Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuyển tập 116

28/11/201113:14(Xem: 11551)
Tuyển tập 116

TUYỂN TẬP THƠ MẶC GIANG

Tuyển tập 10 bài Số 116 - thơMặc Giang

(Từ bài số 1151 đến số 1160)

macgiang@y7mail.com; thnhattan@yahoo.com.au

01. Xin hỏi người, đó là ai ? 1151

02. Đừngđợi ngày mai 1152

03. Dòngsuối nhỏ 1153

04. Nghetiếng chuông ngân 1154

05. Hămbốn chữ cái 1155

06. Chakể con nghe 1156

07. Chatheo tiếng gọi sơn hà 1157

08. Đổicả trần gian 1158

09. NgườiCha Việt Nam 1159

10. ÔngCha của ta 1160

Xin hỏi người, đó làai ?

Đi trong mưa, không ướt áo

Vào trong nước, không bị chìm

Sống trong đời, không khổ não

Xin hỏi người, đó là ai ?

Vào trong lửa, không bị cháy

Vào trong bếp, không tro tàn

Vào bùn đen, không quện cáu

Xin hỏi người, đó là ai ?

Giữa biển cả, không sóng đẩy

Giữa trùng dương, không hải triều

Lòng chứa đầy, tâm trống rỗng

Xin hỏi người, đó là ai ?

Đi ba đường, không chắn lối

Vào sáu nẻo, mãi thông thương

Cả hư vô, không thế giới

Xin hỏi người, đó là ai ?

Giữa mùa xuân, không hoa nở

Vào lạnh giá, không đông hàn

Mỗi thu về, không lá đổ

Mỗi hạ nắng, không khô khan

Không có đâu, là thời gian

Không có đâu, là không gian

Nhét hư vô trong hột cải

Nhét vũ trụ lọt chân lông

Trong đêm đen, vẫn ánh sáng

Trong tăm tối, vẫn thấy đường

Không hố đèo, không ghềnhráng

Xin hỏi người, đó là ai ?

Trong rừng sâu, không cô độc

Giữa phố thị, như không người

Sống thanh bần, không thôn dã

Xin hỏi người, đó là ai ?

Mang ba y, trùm pháp giới

Đời một áo, mặc không cùng

Không cần nhà, có ba cõi

Xin hỏi người, đó là ai ?

Khắp ba đường, không đóng cửa

Khắp sáu nẻo, rộng lối đi

Mang hầu bao, không chỗ chứa

Xin hỏi người, đó là ai ?

Tháng 10 –2008

Đừng đợi ngày mai

Hỡi đau khổ, sao đong đầy mắt lệ

Bởi giọt khô chất chứa ngập lưng tròng

Thế tại sao không cho chảy tuôn dòng

Bởi nước mắt ngập ngừng chưa muốn khóc

Thế tại sao ngậm sầu, ru trái chín

Bởi nguồn cơn không lối thoát thông hơi

Thế thì thu chưa tím ngắt cuộc đời

Chờ cuối mùa ào ào phơi lá rụng

Thế tại sao lại ôm đầu bóp trán

Bởi động não ray rứt mảnh hồn đau

Thế niềm đau sao không thảy xuống cầu

Bởi chưa thoát bốn bức tường quán trọ

Thế tại sao đèn khi mờ khi tỏ

Bởi cõi lòng khép kín chốn thâm u

Bầu trời trong sao vẩn đục mây mù

Bởi đen đặc nhưng mưa chưa muốn đổ

Thế tại sao trải bốn mùa thanthở

Bởi muộn phiền u uẩn suốt thángnăm

Không mùa đông mà sao rét cămcăm

Bởi hạ trắng chiếm ấm nồng tấtcả

Hỏi tim nào là tim đau chấtchứa

Hỏi lòng nào là nát dạ nắng mưa

Khổ đau không bán, ai bảo tìmmua

Hạnh phúc trên tay, sao đem đánhmất

Tìm gì khi đã mất

Đã mất biết đâu tìm

Giọt khô tràn mi mắt

Chứa đầy ánh sao đêm

Hãy nhìn kia ngõ tối

Đom đóm thắp đêm dài

Bóng thời gian qua khỏi

Đừng đợi đến ngày mai.

