Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuyển tập 27

26/11/201102:45(Xem: 13155)
Tuyển tập 27

Tuyển tập 10 bài – Tình TựQuê Hương 27

Thơ Mặc Giang

[email protected]; [email protected]

01. Tình tự mênh mông

02. Đi vào giấc ngủ ngàn năm

03. Tiếng khóc cội nguồn

04. Không thương tiếc

05. Vùi sâu Đất Mẹ

06. Đau lòng Non Nước

07. Hãy vẽ hãy tô

08. Son Sắt tôn thờ

09. Khép lại đôi bờ

10. Mảnh rách nát

Tình Tự mênh mông

Tháng 9 - 2007

Bútnghiên nát mực phong trần

Bụi đường còn tiếc lòng nhânchưa tàn

Luânhồi, từ độ lang thang

Ðến nay, chưa mỏi trên đàngphù sinh

Emơi, luôn giữ bóng hình

Trong ta, còn có bên mình với ta

Dù cho chỉ một sát na

Hay rong khắp nẻo ta bà xưa nay

“Có,thì có tự mảy may

Không, thì cả thế gian nàycũng không”

Nênta, không có mùa đông

Không nghe hạ nắng, khôngbồng thu sang

Khôngtrông xuân thắm mơ màng

Không đem trăng, vắt trênngàn, chờ sao

Emơi, đừng đợi chiêm bao

Nhìn xem trước mặt, cây đàotrổ bông

Ðantay, mạng mạch khơi dòng

Ðan tâm, trang trải, mở vòngtrùng vây

Khôngchung, mà cũng chẳng tây

Trống không, mà lại đong đầytâm như

Cànkhôn, nhìn, chẳng chỗ dư

Nhét trong hạt cải, thái hưhiện hình

Trôngta thấy cả đến mình

Trơ vơ một cõi, tự tình mênhmông.

Ði vào, Giấc ngủ ngàn năm

Tháng 9 – 2007

Em ở đâu, và làm gì

Chị ở đâu, và làm gì

Anh ở đâu,và làm gì

Ta vẫn còn nhau, và gọi đúngtên nhau

Em ở đâu, và làm gì

Chị ở đâu, và làm gì

Anh ở đâu, và làm gì

Tuy sống khác nhau, nhưngchung một niềm đau

Tôi biết rằng,

Em đã thấy

Chị đã thấy

Và anh đã thấy

Nước trường giang, đã triềudâng, bão thổi

Sóng biển đông, đã bạc trắngTrường Sơn

Không cần lời lẽ thiệt hơn

Tràn ngập lệ buồn đất mẹ

Không cần chôn vùi quạnh quẽ

Cảm rung nhức nhối thiên thu

Thịt da anh,

Thịt da chị,

Thịt da em,

Thịt da tôi,

Ðã nổi những khối u

Ði vào tâm can, cốt tủy

Máu, biết bao lần nghẽn chảy

Tim, biết bao lần tắt ngang

Thẩm thấu tự nguồn cơn

Xuyên qua tế bào, tóc tơ,mạch thở

Phải thế không anh

Phải thế không chị

Phải thế không em

Dù ai có ngủ quên

Vẫn lắng nghe và giật mìnhtrổi dậy

Ðón nhận sâu xa tình tự

Ði vào giấc ngủ ngàn năm.

Tiếng khóc cội nguồn !

