Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

22. Kinh Ví Dụ Con Rắn

19/05/202008:07(Xem: 8817)
22. Kinh Ví Dụ Con Rắn

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com



22. Kinh VÍ DỤ CON RẮN  – Kinh Xà Dụ –

( Alagaddùpama sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn an trụ

          Kỳ Viên Tự  – Chê-Tá-Va-Na

              Do Cấp-Cô-Độc tín-gia

A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka – cúng dàng

          Lúc bấy giờ, có hàng Phích-Khú(1)

          Tên gọi cũ là A-Rít-Tha  (2)

              Khi xưa nghề cũ làm qua

       Chim ưng huấn luyện, thật là giỏi giang

Đã xuất gia nhưng mang tà kiến

          Sư khởi lên một chuyện, nói ra :

‘Như ta hiểu pháp Phật Đà

       Ngài đã thuyết giảng, đem ra thọ dùng

          Pháp Thế Tôn gọi chung chướng ngại

          Thật sự không chướng ngại gìđâu’.

              Sốđông Tỷ Kheo từ lâu

       Nghe câu chuyện của hoạt đầu Tỷ Kheo

          Trước đây theo nghề nuôi, huấn luyện

          Loài chim ưng, nhưng hiện xuất gia

              Khởi lên kiến chấp ác tà,

       Các Tỷ Kheo ấy liền qua gặp liền.

Điều đầu tiên hỏi A-Rít-Thá :

    _______________________________

   (1) :  Bhikkhu - được phiên âm là Tỳ-Khưu hay Tỷ-Kheo , dịch là

           Khất sĩ .

  (2) : Tỷ Kheo Arittha .

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 306

 

    – “ Cóđúng thật Hiền-giả khởi lên

Ác tà kiến cứ chấp bền :

 ‘Như ta hiểu pháp không quên tí gì

          Đức Thế Tôn thường khi thuyết pháp

          Chướng ngại pháp khi thọ dụng thì

              Thật sự không chướng ngại gì’

       Có phải Hiền-giả truyền đi điều này ? ”.

     – “ Thưa Chư Hiền ! Đúng ngay như thế ”.

          Chư Tỷ Kheo không thể bỏ qua

              Muốn Tỷ Kheo A-Rít-Tha

       Từ bỏ kiến chấp ác tà trái ngang,

          Liền cật vấn, luận bàn hòa nhã :          

    – “ Hiền-giả A-Rít-Thá ! Việc này

              Sư chớ có nói như vầy

       Chớ nên xuyên tạc bậc Thầy Nhân Thiên

          Xuyên tạc Phật dĩ nhiên không tốt

          Thế Tôn chưa từng thốt lời này.

              Chướng-ngại-pháp Ngài dạy đây

       Bằng nhiều phương tiện trình bày pháp môn

          Và những ai vẫn còn thọ dụng

          Bị chướng ngại do chúng gây nhiều.

              Thế Tôn thuyết giảng các điều

       Vềdục não hại khổ nhiều, ít vui,

          Thọ dụng chúng là nuôi nguy hiểm

          Bị uế nhiễm, khổ não nhiều thay !

              Thế Tôn dạy các dục này

       Ví như miếng thịt, cũng tày khúc xương

          Như hố than vẫn thường hừng đỏ

          Như bóđuốc bằng cỏ khô lau

              Ví như cơn mộng ảnh bào

       Vật dụng cho mượn phải nào của ta.

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 307

 

          Các dục ví như là cây trái

          Như lò thịt hay gậy nhọn đầu

              Các dục cũng được ví vào

       Như đầu con rắn, hay bao dụ rày,

          Các dục này khổ nhiều, vui hiếm

          Và do vậy, nguy hiểm khôn chừng ”.

 

              Xưa nghề huấn luyện chim ưng

       Sư A-Rít-Thá không ngừng ý riêng

          Dù có duyên xuất gia theo Phật

Ác tà kiến chấp chặt, hành theo

              Dù được các vị Tỷ Kheo

       Luận bàn, chất vấn, vẫn đeo kiến tà.

          Các Tỷ Kheo thấy là vôích

          Khiến Tỷ Kheo A-Rít-Tháđây

              Từ bỏác tà kiến này

       Nên họ đến chỗ Phật ngay tức thì

Đảnh lễ Ngài rồi thì ngồi kế

          Bạch với đấng Thiện Thệ Phật Đà(1) :

        – “ Bạch Thế Tôn ! Chuyện xảy ra

       Do Tỷ Kheo A-Rít-Tha đã từng

          Nghề huấn luyện chim ưng có tiếng

          Khởi lên ác tà kiến , nói ra :

            ‘Theo tôi hiểu, Pháp Phật Đà

Đã được thuyết giảng, khi ta thọ dùng

   ____________________________

 

(1) : 2 trong 10 danh hiệu (Thập Hiệu ) người đời xưng tụng Đức

   Phật : Araham (Ứng Cúng), Sammàsambuddho (Chánh Biến Tri hay Chánh Đẳng Chánh Giác) , Vijjàcaranasampanno (Minh Hạnh Túc) , Sugato (Thiện Thệ), Lokavidù (Thế Gian Giải), Anuttaro (Vô Thượng Sĩ), Purisadammasàrathi (Điều Ngự Trượng Phu), Satthà-devamanussànam (Thiên Nhân Sư) , Buddho (Phật hay Phật-Đà), Bhagavà (Thế Tôn) .

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 308

 

          Những pháp được gọi chung chướng ngại

          Thật sự không chướng ngại gìđâu !”            

 

              Chúng con nghe vậy, đến mau

       Để gặp vịấy, bàn vào việc đây

          Sư xác nhận điều này có thật

          Nhưng chấp chặt tà kiến của mình

              Chúng con cố gắng thuyết minh

       Cật vấn, thảo luận, tận tình chỉ ra

          Chớ xuyên tạc Phật Đà chân ngữ

          Chớ có tự nói vậy, không nên

              Thế Tôn thường thuyết, nói lên

       Pháp môn vi diệu dựa trên Thánh điều

          Về các dục khổ nhiều, vui hiếm

          Và do vậy nguy hiểm nhiều hơn.