Tháng 10 – 2008

Dòng suối nhỏ

Đẹp thay dòng suối nhỏ

Hai bờ mơn cỏ xanh

Nước trong veo róc rách

Gió thoảng mát trong lành

Quý thay dòng suối nhỏ

Ngơ ngác con nai hiền

Giữa núi rừng thanh khiết

Rảo bước thật hồn nhiên

Lành thay dòng suối nhỏ

Mang cam lộ tình thương

Ươm hương thơm dịu ngọt

Trang trải đức thanh lương

Trọng thay dòng suối nhỏ

Ngày lên đón nắng đào

Đêm xuống loang sương bạc

Chất chứa cả trăng sao

Mến thay dòng suối nhỏ

Ôm vũ trụ vào lòng

Ôm ngân hà xao xuyến

Muôn đời vẫn xanh trong

Thương thay dòng suối nhỏ

Mãi tuôn chảy không ngừng

Qua núi rừng đồng nội

Vào biển cả vô cùng

Biển đời còn đau khổ

Cuộc đời còn tang thương

Cưu mang dòng suối nhỏ

Ban cam lộ pháp vương.

Tháng 10 – 2008

Nghe tiếng chuông ngân

Ai không nghe tiếng chuông ngân

Sao không nghe cả phong trầnrụng rơi

Ngã nhân bào ảnh trong đời

Lợi danh phù phiếm chơi vơigió lùa

Ai không nghe tiếng chuông chùa

Sao không nghe cả hơn thua bềnhbồng

Bọt bèo quẳng gánh trôi sông

Ưu phiền thán oán theo dòngnhẹ tuôn

Ai không nghe tiếng chuông đồng

Sao không nghe cả chìm xuồngtử sinh

Bụi bay không vướng tánh linh

Sóng lay không gợn chút tìnhtrần gian

Ai không nghe tiếng chuông vàng

Sao không nghe cả muôn ngàntrầm mê

Đường xưa cùng dắt nhau về

Rong rêu bỏ lại bên lề vôminh

Ai không nghe tiếng cầu kinh

Sao không tỏ ngộ bóng hình xưanay

“Có thì có tự mảy may

Không thì cả thế gian này cũngkhông”

Lành thay, nghe tiếng chuôngngân

Nghe như thế đó, dự phần ThánhLưu

Bồ Đề một đóa Vô Ưu

Trổ bông sen quý tặng ngườibiết nghe.

Tháng 10 – 2008

Hăm bốn chữ cái

Hăm bốn chữ cái, ráp vần xuôingược

Hết viết ngược, rồi lại viếtxuôi

Lại thêm Á, Ớ, Ê, Ô, Ư

Huyền, Sắt, Nặng, còn đèotheo Hỏi, Ngã

Dùng chữ nghĩa, ta tha hồ diễntả

Dùng ngữ ngôn, ta dệt ý thànhlời

Băng ra biển, vượt hải lý trùngkhơi

Giữa non cao, thét núi rừnglộng gió

Khi thì đẹp như rồng bay phượngmúa

Khi thì sang như bức lụatranh thêu

Khi nhẹ nhàng chẳng khác nhịpcầu kiều

Khi sắt đá lửa nung hơn gangthép

Vào hí trường, chữ nghĩa caotiếng hát

Ra chiến trường, chữ nghĩa thétđao binh

Xuống địa ngục, chữ nghĩa quỷthần kinh

Lên thiên cung, Thánh Thần trònxoe mắt

“Ba tấc lưỡi, mà gươm mà súng

Nhà cầm quyền nghe gió cũngghê gai

Một ngòi lông, mà trống màchiêng

Nhà quân tử đốt đèn thêm tỏ rạng”