Tháng 9 – 2007

Sao tôi khóc, khi không còn nước mắt

Bởi niềm đau, đào mạch lệ khơi dòng

Rồi con tim lại gảy khúc lăn tăn

Tạo thành giọt nối dài tuôn hai lối

Sao tôi khóc, em ơi, đừng có hỏi

Nếu nói ra, giọt lệ sẽ nghe đau

Như tang thương đã tràn ngập biển dâu

Như muối mặn đã mênh mang bốn biển

Nước mắt chảy mà không cần lên tiếng

Chỉ những ai chín rụng nỗi niềm tây

Sẽ biết nghe tiếng khóc phủ trời mây

Tràn lấp cả ruộng đồng, ao hồ, sông núi

Nước mắt đó sẽ tràn lên khắp phố

Sẽ băng lên khắp thân thể châu thành

Sẽ biến thành hồn lệ sử long lanh

Ðốt ngọn lửa soi Ðền Thờ Tổ Quốc

Ta sẽ thấu thuở đầu đời dân tộc

Ta sẽ nhuần đến muôn thuở vị lai

Chữ Việt Nam chỉ có một không hai

Chữ Hồng Lạc chỉ thế ư, bất nhị

Nước mắt ấy, đã chảy từ vô thỉ

Khi Tổ Tiên dạy hai tiếng thương yêu

Khi Cha Ông luôn răn bảo nhiễu điều

Và cháu con phải nâng niu gìn giữ

Nước mắt ấy, không là lời than thở

Không là lời thán oán : nát phân ly

Không là lời cầu nguyện : thắp kinh kỳ

Mà là mạch sống của tình thương, nguồn cội

Tôi không nói, nghĩa là tôi đã nói

Vì tôi nghe tiếng khóc của Ông Cha

Vì tôi nghe tiếng khóc nước non nhà

Hiểu tiếng khóc, mới biết :

Gục đầu, lặng câm, nâng niu, gìn giữ !!!

Không thương tiếc !

Tháng 10 – 2007

Chợt nhớ xưa, thời Vua Hùngmở nước

Lập hoàng thành dinh thự ởPhong Châu

Tới Cổ Loa rồi lại tới ThăngLong

Bao triều đại đã dày công xâydựng

Nay, nền cũ điêu tàn còn đâumóng

Bóng thời gian tàn tạ néttiêu sơ

Nhớ Ông Cha, nhớ từ thuở dựngcờ

Giống Lạc Hồng trải ngàn nămvăn hiến

Thế hệ chúng ta, trăm năm lậnđận

Cái móng lỏng chân, chống đỡcái nền

Thể chưa thành, đã chỏng gọngchênh vênh

Vậy mà cứ lòm khòm khom khúđế

Phết nhũng lạm, đeo tước hàmlễ mễ

Ðội tham ô, đục khoét thấuxương khô

Vẫn ghi công, vẫn tán thưởng,hoan hô

Thân đất Mẹ nát tan đầythương tích

Tấm thân Cha khép hoàng hôncô tịch

Thương tiền nhân, mây kéo gởiphù vân

Gió bụi bay tàn tạ, nát phongtrần

Mưa nắng gội, rong rêu đanmấy lớp

Thế hệ chúng ta, vàng thauhỗn tạp

Trắng đâu còn mà lại nhắc chiđen

Mang hoang tưởng lò mò trongbóng đêm

Thì thử hỏi làm sao khôngnông nỗi ???

Thế đạo suy vi điên đảo

Nhân tâm thán oán ly tan

Dân tộc tan tác trăm đàn

Quê hương còn chi để nói

Ðốt ngọn lửa huy hoàng,

Dẹp tan đi hơi khói

Cây rỗng ruột hư hao

Trùng mối đục rã rời

Không lý do đục khoét hết đời

Dòng lịch sử cuốn phăng khôngthương tiếc !!!

Vùi sâu đất mẹ !

Tháng 10 – 2007

Ðã lâu rồi, đồng khô khônglúa chín

Bên bờ dâu, nắng đổ, cháy mạnon

Cỏ lưa thưa, gục ngọn, nép vệđường

Cây ủ dột, ngả màu, nghiêngbóng núi

Nghe thăm thẳm, lối mòn xưakhẽ nói

Những rong rêu tàn tạ phủ lênmàu

Cả bọt bèo cũng thấy thấmniềm đau

Huống chi bãi xát xây mùitang hải

Lúa vàng vọt trên đồng khônắng cháy

Mạ gục đầu chưa kịp chớm mầmnon

Sắt còn đâu mà xa xót vết son

Lòng đất mẹ tỉ tê, chồngthương tích

Ngay cả, mới đầu hôm cô tịch

Mà canh thâu đã khóc tiếngđêm dài

Ngay cả, chưa dậy nắng banmai

Mà hoàng hôn đã chực chờ baophủ

Chiều buông xuống, bờ câykhông ủ rũ

Sức còn đâu mà cục cựa loayhoay

Gió thì thầm phe phẩy ngọnheo may

Rung từng nét tải tê tim rỉmáu

Nhốt bóng đêm, đầy hàng rào,hàng giậu

Che vườn không, đã chết đứngtiêu điều

Nhà không nóc, mà cột cũngliu xiu

Chờ ngã gục vùi sâu thêm đấtmẹ.

