Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phẩm 19: Pháp Trụ

16/08/202011:25(Xem: 4447)
Phẩm 19: Pháp Trụ
 
buddha-517

KINH PHÁP CÚ 

Việt dịch: HT Thích Minh Châu
Thi Hóa: HT Thích Minh Hiếu

Lưu ý:
Kinh bên dưới bản gốc Việt dịch: HT Thích Minh Châu (câu đầu),
Câu theo sau là phần Thi Hóa của HT Thích Minh Hiếu (chữ nghiêng)


Phẩm Pháp Tr 19



256/ Ngươi đâu phi pháp trụ,

Xử sự quá chuyên chế;

Bậc trí cần phân biệ,t

Cả hai chánh và tà.

256/ Luật pháp là phải phân minh

Làm quan chuyên chế trọng khinh ép người,

Trí nhân cần rõ việc rồi

Thận trọng phân biệt hai nơi chánh tà.



257/ Không chuyên chế, đúng pháp,

ng bằng, dắt dẫn người;

Bậc trí sống đúng pháp,

Thật xứng danh pháp trụ.



257/ Mới không áp đặt người ta

ng bng nhận tội khi ra phán hình,

Sống đời đen trắng quang minh

Xứng danh người giữ cán cân công bằng.



258/ Không phải vì nói nhiều,

Mới xứng danh bậc trí;

An ổn , không oán sợ,

Thật đáng gọi bậc trí.



258/ Nói nhiu nhưng chng nghĩa nhân,

Chỉ được cái tiếng đa văn gạt mình.

Sống cao thượng dù lặng thinh

y ngay chng sợ gió kinh động lòng.



259/ Không phải vì nói nhiều,

Mới xứng danh trì pháp;

Những ai tuy nghe ít,

Nhưng thân hành đúng pháp,

Không phóng túng chánh pháp,

Mới xứng danh trì pháp.



259/ Dòng đời người đục ta trong

Hành trì chánh pháp cửa không vng toà

Nói, làm hai no cách xa

Dù nghe ít pháp nhưng mà tht tu

Tinh cần sớm tối công phu

Xứng danh Thích tử đền bù đàn na.



260/ Không phải là trưởng lão,

Nếu cho có bạc đầu,

Người chỉ tuổi tác cao,

Được gọi là :“ Lão ngu”.



260/ Lớn tuổi rồi mới xut gia

Tóc râu đã bạc yếu già đến mau,

Tưởng lầm mình sẽ ngồi cao

Già si” thế tục, trước sau có phần.



261/ Ai chân thật, đúng pháp,

Không hại, biết chế phục,

Bậc trí không cấu uế,

Mới xứng danh trưởng lão.



261/ Vị nào thúc liễm tự thân

Sống đời phạm hạnh cao thanh đức hiền,

Trong ngoài trn vn châu viên

Xứng danh Trưởng lão trụ yên tăng đoàn.



262/ Không phi nói lưu loát,

Không phải sắc mặt đẹp,

Thành được người lương thiện,

Nếu ganh, tham, di trá.



262/ Cho dù hình thức đoan trang

Bên trong cha nhóm ganh tham dối lừa,

Mặt hoa da phn ai ưa,

Nói lời ngon ngọt cũng thua chân tình.



263/ Ai cắt được, phá được,

Tận gốc nhổ tâm ấy,

Người trí ấy diệt sân,

Được gi người hiền thiện.



263/ Chỉ ai quý trọng tánh linh

Dit tận ngã chấp bóng hình rả tan,

Không sân thì tâm được an

trong tứ chúng xng hàng thin nhân.



264/ Đầu trọc, không Sa môn,

Nếu phóng túng, nói láo,

Ai còn đầy tham dục,

Sao được gọi Sa môn?



264/ Cạo đầu trang sức tấm thân

Bên ngoài cái vỏ, trong tham dục đầy

Buông lung vng ngữ ta đây

Người như thế ấy, mặt dày Sa môn.