Ngược thời gian, thấy vô thỉlảng vảng

Xuôi thời gian, thấy khép cửavô chung

Chữ nghĩa bay khắp muôn hướngngàn phương

Trang giấy vẫn phẳng lỳ trêntay bút

Ngược dòng sử, thấy dựng cờ mởnước

Theo dòng sử, thấy thời đạikinh qua

Đóng triện son, sáng tỏa ngọcngà

Ghi dấu ấn, châu pha lộng sắc

Tạo ươm mơ, chữ nghĩa reo gióhát

Khúc tự tình, chữ nghĩa viếtthương yêu

Nắm tay nhau, không cần nóichi nhiều

Vì nhận chân, sóng lòng chanbiển mặn

Lấp chông gai, chữ nghĩa thôighềnh thác

Vá thương đau, chữ nghĩa đắpdựng xây

Vì tròn vuông, viết lên tiếngđong đầy

Vì tình người, viết thăng hoasự sống

Hăm bốn chữ cái, còn hơntriều sóng

Hăm bốn chữ cái, còn hơn bạcvàng

Hết xuôi đến ngược, rạng rỡhuy hoàng

Hết ngược đến xuôi, tuyệt vờithiện mỹ

Hăm bốn chữ, xuất nguồn tâmnẻo ý

Thư viện kia còn có chỗ đểdung

Sách vở kia cùng trân trọngđể dùng

Quốc ngữ Việt vo tròn hăm bốnchữ.

Tháng 10 – 2008

Cha kể con nghe

Cha kể con nghe chuyện nướcnhà

Từ thời lập quốc của ông cha

Đến nay dấu ngọc dày trang sử

Rạng rỡ huy hoàng lộng sắcpha

Cha kể con nghe non nước mình

Năm ngàn năm, sáng tỏa trungtrinh

Dựng cờ mở nước cùng gìn giữ

Thế thế truyền trao vẹn nghĩatình

Bao nhiêu tất đất của quêhương

Là bấy nhiêu chồng chất máuxương

Trên khắp mọi miền non nướcViệt

Không sao kể hết, khó tưlường

Đất mẹ quê cha được sống còn

Anh linh tử sĩ cao hơn non

Cho nên mới gọi hồn thiêngvậy

Đừng có ơ hờ nghe cháu con

Mỗi một bước đi mỗi dặm đường

Là da là thịt lấp đau thương

Là xương là máu xây tan vỡ

Thành bức dư đồ của núi sông

Cha kể con nghe chuyện nước non

Con nghe rúng động cả tâm hồn

Quê hương nguồn cội ngàn xưa ấy

Là giống là dòng của Tổ Tông

Cha kể con nghe chuyện núi sông

Con nghe từ thuở dựng khơi dòng

Đến nay, tiếp nối ngàn sau nữa

Tuyệt thế hùng ca của Lạc Hồng.

Tháng 10 – 2008

Cha theo Tiếng Gọi Sơn Hà

Cha tôi đội đá vá trời

Dù cho vật đổi sao dời khônglay

Cha tôi chỉ có đôi tay

Gian truân gánh vác, đắng caykhông màng

Cha tôi lên núi bắt còng

Xuống sông tát biển nước bồnglên non

Cha tôi kéo lại sao hôm

Chờ sao mai mọc, rợn hồn bóngđêm

Cha tôi vỗ sóng đầu ghềnh

Suối reo nước chảy mông mênhsông dài

Cha tôi sỏi đá khô cày

Đồng xanh gội nắng, lúa càitrĩu bông

Cha tôi nhặt lá diêu bông

Kết đài hoa mộng ước mong chođời

Cha tôi chuyển thế lay thời

Quê hương quốc thái lên ngôian bình

Cha tôi cỡi gió ba sinh

Thiều quang chói sáng bìnhminh hiện về

Cha tôi lên ải sơn khê

Chận đầu ngoại thực, đẽo tềmộng xâm

Mẹ tôi ươm mái tơ tằm

Nhà tranh đón bóng trăng ngàndặm soi

Em tôi ít tiếng nói cười

Nhớ tình phụ tử thương ngườitrầm kha

Cha theo tiếng gọi sơn hà

Cho em với Mẹ canh gà đẫmsương

Cha theo tiếng gọi quê hương

Cho em với Mẹ hậu phươngngóng chờ

Lên hòn Phụ Tử ươm mơ

Vọng Phu sương lạnh trăng mờngàn sao

Niềm riêng gởi giấc mộng đào

Niềm chung sông núi rạt ràomênh mông.