Ðau lòng non nước

Tháng 10 – 2007

Nhìnxem nước đổ về sông

Từ nguồn tới ngọn giữa dòngcan qua

Nước đâu có mãi la đà

Khi chạm vỡ óc, khi va vỡ đầu

Khi buồn, con nước rầu rầu

Khi đau, con nước nao nao mấy lần

Trải qua bao độ phù vân

Non xanh nước biếc phong trần ngửa nghiêng

Trải qua bao độ đảo điên

Non long thế núi, nước longthế bờ

Tơibời, bọt sóng xác xơ

Tan hoang non nước, dại khờhồn đau

Muốn cho non nước một màu

Bầm gan, tím ruột, nát nhàu như tương

Cũng vì tổ quốc, quê hương

Thịt da nát vóc, máu xương nát hình

Ai nghe non nước quê mình

Thức dậy đi, hay trùm mền mà tru

Một mai về với thiên thu

Khoanh tay, nhắm mắt, gật gù, dạ thưa

Ðau lòng non nước, hay chưa ???

Hãy vẽ, hãy tô

Tháng 10 – 2007

Em hãy vẽ, bức tranh quê hương gấm vóc

Anh hãy tô, bức tranh rạng rỡ dư đồ

Hiện rõ từng đốt xương, da thịt tàn khô

Từng trang sử đi qua, chan từng máu lệ

Máu lệ đó, dù trải qua ngàn năm, vẫn nhớ

Tàn khô kia, dù trải qua muôn đời, vẫn thương

Mỗi thế hệ, xây đắp mọi con đường

Non nước này, núi sông này, lẫm liệt

Thoáng cây rung, ta nghe ngàn da diết

Mắt rưng rưng, ta nghe nhũn tâm tư

Mẹ Việt Nam, ôi đẹp quá, thế ư

Cha Việt Nam, ôi cao ngần, tuyệt mỹ

Tiếng giá gương, bay xa ngàn thiên lý

Tiếng tự tình, lay động vạn mến thương

Chân bước đi, lòng trĩu nặng vấn vương

Bờ núi đá, vết hằn ghi đậm nét

Gió Trường Sơn, lộng rừng, núi thét

Sóng Biển Ðông, triều dậy, bão dâng

Giống Rồng Tiên cao tột như thần

Giòng Hồng Lạc thanh thiên như thánh

Bức tranh đó, vạn niên, vạn thọ, diên khánh

Dư đồ kia, vạn thời, vạn thế, vạn linh

Ta bước chân đi, quê hương non nước của mình

Tình chứa chan tình, non sông muôn đời bất diệt.