              Dù được vạch rõ nguồn cơn

       Nhưng A-Rít-Thá chẳng ơn nghĩa gì

          Vẫn tà kiến chấp trì không đổi

          Nên chúng con đến hỏi Phật Đà

              Làm sao với việc xảy ra ? ”.             

       Nghe xong, Thiện Thệ từ hòa gọi ngay

          Vị Tỷ Kheo bên Ngài lúc ấy :

     – “ Này Tỷ Kheo ! Con hãy đi qua

              Chỗ Tỷ Kheo A-Rít-Tha

       Nói rằng hãy đến gặp Ta tức thì ”.

          Tỷ Kheo ấy liền đi hối hả

          Gặp Sư A-Rít-Thá , chuyển lời.

              A-Rít-Thá vội đến nơi

Đảnh lễ Đức Phật đoạn ngồi một bên.

 

          Phật hỏi câu chuyện trên được kể

          Có phải đúng như thế hay không ?

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 309

 

              A-Rít-Tháđáp thật lòng :

 – “ Bạch Phật ! Đúng vậy chứ không sai gì ”.

    – “ Này kẻ quá ngu si, tựđại !

          Tại sao ông hiểu trái lời Ta ?

              Những pháp Ta thuyết giảng ra

       Dùng nhiều phương thức cùng là pháp môn

          Chướng-ngại-pháp là hôn ám lắm

          Ai say đắm thọ dụng chúng đây

Đủ bị chướng ngại dẫy đầy

       Ta dạy các dục ởđây đủđiều

          Các dục vốn khổ nhiều, vui ít

          Và mờ mịt, nguy hiểm nhiều thay !       

              Như Lai dạy các dục này

       Ví như miếng thịt, cũng tày khúc xương

          Như hố than vẫn thường hừng đỏ

          Như bóđuốc bằng cỏ khô lau

              Ví như cơn mộng ảnh bào

       Vật dụng cho mượn phải nào của ta.

          Các dục ví như là cây trái

          Như lò thịt hay gậy nhọn đầu

              Các dục cũng được ví vào

       Như đầu con rắn, hay bao dụ rày,

          Các dục này khổ nhiều, vui hiếm

          Và do vậy, nguy hiểm tối đa.

              Này kẻ ngu si, mê tà !

       Không những ông xuyên tạc Ta sai lầm

          Vì chấp thủ với tâm sai lạc

          Mà mặt khác, ông tự hại mình

              Tạo nhiều tổn đức vô minh

Đưa đến bất hạnh cho mình dài lâu ”.

 

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 310

 

          Rồi Thế Tôn hướng vào Tăng Chúng

          Đặt câu hỏi với Chúng Tỷ Kheo :

        – “ Nghĩ thế nào, chư Tỷ Kheo !

       Với ác tà kiến hướng theo chẳng lìa

          Có thể khởi lên tia lửa sáng

          Trong Pháp, Luật viên mãn này không ? ”.

        – “ Bạch Thế Tôn ! Chắc chắn không !

       Làm sao có thể khởi trong Pháp lành ! ”.

          Nghe Chư Tăng đồng thanh đả phá

          A-Rít-Thá hổ thẹn, cúi đầu

              Câm miệng, rụt vai, lo âu 

       Thế Tôn thấy vậy, nói sâu vấn đề :

       “ Kẻ ngu mê ! Người ta sẽ biết

Ông cóác tà kiến như vầy.

              Ta hỏi các Tỷ Kheo đây :

       Này Tỷ Kheo Chúng ! Như Lai giảng bày

          Các ông có hiểu ngay tất cả

          Giống như A-Rít-Thá hiểu không ?

              Các chướng-ngại-pháp chẳng thông

       Không những xuyên tạc Ta trong điểm này

          Vì chấp thủ dẫy đầy sai lạc

          Mà mặt khác tự phá hoại mình

              Gây nhiều tổn đức vô minh ”.

 

 – “ Kính bạch Đại Giác ! Quả tình chúng con 

          Luôn sắt son tin lời Phật dạy

          Không hiểu bậy như A-Rít-Tha .

              Ngài dùng nhiều cách thuyết ra

       Về chướng-ngại-pháp thật là hiểm nguy

          Về các dục cực kỳ mù mịt

          Nó khổ nhiều, vui ít, lo sầu

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 311

 

              Não nhiều, nguy hiểm càng cao

       Dùng nhiều ví dụ trước sau trình bày

          Các dục này giống y đầu rắn

          Và chắc chắn vui ít, khổ nhiều

              Não nhiều, nguy hiểm càng nhiều ”.

 – “ Này Tỷ Kheo Chúng ! Hiểu điều cần đây.

Chư Tỷ Kheo ! Lành thay điều ấy !

          Các ông hiểu như vậy pháp ta

              Ta vẫn thường thuyết giảng ra

       Về chướng-ngại-pháp, ai qua thọ dùng

          Tự sẽ bị vô cùng chướng ngại

          Bị chướng ngại do chúng gây nhiều

              Ta đã thuyết giảng các điều

       Vềdục não hại khổ nhiều, ít vui,

          Thọ dụng chúng là nuôi nguy hiểm

          Bị uế nhiễm, khổ não nhiều thay !

              Thế Tôn dạy các dục này

       Ví như miếng thịt, cũng tày khúc xương

          Như hố than vẫn thường hừng đỏ

          Như bóđuốc bằng cỏ khô lau

              Ví như cơn mộng ảnh bào

       Vật dụng cho mượn phải nào của ta.

          Các dục ví như là cây trái

          Như lò thịt hay gậy nhọn đầu

              Các dục cũng được ví vào

       Như đầu con rắn, hay bao dụ rày,

          Các dục này khổ nhiều, vui hiếm

          Và do vậy, nguy hiểm tối đa.  

              Nhưng Tỷ Kheo A-Rít-Tha

       Không những đã xuyên tạc Ta sai lầm     

          Vì chấp thủ với tâm sai lạc

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 312

 

          Mà mặt khác, ông tự hại mình

              Tạo nhiều tổn đức vô minh

Đưa đến bất hạnh cho mình dài lâu ”.

Chư Tỷ Kheo ! Dựa vào như thế

          Sự kiện này không thể xảy ra :

              Là người ta có thểđòi

       Thọ dụng các dục ở ngoài dục đây,

          Ngoài dục tầm, ngoài ngay dục tưởng.