265/ Ai lắng dc hoàn toàn,

Các điều ác ln nhỏ,

Vì lắng du các pháp,

Được gọi là Sa môn.



265/ Vị nào lng dục tu chơn,

Lặng lẽ điều phục sạch trơn lòng phàm.

Không còn sanh khởi muốn ham

Bậc Sa môn ấy xứng làm cao tăng.



266/ Chỉ khất thc nhờ người,

Đâu phải là Tỳ kheo;

Phải theo pháp toàn diện,

Khất sĩ không, không đủ.



266/ Xin ăn hưởng ththanh nhàn

Mượn đạo nuôi sống mng căn qua ngày

Khất sĩ như vậy ung thay

Tỳ kheo chân chánh, đức dày qucao.



267/ Ai vượt qua thiện ác,

Chuyên sống đời Phạm hạnh,

Sống thẩm sát ở đời,

Mới xứng danh Tkheo.



267/ Sông mê bể khổ vượt mau

Chống thuyền bát nhã, tát gàu từ bi,

Như tht các pháp thm tri

Thế gian cao quý ai bì Tỷ kheo.



268/ Im lng nhưng ngu si,

Đâu được gọi ẩn sĩ;

Như người cm cán cân,

Bậc trí chọn điều lành.



268/ Để cho phiền não bám đeo

Dù ẩn trong núi thêm điều tệ hư,

Bậc trí dù giữa kinh sư

Sống theo trch pháp chơn như trọn lành.



269/ Từ bỏ mọi ác pháp,

Mới tht là ẩn sĩ.

Ai tht hiểu hai đời,

Mới được gọi ẩn sĩ.



269/ Đâu theo cái bả công khanh

Thỏng tay giữa chợ lợi danh chng màng,

Thiện ác hiểu rõ hai đàng

Đáng gọi ẫn sĩ giữa hàng phàm nhân.



270/ Còn sát hại sanh linh,

Đâu được gọi Hiền thánh;

Không hại mọi hữu tình,

Mới được gọi Hiền thánh.



270/ Còn sát hại để nuôi thân

Tổn thương sinh mng đâu gần hin nhơn,

Hữu tình dù tht cn con

Thánh hin cũng quý, cũng tôn trọng đời.



271/ Chẳng phi chỉ giới cấm,

ng không phải học nhiều,

Chẳng phi chng thiền định,

Sống thanh vng một mình.



271/ Dù sống thanh vng một nơi

Gìn giữ hạnh giới lục thi cần tu,

Thin chứng khi đang n cư

Cảm thọ an ổn “ không như phàm tình”.



272/ Ta hưởng an n lạc,

Phàm phu chưa hưởng được,

Tỳ kheo, chớ tự tin,

Khi lu hoc chưa diệt.



272/ Tỳ kheo chớ có tự tin

Khi chưa dứt sạch lục tình bn nhơ,

Vọng tâm lừa dối không ng

Khi lu chưa tận huyền cơ ẩn tàng.