Son sắt tôn thờ

Tháng 10 – 2007

Tôi khóc bởi, nước mắt mẹ đã chảy

Tôi đau bởi, mái tóc cha úa màu

Tôi buồn bởi, em, da thấm thịt thau

Tôi thương bởi, người, đeo khối sầu vạn kỷ

Khóc, không có nghĩa gục đầu, rên rỉ

Ðau, không có nghĩa cúi mặt, khoanh tay

Buồn, không có nghĩa ngậm đắng, nuốt cay

Mà xoáy lở những tường thành băng giá

Gia tài của mẹ, không ai có quyền tàn phá

Mảnh đất của cha, không ai có quyền xéo dày

Lịch sử xưa nay, không ai có quyền đổi thay

Non nước ngàn năm, không ai có quyền xúc phạm

Ðẩy tan đi những sắc màu buồn thảm

Quét sạch đi những bóng dáng tối tăm

Xóa tan đi những cặn bã nhục vinh

Tô thắm lại, cái đẹp rạng ngời hồn thiêng sông núi

Con cháu Lạc Hồng, là những con người dời non lấp biển

Giòng giống Rồng Tiên, là những con người đội đá vá trời

Chứ không phải là một phường lang, sói, chồn, dơi

Mà núp, ló, đỡ, khom, đục, chui, rỉa, khoét

Ta đắp lại những hoang tàn đổ nát

Ta xây lại mảnh xơ xác dư đồ

Biết trân trọng những vụn vỡ, tàn khô

Thành tượng đài sáng soi vàng son gấm vóc

Tiếp nối nhau, đời sau qua thuở trước

Non nước này là hậu thế của Văn Lang

Của con cháu Rồng Tiên nước Việt huy hoàng

Hùng dũng hiên ngang, ngẩng đầu đi tới

Nước Việt Nam của người Việt Nam, một cõi

Non Việt Nam của người Việt Nam, một phương

Là người Việt Nam, nắm tay nhau, vững bước lên đường

Quét sạch tất cả những rong rêu, bọt bèo, băng tảng

Những tàn dư rách nát, hãy cúi đầu cội nguồn khói quyện

Những ý hệ lai căn, hãy phủ phục Tiên Tổ uy linh

Từ hôm nay, ta đi trên nước non mình

Vào ngày mai, cháu con truyền trao gìn giữ.

Khép lại đôi bờ

Tháng 10 –2007

Dòng sông nước chảy đôi bờ

Ai thương ai nhớ ai chờ đợi ai

Sóng xô sợi ngắn sợi dài

Lênh đênh mặt nước, bèo cài hoa trôi

Thuyền ai thấp thoáng xa khơi

Đêm đêm sương lạnh trăng soi lững lờ

Đôi bờ sóng vỗ nhấp nhô

Xa xa cát trắng mịt mờ trời mây

Bêncầu ngọn gió heo may

Bờ mi khép lại niềm tây gợnmàu

Sôngdài nước chảy về đâu

Lăn tăn hai ngả giọt châu votròn

Dấumờ phủ kín héo hon

Chìm sâu cô lữ, lối mòn ngheđau

Sôngtrăng mặt nước rầu rầu

Lang thang chiếc bóng đêmthâu lạnh lùng.