Tháng 10 – 2008

Đổi cả trần gian

Đổi cả đất trời lấy chữ quê

Chữ hương bên cạnh đẹp câuthề

Núi sông ấp ủ tình nonnước

Bến cũ đò ngang sóng vỗ về

Đổi cả đường đi lấy lối về

Phong sương tuế nguyệt trảinhiêu khê

Tha phương năm tháng dài lykhách

Xin hỏi thời gian đã đủ chưa

Đổi cả trần gian chọn nghĩatình

Ngã nhân bào ảnh nổi lênhđênh

Nhục vinh bèo bọt trôi tantác

Đừng phủ rong rêu non nước mình

Đổi cả phong ba bắc nhịp cầu

Dòng sông hai ngã ngập nươngdâu

Đôi bờ xơ xác mờ lau lách

Bãi cát tiêu sơ bạc trắng màu

Đổi cả thác ghềnh mở lối đi

Băng qua thế kỷ vượt kinh kỳ

Sau lưng gác lại thềm hoanglạnh

Dĩ vãng trôi về chốn biệt ly

Đổi cả não phiền giữ mếnthương

Trần lao rũ sạch nước cànhdương

An bình thiện mỹ thăng hoasống

Trang trải hương quê vạn nẻođường

Đổi cả thế trần giữ nước non

Lăn quay con tạo dẫu hao mòn

Lở bồi cát đá phù sa nhuận

Đem lửa thử vàng, sắt mớison.

Người Cha Việt Nam

Người Cha nước Việt thậtđường đường

Luyện sử đan thanh vẹn sắtson

Đánh trống khua chiêng khiquốc biến

Kinh bang tế thế lúc bìnhmông

Người Cha nước Việt thật kiêncường

Vị quốc vị gia nhuộm máuxương

Bao thưở can qua tàn khói lửa

Chiến bào rũ áo tóc pha sương

Người Cha nước Việt thật kiêntrinh

Vị nước vị non trọn nghĩatình

Quan ải biên thùy yên giớituyến

Hương thơm đồng nội ổn quêmình

Người Cha nước Việt thật tinhkỳ

Phớt gió lông hồng vó ngựaphi

Ngang dọc tung hoành trongbốn biển

Tư nghì tâm lực chẳng hề chi

Người Cha nước Việt của VuaHùng

Quốc Tổ dựng cờ mở nước chung

Kế thế truyền lưu trang sửngọc

Muôn đời con cháu chẳng laolung

Giang sơn gấm vóc nước nonnhà

Chữ « S » dư đồlộng sắc pha

Sông núi hồn thiêng an ngựtrị

Ba miền đất nước sử hùng ca

Việt Nam một cõivững như thần

Sông núi này là của nước Nam

Thuở trước đời sau truyền mãimãi

Tấm lòng không thẹn với tiềnnhân

Ta hát ca vang Cha Việt Nam

Người Cha kỳ vĩ giống da vàng

Sản sinh dân tộc kiên trinhnhất

Tự thuở đất trời đã định ban

Nói thế, cho hay dân tộc này

Trời không thể chuyển, đấtkhông lay

Sao dời vật đổi, ra sao nữa

Vũ trụ càn khôn nể mặt thay

Huống chi nhân loại trên trầngian

Đừng có dễ ngươi lửa thử vàng

Dạ sói lòng lang un tro bụi

Bao thời rồi đó, nhớ thì kham

Trỗi khúc nhịp nhàng ca hát vang

Đông Tây Nam Bắc khắp trầngian

Cổ kim xuyên suốt ngàn saunữa

Con cháu Vua Hùng nước Việt Nam.