 

( Ví dụ con rắn )

Chư Tỷ Kheo ! Hãy mượn dụ ni :

              Như một số người ngu si

       Vì muốn học Pháp, thọ trì với Kinh    

          Thấy nhiều kinh : Giải thuyết, Ứng tụng,

          Rồi Kệ tụng, Cảm-ứng-ngữ  lành

              Như-thị-ngữ và Bổn-sanh,

       Vị-tằng-hữu-pháp sẵn dành đinh ninh

          Phương-quảng-kinh … họ đều học cả.

          Sau khi đã học các kinh này

              Nhưng không quán sát đủ đầy

Ý nghĩa những pháp bằng ngay trí mầu.

          Vìý nghĩa thâm sâu pháp ấy

          Không được lấy trí tuệ quán soi

              Nên không rõ nghĩa tuyệt vời.

       Họ học các pháp do nơi nghĩ rằng :

          Vì họ hằng muốn riêng lợi ích,

          Muốn chỉ trích những người khác luôn,

              Muốn khoái khẩu biện luận suông,

       Nhưng họ không được thấm nhuần bao nhiêu

          Không đạt được mục tiêu tối thượng

          Mà sự học pháp hướng đến ngay.

 

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 313

 

              Nắm sai lạc các pháp này

       Dẫn đến bất hạnh, lâu dài khổđau.

 

Chư Tỷ Kheo ! Như sau ví dụ :

          Một người nọ thích thú sưu tầm

Ưa các loại rắn hay trăn

Đi tìm khắp chỗ : đồng bằng, núi non,

          Người đó thấy một con rắn lớn

          Liền táo tợn chụp bắt rắn này

Ở lưng hay ởđuôi ngay

       Có thể con rắn đã quay cắn liền

          Không chỉ riêng cánh tay, đầu, cổ

          Mà những chỗ khác của thân y

              Có thể bị cắn tức thì

       Do nguyên nhân đó nên y chết liền

          Hoặc ưu phiền vì mang bệnh nặng

          Do nọc rắn phát tán, khổ thay !

              Vì sao vậy ! Vì người này

       Nắm bắt con rắn làm sai cách rồi !

          Cũng như vậy, vì nơi hành động

          Nắm giữ pháp mê vọng, lầm sai

              Chấp thủ sai lạc pháp đây

Đưa đến bất hạnh, lâu dài khổđau.

 

      *  Trường hợp khác, vị nào tương tự

          Thiện-nam-tử học pháp cao minh

              NhưỨng-tụng hay các kinh :

       Giải-thuyết, Kệ-tụng, Bổn-sinh … chẳng trừ

          Cảm-ứng-ngữ hay Như-thị-ngữ

          Phương-quảng, Vị-tằng-hữu-pháp này.

              Sau khi học hết pháp đây

       Trí tuệ quán sát nghĩa đầy thâm sâu

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 314

 

          Những pháp ấy, nhờ vào tuệ trí

          Quán sát kỹ nên rất rõ ràng,

              Họ học các pháp, hoàn toàn

       Không vì tư lợi, lo toan cho mình,      

          Cũng không sinh ghét ganh phản bác

          Chỉ trích những người khác luôn luôn,

              Không khoái khẩu biện luận suông,

       Họđạt mục đích Pháp thuần chánh chân

          Mà sự học pháp cần hướng tới

          Vì khéo nắm giữ với pháp này

Đưa đến hạnh phúc lâu dài

       Vì sao như vậy ? Vì thầy Tỷ Kheo

          Khéo nắm giữ, hành theo đúng pháp.

 

Chư Tỷ Kheo ! Thuận hạp điểm này

              Là một ví dụởđây :

       Một người thích rắn, đi ngay tìm hoài     

          Vào rừng sâu săm soi khắp chỗ

          Rồi người đó thấy con rắn to

              Vốn tính cẩn thận, khéo lo

       Dùng gậy có nạng, tay thòđè ngay

          Sau khi đè với cây gậy nạng

          Bắt lấy rắn ởđoạn cổ này

              Dù rắng vùng vẫy lộn quay

       Cuốn thân của nó vào tay người này

          Cánh, cổ tay hay vào chỗ khác.

          Nhưng con rắn chẳng thoát tay y

              Do nhân duyên đã thực thi

       Biết cách nắm giữ, nên y an toàn

          Không bị chết hay mang thương tật

          Hoặc gần chết, tổn thất, khổđau.     

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 315

 

              Cũng vậy, thiện-nam-tử nào 

       Chân thành học pháp nhiệm mầu huyền vi

          Khéo nắm giữ, hành trì các pháp,

Chư Tỷ Kheo ! Hãy nạp thọ ngay

              Hiểu rõý nghĩa lời này

       Ta đã thuyết giảng, nhưđây thọ trì.

          Nếu có ai do vì không hiểu

          Lời Ta giảng chưa liễu nghĩa ngay

              Thì hãy hỏi nơi Ta đây

       Hay những Tôn-giảđủ đầy trí minh.

 

( Ví dụ chiếc bè )

Chư Tỷ Kheo ! Hãy hình dung đủ

          Ta giảng pháp ví dụ chiếc bè

              Không phải để giữ kè kè

       Mà để hành giả dùng bè vượt sông.

          Các Tỷ Kheo ! Các ông nghe kỹ,

          Khéo tác ý, Ta sẽ giảng ngay ”.

 

        – “ Bạch Thế Tôn ! Xin vâng Ngài ”.

       Rồi Thế Tôn đã khoan thai giảng rằng :

     – “ Tỷ Kheo Tăng ! Ví như người nọ

Đi trên đường gian khó quá dài

              Đến một vùng nước rộng thay

       Trong khi bờ của bên này hiểm nguy

          Bên kia thì tươi vui an ổn,

          Nhưng khắp chốn bến nước bên này

              Không một chiếc thuyền ởđây

       Cũng không cầu để người này qua sông

          Người ấy nghĩ : ‘Mặt sông quá rộng

          Không có thuyền, chèo chống làm sao ?

              Nơi đây lại chẳng có cầu

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 316

 

       Chắc là ta phải tự thao tác làm

          Dùng cỏ, cây, nhánh, gom cho được

          Cột thành bè để vượt qua sông   

              Dùng chân, tay bơi theo giòng

       Có thể đến được bờ sông kia liền !’

