ thấy chúng vôthường. Khi bạn thấy chúng vô thường, bạn cũng sẽ thấy đặc tánh khổ và đặc tánhvô ngã của chúng. Bạn sẽ nhận thức rằng bạn không điểu khiển được chúng vàchúng sanh và diệt theo ý chí tự do của chúng. Cho nên khi bạn có thể thấy sựvật là như thế ấy, bạn mới có thể thấy ba đặc tánh chung của tất cả các pháphữu vi, đó là tinh yếu của thiền Minh Sát. Nếu bạn hành thiền Minh Sát bạn phảithấy ba đặc tánh đó bởi vì chữ "Vipassana" có nghĩa là "thấy sựvật bằng nhiều cách", và thấy sự vật bằng nhiều cách có nghĩa là thấy dướiánh sáng của vô thường, khổ và vô ngã.

Điều quan trọng của thiền Minh Sátlà phải thấy ba đặc tánh đó, và để được thấy ba đặc tánh đó, ta cần phải nhìnquan sát và chú tâm vào trong đối tượng ngay trong giây phút hiện tại. Muốn chútâm vào đối tượng trong giây phút hiện tại, ta cần nhiều nỗ lực. Không có sự nỗlực thì sẽ không đạt được những việc gì có giá trị. Vì thế cho nên Đức Phật dạyrằng phải "tinh cần, tỉnh giác và chánh niệm". Khi ta làm tròn đủnhững điều kiện trên "tinh cần, tỉnh giác và chánh niệm" và có địnhtâm, ta mới có thể vượt khỏi tham ái và sân hận đối với sự vật mà ta quan sát.

Lờinhắn nhủ

Trên đây Sư đã giảng cho bạn mộtcách ngắn gọn bài kinh rất quan trọng của Đức Phật, đó là kinh Đại Niệm Xứ,Maha Satipatthana. Nếu bạn hiểu được những gì Sư đã giảng ở trên, Sư nghĩ rằngbạn đã nắm vững thế nào là sự thực hánh chánh niệm. Bạn cũng hiểu là phươngpháp hành thiền như thế nào. Điều quan trọng là bạn nên theo những lời chỉ dẫnvới sự tinh tấn và áp dụng chánh niệm để bạn được thấy sự vật một cách thật rõràng. Làm được như vậy, Sư cầu chúc cho tất cả quí vị được vượt khỏi mọi thamái và sân hận ở đời.

Source:http://www.budsas.org/

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567