Mảnh rách nát

Tháng 11 – 2007

Biển tang thương tha hồ màtơi tả

Bãi nương dâu tha hồ mà xéodày

Cho cạn tàu ráo máng, chẳngnương tay

Bao chiêu thức, đánh tanhoang chí tử

Thời tin học, càng tinh viđấy chứ

Chỉ phút giây, bấm nút thế làxong

Con đường tung, vút cho hếtđiểm cong

Con đường hoành, vút tận cùngngằn mé

Bắn tơi tả, không còn đâugiới tuyến

Bắn tơi bời, không còn đâulằn ranh

Bung ta lông, không còn chúttơ mành

Chừa chỗ hậu mà che manhchiếu rách

Bao chữ nghĩa được dùng, hơnsử sách

Phiếm cứ gõ, đâu có ngại mựckhô

Chữ lá cải, chữ ở chợ, chữtục ô

Thi nhau đổ vào rừng hoangvăn hóa

Nhớ câu người xưa : bút sa gàchết

Lại nhớ cổ nhân : uốn lưỡibảy lần

Người cầm bút, mang danh vănsĩ, văn nhân

Người tế thế, mang danh chínhnhân, chính khách

Vậy mà, cái gì cũng đem ranói tách bạch

Viết tứ tung, viết tán loạn,không còn chữ khen chê

Người có học, giỏi hơn ngườidân giả, nhà quê

Ăn, nói, viết, giới ít họckhông thế nào hiểu nổi

Dân nhà quê chỉ biết i tờ mấychữ

Vần ngược xuôi chưa qua khỏitrường làng

Không khua chiêng những hạcám thượng vàng

Không đánh trống những đầumôi chót lưỡi

Làm dân quê, chân lấm tay bùnlam lũ

Cuốc đất, trồng khoai, bầu bíngô đồng

Không biết gì cái mâu, cáithuẫn, cái tang, cái bồng

Mảnh rách nát của thế nhânxâu xé.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/09/2020(Xem: 8893)
Thật là một đại duyên cho những ai là Phật tử tại gia như tôi lại được nghe lời chỉ dạy vừa tâm tình của Sư Phụ Viên Minh vào ngày thứ bảy của khoá thiền khoá 20 (20/9/2020) tại tổ đình Bửu Long như sau : " Ai cũng cho Thầy là người " ba phải "vì Thầy thường trích dẫn những ý tưởng của các Tông phái khác , nhưng đúng ra phải gọi Thầy là "người chục phải "vì ở mỗi Tông phái nào Thầy đều nhìn thấy những điểm hay, tốt và vì vậy Thầy chưa bao giờ phân biệt tông phái nào cả chỉ là nhập gia tuỳ tục thế thôi , vô ngại ...
23/09/2020(Xem: 9380)
Xa xăm lặng bước nhập trần ai Óng mượt mi vàng lộ hiển dài Xóm Bắc ruổi rong chui bụng ngựa Nhà Đông lơ láo rúc lừa thai Roi vàng thúc vế trâu bùn chạy Dây sắt gìn hàm cọp đá hồi Một sớm gió lùa băng giá hết Trăm hoa vẫn cũ luyến xuân đài!
22/09/2020(Xem: 11825)
Con thường suy nghĩ có một ngày Mẹ về với Phật cảnh Phương Tây Để nghe giáo pháp Như Lai thuyết Tỏ ngộ từ đây ở nơi này.
21/09/2020(Xem: 12604)
Một trong những điểm đặc thù từ giáo pháp của Đức Phật chính là tinh thần Trung đạo - không rơi vào cực đoan khổ hạnh ép xác hay thú hướng dục vọng. Biện chính giáo pháp để làm lộ rõ con đường Trung đạo cũng là một phương thức hoằng pháp. Có thể sự biện chính chỉ là quan kiến cá nhân và đôi khi đi xa hơn vấn đề cần biện chính, nhất là những biện chính liên quan đến lát cắt của một phần tổng thể văn bản. Dẫu vậy, toàn bộ nội dung bài viết vẫn hướng đến mục đích làm sáng tỏ thêm con đường Trung đạo, tránh sự hiểu nhầm đáng tiếc đối với những Phật tử sơ cơ. Nguyệt San Giác Ngộ xin trân trọng giới thiệu bài viết đến với quý độc giả. NSGN Bài “Quan điểm của Phật giáo về vấn đề kinh tế” của Hòa thượng Tinh Vân (Phước Tâm dịch, Nguyệt san Giác Ngộ số 189, tháng 12-2011, trang 36), có một đoạn viết:
21/09/2020(Xem: 11877)
Cả tuần nay, nỗi buồn dào dạt về kiếp người xâm chiếm cả hồn tôi khi nhìn lên màn ảnh YouTube , HT Thích Từ Thông trên giường bịnh chợt nhớ tới hàng trăm bài pháp thoại từ thuở ban đầu của Ngài qua “ Phật Giáo Tổng Quan “ và những năm cuối với trăm bài pháp thoại ngắn như” Ngón tay chỉ trăng “và đã được ấn tống do một số bạn đạo hải ngoại mà tôi may mắn được lựu trữ trong thư viện mình để rồi hôm nay kính xin được mạo muội cúng dường Ngài bằng một bài viết xưng tán công đức Ngài
20/09/2020(Xem: 8399)
PHỤNG HOÀNG TRÊN NÓC GÁC (Nhân đến thăm chùa Nghĩa Sơn tọa lạc nơi vùng núi Đồng Bò xưa, ngắm được cảnh mô phỏng Kim Các Tự nổi tiếng ở Kyoto- Nhật Bản) Phụng hoàng đậu nóc Gác Vàng Cất cao tiếng gáy rung vang núi rừng
19/09/2020(Xem: 14028)
Năm bài thơ của HT Tuệ Sỹ do Trần Trung Đạo ngâm Khung Trời Cũ Tôi Vẫn Đợi Một Bước Đường Hận Thu Cao Những Năm Anh Đi
19/09/2020(Xem: 6877)
Sông Đồng Lung Đồng Lung sông nước chảy êm đềm Chảy mãi sầu vơi suốt cổ kim Cuối bãi cò bay lâu sậy héo Đầu non trâu nghỉ bóng trăng tàn Chiều non thẳm tiếp thành cô quạnh Thu trúc hàn sanh quán nhỏ đơn Thích thú ngắm âu theo nước chảy Đời lênh đênh biết mấy khi nhàn? Trúc Nguyên-Thích Chúc Hiền (Phỏng dịch )
18/09/2020(Xem: 6448)
Xưa xa gạch đá ướp thăng trầm Nội chiến bi hùng, buồn ngoại xâm Tiếng gọi trùng phùng ray rứt hát Lời ru hội ngộ nghẹn ngào ngâm
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]