          Nghĩ là làm, cần chuyên thực hiện

          Nhờ chiếc bè thuận tiện vượt sang

              Bờ bên kia được an toàn.

       Nhưng khi người ấy đã sang bờ rồi

          Y tức thời nghĩ suy, phấn khích :

         ‘Chiếc bè này lợi ích lớn lao

              Ta đã tinh tấn dựa vào

       Qua sông sâu rộng biết bao an toàn,

          Vậy ta hãy vác mang bèấy

          Hoặc đội đầu, như vậy về nhà’.

Chư Tỷ Kheo ! Việc xảy ra

       Các ông thử nghĩ sâu xa thế nào ?

          Người này có mau mau làm đúng

          Vào sở dụng của chiếc bè không ? ”.

        – “ Bạch Thế Tôn ! Chắc chắn không ”.

 – “ Này Tỷ Kheo Chúng ! Phải mong thế nào

          Dùng chiếc bè đúng vào sở dụng ?

          Suy nghĩđúng của chính người này :

             ‘Chiếc bè thật lợi ích thay !

       Giúp ta vượt khỏi sông này bình an

          Dùng tay, chân bơi sang tinh tấn

          Nhưng nay ta hãy nhận chìm bè

              Hay ta hãy kéo chiếc bè

       Lên trên bờ đất, xong về nhà thôi !’                     

Chư Tỷ Kheo ! Vậy thời sở dụng

          Của chiếc bè dùng đúng ởđây.

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 317

 

              Cũng vậy, Ta thuyết pháp này

       Như chiếc bè để vượt ngay hải hà

          Không phải để thiết tha nắm giữ.

Chư Tỷ Kheo ! Phải tự hiểu đây

              Về ví dụ chiếc bè này,

       Chánh pháp còn phải bỏ ngay chẳng nề

          Huống nữa là thuộc về phi pháp.

 

( Các kiến xứ )

Chư Tỷ Kheo ! Học pháp tiếp đây 

              Nói vềsáu kiến-xứ này

       Thế nào là sáu ? Ởđây hiểu rằng :

          Kẻ vô văn phàm phu, lười biếng

          Không yết kiến các bậc Thánh-nhân

              Lại không thuần thục pháp phần,

       Không tu tập pháp Thánh-nhân xuất trần

          Không yết kiến Chân-nhân các vị

          Là những bậc đại sĩ tịnh thân

              Không thuần thục pháp Chân-nhân

       Cũng không tu tập pháp phần Chân-nhân.

          Xem Sắc(1) pháp xa gần tất cả

         ‘Là của tôi’, ‘tự ngã của tôi’

              Sắc-pháp này chính ‘là tôi’

 

       Và xem cảm thọ cùng nơi tưởng, hành(1)

          Xem cái gì nghe rành, thấy được

          Được cảm xúc và được đạt vào

              Được ýthức(1), được tìm cầu

       Được ý suy nghĩ nông sâu như vầy :

    _______________________________

  (1) : Năm Thủ Uẩn hay NgũẤm (Upàdànakkhandha) gồm:

         Sắc ( rùpa ), Thọ ( vedanà ), Tưởng ( sannà ), Hành

         ( sankhàrà), Thức ( vinnàna ) .

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 318

 

         ‘Là của tôi’ cái này, ‘tôi đó’ !

          Cũng chính đó ‘tự ngã của tôi’.

              Bất cứ kiến xứ nào rồi

       Cũng nói : ‘Thế giới đây thời tự tri,

Đây tự ngã, sau khi đã chết

          Không phải hết, tôi sẽ thường còn

              Thường hằng, thường trú sắt son

       Không hề biến chuyển, tôi còn trúđây

          Như thế này trải qua mãi mãi’.

          Xem như vậy : ‘Cái này là tôi’

             ‘Của tôi’, ‘tự ngã của tôi’.

 

       Này Tỷ Kheo Chúng ! Đồng thời có ra

          Thánh-đệ-tử vịđa-văn nọ

          Đến yết kiến để thọ chánh chân

              Các bậc Thánh-nhân, Chân-nhân

       Thuần thục, tu tập pháp phần Thánh-nhân

          Và Chân-nhân . Rồi xem sắc-pháp

         ‘Cái này thật không phải của tôi’

             ‘Cái này không phải là tôi’

      ‘Không phải tự ngã của tôi’ như vầy.

 

          Xem cảm thọ : ‘Cái này không phải

          Là của tôi’, ‘không phải là tôi’

             ‘Không phải tự ngã của tôi’.

       Xem các hành, tưởng, cũng thời như trên.

          Xem cái gì các bên được thấy

          Được cảm xúc, như vậy được nghe

              Được ý thức, đạt mọi bề

       Được tìm cầu , được ý về suy tư :

        “Chẳng chần chừ, cái này ‘không phải

          Là của tôi’, ‘không phải là tôi’

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 319

 

             ‘Không phải tự ngã của tôi’. 

       Bất cứ kiến-xứ nào rồi trải qua

          Đều nói rằng : “Đây là thế giới,

          Là tự ngã, cho tới chết rồi

              Vẫn là thường hằng với tôi

       Thường trú, bất biến và tôi thường còn

          Tôi sẽ trú sắt son mãi mãi ”.

          Xem như vậy, ‘không phải là tôi’

             ‘Của tôi’, ‘tự ngã của tôi’

       Vị này quán sát tới nơi như vầy.

          Với sự vật mảy may như vậy

          Chẳng thật có ; người ấy an nhiên

              Đều không lo âu, muộn phiền”.

 

( Lo âu )

       Tỷ Kheo một vị nghe, liền thưa qua : 

    – “ Bạch Phật Đà ! xin Ngài giảng rõ

          Có thể có cái gìđâu đâu

              Không thực cóở ngoài nào

       Có thể sẽ khiến lo âu muộn phiền ?”

 

    – “ Này Tỷ Kheo ! Có liền như vậy

          Có người nghĩ : “ Tôi thấy được rồi :

              Cái gìđã chắc của tôi

       Không còn chắc chắn của tôi nay rồi !

          Cái có thể của tôi chắc chắn

          Tôi chắc chắn không được nó rồi ”

              Người đó sầu muộn, thốt lời

       Than vãn, đấm ngực, tức thời hôn mê ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Còn vềđiểm nọ

          Có thể có cái gìđâu đâu

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 320

 

              Không thực cóở ngoài nào

       Có thể không khiến lo âu, muộn phiền ? ”.