Tháng 10 – 2008

Ông Cha của ta

Ông Cha khai quốc dựng gia

Khai sơn phá thạch đắp nhàViệt Nam

Ông Cha miệng nói tay làm

Lòng son dạ sắt tâm đan khôngsờn

Ông Cha lên núi đỡ non

Xuống sông tát biển xây hòn đảo xa

Ông Cha xuống móng dựng đà

Lên ruôi đỡ nóc lợp nhà quê hương

Ông Cha xẻ núi mở đường

Xây cầu lấp hố thông thương ba miền

Ông Cha gốc cội Rồng Tiên

Kết tinh sông núi hồn thiêng muôn đời

Dù cho vật đổi sao dời

Kinh qua lịch sử giống nòi kiên trinh

Dù cho dâu biển điêu linh

Lạc Hồng muôn thuở tự tình thủy chung

Ông Cha lẫm liệt oai hùng

Chữ hoành hết mức chữ tung tột đường

Ông Cha kiệt xuất phi thường

Giữ yên bờ cõi đuổi phường xâm lăng

Tre già che chở nụ măng

Lúa vàng ươm mộng mạ non xanh đồng

Sông dài biển rộng mênh mông

Muôn người như một chung lòng hòa vang

Kể từ mở nước Văn Lang

Năm ngàn năm đã vững vàng giang sơn

Kể từ một Mẹ trăm con

Gần chín mươi triệu vuông tròn tinh anh

Da vàng máu đỏ thiên thanh

Muôn ngàn năm nữa trong lànhViệt Nam.