 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/08/2010(Xem: 9545)
Chén cơm trong chốn lao tù, Con xin cúng Phật con tu quá đường ! Thế gian huyết hận đau thương ! Nghẹn nào lệ nhỏ vô phương kêu gào !.
12/08/2010(Xem: 8404)
Nằm ngủ ôm vầng trăng Đồi Cù nghiêng nghiêng mộng Đà Lạt chảy trong thân Tôi như rừng thông im bóng. Em như sương trăng áo mộng Đêm thu xưa quyến hớp hồn tôi.
04/08/2010(Xem: 6873)
Để hướng về Mùa Hiếu Hạnh Thiêng Liêng Để tưởng nhớ công ơn Công Đức Sinh Thành Để cùng nhau nhắc nhở Con Hiền Cháu Thảo Để đền đáp trong muôn một công đức Cha Mẹ Và lễ tạ Thù Ân Bốn Ơn Trọng cưu mang. Chúng tôi xin viết, cảm ơn quý vị đón nhận và phổ biến. Trân trọng, TNT Mặc Giang macgiang@y7mail.com
04/08/2010(Xem: 6253)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai Ơn sâu nghĩa nặng tình dài Đường quê lối nhỏ hoa cài thơm hương Tin yêu hòa ái mến thương Chia mưa sẻ nắng gió sương không màng Quê tôi còn đó đò ngang Chờ người lữ thứ miên man chưa về
04/08/2010(Xem: 6965)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai Thương sông, con nước chảy dài Nhớ biển, sóng vỗ miệt mài trùng dương Ra đi, vạn lý mù sương Rong rêu in bóng dặm đường phân ly Nhớ xưa, mấy thuở kinh kỳ Mà nay cũng lắm tư nghì hồn đau “Chiều chiều ra đứng ngõ sau Trông về quê Mẹ ruột đau chín chiều”
04/08/2010(Xem: 6692)
Rằng xưa, có Mục Kiền Liên Tu hành giác ngộ, chứng liền lục thông “Thiên nhãn”, “Thiên nhĩ” vô cùng “Tha tâm”, “Thần túc” thỉ chung rõ ràng “Túc mệnh”, “Lậu tận” vô can Đường xuôi lối ngược dọc ngang đi về Mục Liên bèn nhớ Mẫu hề
04/08/2010(Xem: 8975)
Bảy tình (thơ)
16/07/2010(Xem: 12500)
Vừa qua, được đọc mấy bài thơ chữ Hán của thầy Tuệ Sĩ đăng trên tờ Khánh Anh ở Paris (10.1996) với lời giới thiệu của Huỳnh kim Quang, lòng tôi rất xúc động. Nghĩ đến thầy, nghĩ đến một tài năng của đất nước, một niềm tự hào của trí tuệ Việt Nam, một nhà Phật học uyên bác đang bị đầy đọa một cách phi pháp trong cảnh lao tù kể từ ngày 25.3.1984, lòng tôi trào dậy nỗi bất bình đối với những kẻ đang tay vứt "viên ngọc quý" của nước nhà (xin phép mượn từ này trong lời nhận xét của học giả Đào duy Anh, sau khi ông đã tiếp xúc với thầy tại Nha trang hồi năm 1976: "Thầy là viên ngọc quý của Phật giáo và của Việt Nam ") để chà đạp xuống bùn đen... Đọc đi đọc lại, tôi càng cảm thấy rõ thi tài của một nhà thơ hiếm thấy thời nay và đặc biệt là cảm nhận sâu sắc tâm đại từ, đại bi cao thượng, rộng lớn của một tăng sĩ với phong độ an nhiên tự tại, ung dung bất chấp cảnh lao tù khắc nghiệt... Đạo vị và thiền vị cô đọng trong thơ của thầy kết tinh lại thành những hòn ngọc báu của thơ ca.
28/06/2010(Xem: 25229)
Ba môn vô lậu học Giới Định Tuệ là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn an lạc. Muốn đến Niết-bàn an lạc mà không theo con đường này thì chỉ loanh quanh trong vòng luân hồi ba cõi. Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ. Nhưng Giới học mênh mông, Định học mêng mông, Tuệ học mênh mông; nếu không nắm được “Cương yếu” thì khó bề hiểu biết chu đáo, đúng đắn. Không hiểu biết đúng đắn thì không sinh tâm tịnh tín; không có tâm tịnh tín thì sẽ không có tịnh hạnh, như vậy, con đường giải thoát bị bế tắc. Như một người học hoài mà vẫn không hiểu, tu hoàí mà vẫn không cảm nhận được chút lợi ích an lạc nào.
19/05/2010(Xem: 7993)
Đừng tưởng cứ trọc là sư Cứ vâng là chịu, cứ ừ là ngoan Đừng tưởng có của đã sang Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây Đừng tưởng cứ uống là say Cứ chân là bước cứ tay là sờ Đừng tưởng cứ đợi là chờ Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần Đừng tưởng cứ mới là tân
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567