 

    – “ Này Tỷ Kheo ! Có liền phương diện

          Một người có tà kiến, tự tri :         

             ‘Đây là thế giới diệu kỳ,

Đây là tự ngã ; sau khi mãn phần

          Sẽ thường còn, thường hằng, thường trú

          Không biến chuyển. Tôi sẽ trúđây

              Cho đến mãi mãi chẳng thay ”.

       Người này nghe được Như Lai, hay là

          Đệ tử của Như Lai thuyết pháp

          Để trừ bạt kiến-xứ mọi điều

              Bạt trừ thiên chấp, chấp nhiều

       Tùy miên, thiên kiến triệt tiêu dần dần

          Sựđình chỉ mọi phần hành động

          Từ bỏ chóng với mọi sanh y

              Diệt trừ khát ái những gì

Đưa đến đoạn diệt, tham ly, Niết-bàn.

          Có thể người này đang suy nghĩ :

         ‘Chắc chắn ta sẽ bị diệt trừ

              Chắc chắn ta bị đoạn trừ

       Ta không tồn tại lâu như mong cầu’.

          Rồi người đó muộn sầu, than vãn

          Khóc lóc, đoạn đấm ngực, mê man.

              Này chư Tỷ Kheo ! Rõ ràng        

       Có cái không thực có, đang trong này

          Có thể gây lo âu, phiền muộn ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Trạng huống khác đi :

              Có thể nào có cái gì

       Nó không thực có bất kỳở trong

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 321

 

          Mà nó không gây lo, phiền muộn ? ”.

 

    – “ Có thể có trạng huống như vầy : 

              Người không tà kiến, ởđây

       Không nghĩ : ‘Thế giới làđây, chấp trì

Đây tự ngã ; sau khi đã chết

          Không phải hết, tôi sẽ thường còn

             Thường hằng, thường trú sắt son

       Không hề biến chuyển, tôi còn trúđây

          Cho đến như thế này mãi mãi’.

          Vì ngưởi ấy không nghĩ như vầy

              Nên khi được nghe Như Lai

       Hay là đệ tử Như Lai thuyết rành

          Để trừ bạt mọi ngành kiến-xứ

          Sự cố chấp và sự tùy miên

              Thiên chấp, thiên kiến ngả nghiêng

       Tịnh chỉ hành động, dứt liền sanh y

          Sự diệt trừ để ly tham ái

          Sựđoạn diệt, tự tại Niết Bàn,

              Người ấy không nghĩ lan man :

      ‘Chắc chắn ta sẽ trải sang đến phần

          Sẽđoạn diệt, chắc rằng hoại diệt

          Không tồn tại là việc chắc ăn’.

              Nên không sầu muộn, khóc than

       Cũng không đấm ngực, mê man lâu dài.

Chư Tỷ Kheo ! Như vầy chứng tỏ

          Có cái không thực cóở trong

              Không gây phiền muộn, buồn lòng ”.        

 

( Vô thường và vô ngã )

    “ Này Tỷ Kheo Chúng ! Các ông thể nào

          Nắm giữ một vật nào, sở hữu

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 322

 

          Và vật ấy trường cữu, thường còn

              Thường hằng, thường trú sắt son

       Không hề chuyển biến, vẫn còn trúđây

          Như thế này, lâu dài mãi mãi ?

          Hoặc có thấy sở hữu vật nào

Đã được sở hữu sít sao

       Vật sở hữu ấy dài lâu thường còn

          Sẽ thường hằng sắt son, thường trú

          Không chuyển biến, vẫn trúở trong

              Như thế này mãi mãi không ? ”.

 

 – “ Bạch Thế Tôn ! Chắc chắn ‘không’ như vầy ”.

    – “ Chư Tỷ Kheo ! Lành thay điều ấy !

          Ta không thấy vật sở hữu nào

Đã được nắm giữ sát sao

       Mà nó thường trú, bền lâu thường hằng

          Không chuyển biến, trú an mãi mãi.

          Các Tỷ Kheo ! Hiện tại các ông

              Có thể chấp thủ thuận đồng

       Về Ngã-luận-thủ, mà trong thủ này

          Được chấp thủ như vầy rốt ráo

          Không khởi ưu, khổ, não, bi không ? ”.

 

        – “ Bạch Thế Tôn ! Chắc chắn không ”.

 – “ Lành thay ! Phích-Khú các ông nghe này :         

          Ta cũng không thấy rày xác lập

          Ngã-luận-thủ được chấp thủ nào

              Lại không khởi lên ưu, sầu,

       Cả bi, khổ, não cũng mau khởi đồng .

Chư Tỷ Kheo ! Các ông nghe rõ :

          Kiến-y nào đã cóởđây

              Mà nó được y chỉ vầy

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 323

 

       Lại không phát khởi khổ đầy, sầu, bi

          Cảưu, não, kiến-y có đấy

          Lại không khởi như vậy hay không ? ”.

        – “ Bạch Thế Tôn ! Chắc chắn không ”.

 – “ Lành thay ! Phích-Khú các ông hiện thì !

          Ta không thấy kiến-y thếđó

          Lại không khởi não, khổ, ưu, sầu

              Các ông ! Nếu có ngã nào

       Thì có ngã-sở-thuộc vào tôi không ? ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Điều này thì có ”.

    – “ Vậy nếu có ngã-sở-thuộc xong

              Thì có ngã của tôi không ? ”.

 – “ Bạch Thế Tôn ! ‘Có’ ở trong điểm này ”.          

    – “ Chư Tỷ Kheo ! Như vầy rốt cuộc

          Ngã và ngã-sở-thuộc có ra

              Không thể được chấp nhận là

       Thường còn, bất biến, thì qua trình bày   

          Kiến-xứ này : ‘Đây là thế giới

Đây tự ngã, khi tới tử vong

              Tôi sẽ thường hằng, thường còn

       Và không biến chuyển, sắt son thế này

          Tôi sẽ trú như vầy mãi mãi’

          Kiến xứấy triệt để, viên thông

              Và chẳng ngu si phải không ? ”.