Tháng 10 – 2008

01. Tiếng lòng nức nở quêhương 01

02. Thầm lặng 02

03. Việt Nam, quê hương cònđó 03

04. Quê hương còn đó, đợi chờ04

05. Từ đó xa mờ 05

06. Tiếng kêu cứu quê hương 06

07. Thương Thầy An Thiên 07

08. Chùa tôi 08

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/09/2010(Xem: 6636)
Mười con nhạn trắng về tha Như Lai thường trụ trên tà áo xuân Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm
08/09/2010(Xem: 7127)
Nắng Sài gòn anh đi mà chợt mát bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
06/09/2010(Xem: 7866)
Văn Tế Thiên Thái Trí Giả Tác giả Đại Sư Tuân Thức Việt dịch: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm *** 1. Nhất tâm đảnh lễ Thiên Thai Trí Giả trong núi Đại Tô tu Tam Muội Pháp Hoa Tâm tâm tịnh thường lại qua pháp giới Như mặt nhật trên không chẳng trụ không Ba ngàn thật tướng tức khắc viên thông Tám vạn trần lao đều đồng chân tịnh. Xưa hội kiến Linh Sơn còn hoài niệm Nay toàn thân bảo tháp thấy rõ ràng Nếu chẳng cùng sư Nam Nhạc tương phùng Ai biết được tướng thâm sâu thiền định?
06/09/2010(Xem: 8664)
Trước khi viết loạt bài thơ trong phần 1 (Hương Đạo Pháp) của thi tập này, tôi đã có gần 900 bài thơ, xoay quanh các đề tài như quê hương đất nước, lịch sử, địa lý, giáo dục, cuộc sống hiện thực, triết lý sắc không, nhân sinh quan - vũ trụ quan Phật giáo, xưng tán Phật và Bồ-tát….. Tôi đang tạm thời dừng lại công việc sáng tác và chuẩn bị làm một số công việc chuyên và không chuyên khác. Nhưng chợt nhớ lại nhiều năm trước đây, thỉnh thoảng có trao đổi với vài vị thân, quen, những người đã đọc gần hết thơ tôi. Họ nói, trong số gần 900 bài thơ đã đọc qua, tuy cũng có nhiều bài khuyến tu, nhiều bài mang tính giáo lý sâu sắc, có khả năng tịnh hóa lòng người, tuy nhiên những bài đó nằm tản mạn chưa tập trung. Hơn nữa cũng cần một loạt bài có nội dung giáo lý căn bản với thuật ngữ, danh từ, pháp số thông dụng, nếu có thể cho thành một tập riêng biệt thì càng tốt.
06/09/2010(Xem: 7611)
Phù Sinh Nhiễm Thể Ca, TNT Mặc Giang
06/09/2010(Xem: 7940)
Mùa hạ mà hơi lạnh xông ướp cả gian phòng. Tắt điện, thắp lên ngọn bạch lạp cắm vào một quả thông, nhựa sống vẫn còn mơn man đâu đây, nồng nàn. Mấy mươi năm hiên ngang sừng sững, một cơn bão thổi qua, thông bật gốc ngã quỵ, vương vãi xác xơ. Có gì tồn tại mãi đâu! Rồi tất cả, cũng bị thiêu rụi như ngọn bạch lạp đang cháy dỡ…
06/09/2010(Xem: 9665)
Được sinh ra, lớn lên, đi vào trường học, đi vào trường đời, rồi dong ruổi muôn phương, và dù có ra sao, Quê Hương vẫn Còn Đó ! Từ thuở phôi sinh xuất hiện Lạc Hồng, Hùng Vương - Văn Lang, xuyên qua chiều dài lịch sử, cấu thành mảnh dư đồ Chữ S, với Bắc Nam Trung gấm vóc, với núi non hùng vĩ, biển rộng sông dài, với những tên gọi thân yêu Huế - Sài Gòn - Hà Nội, với từng thời kỳ dù có qua đi, không gian dù có biến đổi, và dù cho vật đổi sao dời, Quê Hương vẫn Còn Đó !
06/09/2010(Xem: 7803)
Người phương tây thường nói “trẻ ước mơ, già hoài niệm”, nhưng sau khi đọc xong tập thơ Hành Trình Quê Mẹ, tôi thấy tác giả, một nhà thơ ở tuổi tri thiên mạng, nhưng lại luôn ghi lòng tạc dạ, nâng niu trân trọng các giá trị được tài bồi bởi tiền nhân; tác giả còn hoài bảo, mơ vọng một hướng sống thiết thực cho người Việt Nam nói chung. Với Mặc Giang, hoài niệm và ước mơ nào có hạn cuộc bởi tuổi tác. Hoài niệm và ước mơ ấy đã trở thành chất liệu tài bồi cho dòng thơ với chủ đề Hành Trình Quê Mẹ tuôn chảy không mỏi mệt, để nguồn thơ của thi nhân vốn nhào nặn từ cuộc sống, trở lại phụng sự cuộc sống ấy, trở thành niềm tự hào kiêu hãnh của trào lưu thi ca hiện đại.
06/09/2010(Xem: 10130)
Qua năm mươi năm, tiếp bước tiền nhân tôi trót vào con đường khảo cứu lịch sử văn học dân tộc. Tôi đã đọc rất nhiều thơ và cũng làm được một số việc cho các thế hệ thơ ca. Nhưng khi may mắn được đọc tập thơ Quê Hương Nguồn Cội (và khoảng 650 bài khác nữa) của nhà thơ Mặc Giang, một tập thơ chan chứa tình quê hương dân tộc, với tâm hồn bao la, sâu rộng bằng trái tim và dòng máu của người Việt Nam, tập thơ đã làm cho tôi hòa đồng trong tác phẩm không còn phân biệt được tâm tư và cảm giác của mình và chỉ còn là một con tim, một dòng máu chung của dân tộc trộn lẫn vào sự cấu tạo chung trải qua mấy ngàn năm lịch sử của núi sông.
06/09/2010(Xem: 8131)
Nhịp Bước Đăng Trình, TNT Mặc Giang
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567