 – “ Bạch Phật ! Sao dễ viên thông, hoàn toàn

          Triệt để càn, chẳng ngu si được ! ”.

 

    – “ Các Tỷ Kheo ! Giản lược hiểu tường

Sắc là thường hay vô thường ? ”

 – “ Bạch Thiện Thệ ! Sắc vô thường làđây ”.

    – “ Là vô thường, lạc hay là khổ ? ”

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 324

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Là khổ, bất an ”.

        – “ Cái gì vô thường, khổ mang

       Chịu sự biến hoại rõ ràng tự tri

          Có hợp lý chăng khi chánh quán :

         ‘Cái này đáng ‘của tôi’, ‘là tôi’

              Nó là ‘tự ngã của tôi’ ? ”.     

   – “ Bạch đức Thiện Thệ ! Quả thời là không ”.

    – “ Chư Tỷ Kheo ! Hiểu thông  thọ, tưởng

          Và các hành theo hướng là thường

              Hay là chúng đều vô thường ? ”

 

 – “ Bạch Phật ! Hết thảy vô thường cả ba ”.

    – “ Cái gì là vô thường, khổ mãi

          Và chịu sự biến hoại dần dần

              Thì nó có hợp lý chăng

       Khi nói : “ Cái ấy là phần ‘của tôi’

          Chính cái này ‘là tôi’ tất cả

          Cái này là ‘tự ngã của tôi’ ? ”

 

        – “ Bạch Phật ! Chính là ‘không’ thôi ! ”

 – “ Do vậy, bất cứ Sắc nơi thời nào

          Vào quá khứ hay vào hiện tại

          Vào tương lai, nội, ngoại, tế, thô

              Liệt, thắng, xa, gần … xô bồ

       Tất cả Sắc pháp gồm vô, đều là

         ‘Cái này không phải ‘là tôi’ đó

          Cái này có, không phải ‘của tôi’

              Không phải ‘tự ngã của tôi’

       Cần phải như thật quán nơi tự mình,

          Với trí tuệ quang minh sáng tỏ

 

      *  Rồi bất cứ cảm thọ, tưởng, hành

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 325

 

              Bất cứthức … đều rõ rành

       Quá khứ, hiện tại hay dành vị lai

          Nội hay ngoại, tế hay thô thiển

          Liệt hay thắng, là viễn hay gần

              Thọ, tưởng, hành, thức… các phần

       Phải như thật quán tinh cần liễu nhân

          Với trí tuệ chánh chân như vậy.

 

Chư Tỷ Kheo ! Nhờ thấy điều này

Đa văn Thánh-đệ-tửđây

       Yểm ly với Sắc, xa ngay tức thì

          Là yểm ly Thọ, tưởng, hành, thức

          Do yểm ly, chân thực ly tham

              Được giải thoát do ly tham

       Trong sự giải thoát, bao hàm điều trên

          Trí khởi lên, biết là giải thoát

          Tâm an lạc, vịấy biết rành :

            ‘ Sanh đã tận, phạm-hạnh thành

       Việc cần thực hiện hoàn thành rồi đây !

          Không trở lui tại đây lần nữa

          Không lần lữa đời sống khác nào ”.                

 

( Bậc A-La-Hán )

Chư Tỷ Kheo ! Thật thanh cao

       Vị Tỷ Kheo ấy đạt vào uy nghi

          Gọi là vị vất đi chướng ngại

Đã lấp lại hố thẳm, thông hào

              Nhổ lên cột trụ chôn sâu

       Mở tung lề khóa từ lâu đóng hoài

          Hạ cờ xuống thẳng ngay bậc Thánh

Đã đặt gánh nặng xuống tức thì

              Cũng không có hệ lụy gì.

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 326

 

    * Thế nào là vị vất đi, bỏ liền

          Các chướng ngại, chướng duyên cần thiết ?

       – Là Tỷ Kheo đã diệt vô minh

              Cắt tận gốc rễ, tuyệt sinh

       Như Sa-La thọ, đầu thình lình rơi

          Vì bị chặt, không đời nào sống !

          Không hy vọng tiếp tục sống vầy

              Không thể sinh khởi tương lai.

       Như vậy, Phích-Khú vất ngay chướng rồi.

 

Chư Tỷ Kheo ! Đồng thời hiểu đủ

       * Thế nào là Phích-Khú lấp đầy

              Các hầm hố, thông hào ngay ?

    – Vị Tỷ Kheo ấy ởđây đoạn trừ

          Sự tái sinh đã từ muôn kiếp

          Sự chuyển tiếp sinh tử luân hồi

Đã cắt tận gốc rễ rồi

       Như Sa-La thọ đầu thời chặt ngang.

          Vậy rõ ràng Tỷ Kheo đã lấp

          Các thông hào đề cập ở trên.        

           * Thế nào Tỷ Kheo nhổ lên

       Cột trụ chôn chặt vững bền xưa nay ?

       – Tỷ Kheo này đoạn trừ khát ái

          Cắt tận cái gốc rễ vươn sâu

              Như Sa-La bị chặt đầu

       Khiến cây đó không thể nào tái sanh

          Không khả năng tương lai sinh khởi

          Cột trụ được nhổ bởi vị này.

              Các Tỷ Kheo ! Còn ởđây

       Mở tung lề khóa như vầy là sao ?

       – Vị Tỷ Kheo đã mau đoạn diệt

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 327

 

          Về cả năm phần kiết-sử rồi       

              Cắt tận gốc rễ tức thời

       Như Sa-La thọ chặt rời đầu ra

          Như vậy là Tỷ Kheo này đã

          Mở tung các lề khóa ra ngay.

           – Thế nào Tỷ Kheo ởđây

       Bậc Thánh-đệ-tử  hạ ngay lá cờ ?

          Cả gánh nặng bây giờ đặt xuống

          Trong trạng huống không hệ lụy gì ?

              Các Tỷ Kheo ! Phải tuệ tri

       Tỷ Kheo vịấy tức thì diệt ngay

          Các ngã mạn, cắt rày gốc rễ

          Như Sa-La đã để cắt đầu

              Tương lai không thể sống lâu

       Khả năng sinh khởi không sao có rồi !

Chư Tỷ Kheo ! Vậy thời trong cảnh

          Vị Tỷ Kheo bậc Thánh chẳng nề

               Hạ ngay cờ xuống một bề

Đạt gánh nặng xuống, không hề vướng chi.         

Chư Tỷ Kheo ! Một vì Phích-Khú

Đã giải thoát đầy đủ như vầy

              Thì chư Thiên Đạo Lợi (1)đây

    ( Đế Thích Thiên chúa cõi này Băm Ba (1)),

          Phạm-Thiên (2) giới hay Sanh-Chủ giới

          Tìm không tới dấu vết vị này,

              Nếu nghĩ rằng : ‘Y ởđây !

       Đồng thời có thức Như Lai’ hiển bày.

          Vì sao vậy ? Vì ngay hiện tại

          Không tìm thấy dấu vết Như Lai. 

    _______________________________

(1)   & (2) : Xem chú thích ở trang kế .

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 328

 

 ( Xuyên tạc Như Lai )

              Khi nghe Ta nói như vầy

       Và thuyết như vậy, có vài Sa-môn &

          Bà-la-môn hồ đồ xuyên tạc

          Một cách thật hư vọng, phi chơn :

           “ Sa-môn Kiều-Đàm chủ trương

       Hư vô chủ nghĩa và thường đề cao

          Sự đoạn diệt, nói vào hủy diệt

          Sự tiêu diệt các loại hữu tình ”.

              Nhưng các Tỷ Kheo ! Thật tình

       Ta không nói vậy, biện minh điều này

          Không chủ trương lầm sai như thế,

          Xưa nay Ta thực tế nói lên

              Sự khổ, sự diệt khổ liền

       Dù ai mắng nhiếc, rủa nguyền đến Ta

          Hoặc phỉ báng, mong Ta tức giận

          Nhưng Ta không bất mãn, hận sân

              Tâm không phẫn nộ phàm trần.

       Này Tỷ Kheo Chúng ! Còn phần khác đây

          Có những người tỏ bày cung kính

          Hằng tôn kính, lễ bái, cúng dường

              Đối với Như Lai là thường

       Ta không hoan hỷ, dương dương hợm mình

   _______________________________

(1) : Theo vũ trụ quan PG, cõi trời Đao Lợi – Tavatimsa , là tầng

     trời thứ 2 trong 6 tầng trời Cõi Dục, nằm trên đỉnh núi Tu-Di ,

     bốn phía đỉnh núi, mỗi phía đều có 8 Thiên thành.Thành Thiện

     Kiến hay Hỷ Kiến ( Sudassana ) ở giữa là cung điện của Vua

     Trời Đế Thích (Sakka) tất cả gồm 33 nơi nên được gọi là  Cõi

   Trời  Ba mươi ba ( Tam thập tam thiên ) .

(2)  : Cõi Trời Phạm Thiên  –  Brahma Kayikà  do vị  Phạm Thiên

   (Brahma) chưởng quản . Vị này được nhiều tôn giáo tôn xưng là

  Thượng Đế , đấng Toàn Năng , Sáng Tạo Chủ , Hóa Sanh Chủ …

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 329

 

          Không thích thú, không sinh sung sướng

          Vì Ta nghĩ : ‘Ý tưởng chẳng lìa

Đây làđiều mà xưa kia

Đã từng hiểu biết phân chia rõ ràng

          Trách nhiệm Ta phải làm như vậy’.  

 

          Do điều ấy, này các Tỷ Kheo !      

              Nếu có những người cứ theo

       Mắng nhiếc, chửi bới, kỳ kèo các ông

          Mục đích làm các ông tức giận.

          Các ông chớ sân hận, bất bình  

              Đừng để phẫn nộ khởi sinh.

       Còn trong trường hợp nếu mình ởđây

          Được người khác tỏ bày kính ái

          Thường tôn trọng, lễ bái, cúng dường

              Chớ có thích thú, dương dương

       Chớ có sung sướng và thường hân hoan

          Hãy suy nghĩ : ‘Hoàn toàn điều đó

          Ta đã từng biết rõ, bao hàm

              Là trách nhiệm ta phải làm’ .

 

( Không sở hữu )

       Các ông do vậy phải am tường là :

          Cái không phải của ta, hãy bỏ

          Nếu được bỏ, đem lại lạc an

Đem lại hạnh phúc vô vàn.

       Cái gì không phải của đàng các ông ?

          Không phải của các ông làsắc

          Hãy từ bỏ, hãy vất nó ngay

              Sẽđem hạnh phúc lâu dài  

Đem lại an lạc sâu dày phát sanh.

          Hãy từ bỏthọ, hành, tưởng, thức,

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 330

 

          Không phải thực của các ông đâu !

              Khi đã từ bỏ chúng mau

Đem lại hạnh phúc thanh cao vui vầy.

          Các Tỷ Kheo ! Việc này khả dĩ

          Các ông nghĩ như thế nào đây ?

              Rừng Chê-Tá-Va-Na (1) này

       Có người thâu lượm cỏ, cây, lá, cành

          Đốt lên hay thực hành tùy ý

          Vậy các ông có nghĩđiều là

              Người ấy thâu lượm chúng ta

       Rồi người ấy đốt chúng ta tức thì,

          Hoặc làm gì tùy theo ý muốn ? ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Trạng huống nói đây

              Không thể có. Vì sao vầy ?

       Vì không phải tự ngã hay điều mà

          Không phải là sở thuộc của ngã ”.

    – “ Chư Tỷ Kheo ! Tất cả ngọn ngành

              Sắc, thọ, tưởng, thức và hành

       Đều không phải của sẵn dành các ông.

          Hãy từ bỏ chúng không thương tiếc

          Từ bỏ thiệt, đem lại lạc an

Đem lại hạnh phúc vô vàn

       Các ông đạt được hoàn toàn điều trên.

 

( Pháp khéo giảng )

Chư Tỷ Kheo ! Móng nền căn bản

          Pháp được Ta khéo giảng đục trong

    ____________________________

(1) : Jetavanavihàra :Kỳ Viên hay Kỳ Hoàn Tinh Xá ,doTrưởng

   Giả Cấp-Cô-Độc ( Anathapindika – tên thật làSUDATTA  – Tu-

Đạt-Đa ) mua lại từ khu vườn của Thái Tử Kỳ Đà ( Jeta ) gần

  Thành Xá Vệ (Savatthi ) dâng choĐức Phật và Tăng Chúng .

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 331

 

              Làm cho tỏ lộ, khai thông

       Làm cho khai thị, thong dong loại trừ

          Các vải quấn gần hư, cũ kỹ

          Nên những vị Phích-Khú chính danh

              Bậc A-La-Hán tịnh thanh

       Lậu-hoặc đã tận, tu hành mãn viên

          Việc cần làm đã liền làm cả

          Gánh nặng đã đặt xuống thong dong

              Lý tưởng đã thành đạt xong

       Hữu-kiết-sửđã ngoài trong diệt rồi,

          Được giải thoát nhờ nơi chánh trí

          Vòng luân chuyển những vị Thánh này

              Thật là không thể chỉ bày.

       Này Tỷ Kheo Chúng ! Như vầy Pháp siêu

          Ta khéo giảng mọi điều sáng tỏ

          Làm tỏ lộ, cho được khai thông

              Làm cho khai thị thuận đồng

       Các vải quấn cũ thong dong loại trừ.

 

          Vị nào đãđoạn trừ thứ tự

          Năm hạ phần kiết-sử dứt nhanh

              Sẽ thành các vị hóa-sanh

       Chứng Bất Lai quả, không sanh lại rồi

       ( Tịnh Cư Thiên là nơi vân tập

          Rồi từđó sẽ nhập Niết Bàn ).

              Còn những Tỷ Kheo các hàng        

Đoạn ba kiết-sử, sẵn sàng thực thi

          Tham, sân, si làm cho muội lược

          Các vịấy đạt được Nhất Lai

              Chỉ một lần nữa đời này

       Sau đó diệt tận sâu dày khổđau.

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 22 : VÍ DỤ CON RẮN   * MLH  – 332

 

          Tỷ Kheo nào đoạn ba kiết-sử

        ( Giới cấm thủ, thân kiến, hoài nghi )

              Thành bậc Nhập Lưu danh tri

       Tu-Đà-Hoàn quả , một vì Thất Lai

          Không sa đọa, lạc loài ác thú

          Hướng chuyên chú Chánh Giác Toàn Tri.

 

Chư Tỷ Kheo ! Như vậy thì

       Pháp Ta khéo giảng diệu kỳ sáng trong

          Làm khai thông, làm cho tỏ lộ

          Làm khai thị để ngộ chân-như

               Các vải quấn cũ loại trừ

       Nên các Phích-Khú an từ tịnh thanh

          Đều là tùy-pháp-hành các vị

          Tùy-tín-hành tịnh trí mọi bề

              Các vị Chánh Giác hướng về

       Các vị đầy đủ vấn đề trải qua

Đủ lòng tin nơi Ta vững chắc

          Lòng thương mến chân thật với Ta    

              Thì các vịấy đều là

       Đều hưởng an lạc nơi tòa Chư Thiên ”.

 

          Nghe Thế Tôn an nhiên thuyết giảng

          Kinh Xà Dụ viên mãn, minh quang

              Chư Tỷ Kheo rất hân hoan

       Hoan hỷ tín thọ lời vàng Thế Tôn ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*   *

 

 (  Chấm dứt  Kinh số 22  :   VÍ DỤ CON RẮN  –

ALAGADDÙPAMA  Sutta  )

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/12/2014(Xem: 8609)
Nước mùa thu với mặt hồ phẳng lặng Luôn trong xanh phản chiếu cả bầu trời Cõi bình yên hiện hữu khắp muôn nơi Hãy trân quý để muôn loài cộng hưởng Sống an ổn là một điều sung sướng “Phân biệt” sinh sóng gợn nước trào dâng Bầu trời xanh tĩnh lặng cũng mất dần
11/12/2014(Xem: 9212)
Thân già bịnh tật ốm đau Vào nhà dưỡng lão trước sau một mình, Đầu óc lú lẩn vô minh Lại thêm khó tính cảm tình cũng không. Vệ sinh tắm rửa khó lòng Lau chùi kỳ cọ y công tận tình,
10/12/2014(Xem: 9353)
Vệ giang chiều cuối năm, Tôi về mưa lâm thâm. Dáng Mẹ tre gầy guộc Thương! Con lệ đá câm!
09/12/2014(Xem: 9527)
Hôm nay con lại về đây Cầu siêu lễ Phật theo Thầy tụng kinh Thời kinh thật quá oai linh Người âm siêu thoát, hữu tình vui lây Giọng Thầy dẫn chúng thật hay Chúng con hòa nhịp hăng say rõ ràng Lời Thầy ấm cúng ngân vang Tâm Thầy tha thiết xốn xang lòng người Thời Kinh như Phật hiện đời
03/12/2014(Xem: 8955)
Thoạt sinh ra đã tìm về huyệt mộ Từng sát na biến chuyển xác thân nầy, Vô thường từng phút từng giây Trẻ thơ rồi đến cái ngày diệt vong. Đời người chỉ thoáng qua như giấc mộng Tỉnh giấc rồi vạn sự giai không
30/11/2014(Xem: 9152)
Đồng khô cỏ cháy quê nghèo Rượu khuya tê đắng, trà chiều sệch khan Thương em hạt nước hạt vàng Giọt vào tim kẻ hoang đàng ngủ quên!
30/11/2014(Xem: 9998)
Ta cứ tưởng đời này chắc thật Cứ đua tranh dành giật với người Lo toan tính toán lỗ lời Thiệt hơn xảo trá hại người lợi ta. Biết đâu vay trả không xa Nhân nào Quả nấy thật là chẳng sai.
29/11/2014(Xem: 8381)
Những tộc họ với nhiều đời vinh hiển Là cháu con phải quyết chí noi theo Điều trước tiên là xóa sạch dốt nghèo Sống đạo đức làm mục tiêu phấn đấu Trong muôn họ không có người con xấu Mà chỉ là những tạp nhiễm tạm thôi Khi ăn năn sám hối biết quy hồi
29/11/2014(Xem: 10623)
Ngàn năm bên lối nhỏ Trút niềm đau muộn phiền Ngàn năm mang hơi thở Dìu vợi trời tam thiên.
28/11/2014(Xem: 7566)
San Jose trời lạnh Lạnh từ mưa gió sương Mưa rơi rồi mưa tạnh Lá vàng bay thảm thương
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567