Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

27. Phẩm “Cầu Bát Nhã” ( Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

19/06/202008:01(Xem: 7721)
27. Phẩm “Cầu Bát Nhã” ( Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

 
Pham Cau Bat Nha


TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

 

 

PHẨM “CẦU BÁT NHÔ

 

Phần sau quyển 89 cho đến phần đầu quyển 98, Hội thứ I, ĐBN.

(Tương đương với một phần của phẩm “Tán Hoa”, quyển thứ 09, MHBNBLM)


Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu

Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên

Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le



 


 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, Thiên Đế Thích hỏi Xá Lợi Tử rằng: Bạch Đại đức! Sở hành Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát phải cầu ở đâu? Xá Lợi Tử nói: Kiều Thi Ca! Sở hành Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát phải cầu ở trong sở thuyết của Thiện Hiện.

Khi ấy, Thiên Đế Thích thưa Thiện Hiện rằng: Những điều mà Tôn giả Xá Lợi Tử vừa nói, phải chăng là thần lực của Đại đức? Đại đức là chỗ nương ư?

Thiện Hiện bảo rằng: Kiều Thi Ca! Đấy chẳng phải thần lực của tôi, tôi chẳng phải là chỗ nương.

Thiên Đế Thích thưa: Vậy, đó là thần lực của ai? Ai là chỗ nương?

Thiện Hiện trả lời: Đó là thần lực của Như Lai, Như Lai là chỗ nương.

Thiên Đế Thích nói: Bạch Đại đức! Tất cả pháp không có chỗ nương, làm sao cho lời đã nói của Xá Lợi Tử là thần lực Như Lai, Như Lai là chỗ nương?

Thiện Hiện bảo rằng: Kiều Thi Ca! Đúng như vậy. Như lời ngươi vừa nói, tất cả pháp không có chỗ nương. Vậy nên Như Lai chẳng phải chỗ sở nương, cũng không có sở nương. Chỉ vì tùy thuận thế tục mà thi thiết nói là chỗ nương.

Kiều Thi Ca! Chẳng phải lìa cái không chỗ nương có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa cái không chỗ nương có thể đắc Như Lai như(1), chẳng phải lìa cái không chỗ nương có thể đắc Như Lai pháp tánh, chẳng phải lìa cái không chỗ nương chơn như có thể đắc Như Lai như, chẳng phải lìa cái không chỗ nương pháp tánh có thể đắc Như Lai pháp tánh.

Kiều Thi Ca! Chẳng phải trong cái không chỗ nương có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc cái không chỗ nương; chẳng phải trong chơn như không chỗ nương có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc chơn như không chỗ nương; chẳng phải trong pháp tánh không chỗ nương có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc pháp tánh không chỗ nương.

Kiều Thi Ca! Chẳng phải lìa sắc có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa sắc như có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa sắc pháp tánh có thể đắc Như Lai; chẳng phải lìa sắc có thể đắc Như Lai như, chẳng phải lìa sắc có thể đắc Như Lai pháp tánh.

Kiều Thi Ca! Chẳng phải trong sắc có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc sắc; chẳng phải trong sắc như có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc sắc như; chẳng phải trong sắc pháp tánh có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc sắc pháp tánh.

Nhẫn đến tất cả pháp Phật cũng như vậy.

Kiều Thi Ca! Chẳng phải lìa Thanh văn thừa có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa Độc giác thừa, Vô thượng thừa có thể đắc Như Lai; chẳng phải lìa Thanh văn thừa như có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa Độc giác thừa như, Vô thượng thừa như có thể đắc Như Lai; chẳng phải lìa Thanh văn thừa pháp tánh có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa Độc giác thừa pháp tánh, Vô thượng thừa pháp tánh có thể đắc Như Lai.

Kiều Thi Ca! Chẳng phải trong Thanh văn thừa có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc Thanh văn thừa; chẳng phải trong Độc giác thừa, Vô thượng thừa có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc Độc giác thừa, Vô thượng thừa; chẳng phải trong Thanh văn thừa như có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc Thanh văn thừa như; chẳng phải trong Độc giác thừa như, Vô thượng thừa như có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc Độc giác thừa như, Vô thượng thừa như; chẳng phải trong Thanh văn thừa pháp tánh có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc Thanh văn thừa pháp tánh, chẳng phải trong Độc giác thừa pháp tánh, Vô thượng thừa pháp tánh có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc Độc giác thừa pháp tánh, Vô thượng thừa pháp tánh.

Nhẫn đến tất cả pháp Phật cũng như vậy.

Kiều Thi Ca! Như Lai đối với sắc chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng (2); đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai đối với sắc như chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; đối với thọ, tưởng, hành, thức như cũng chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng.

Kiều Thi Ca! Như Lai lìa sắc chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; lìa thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai lìa sắc như chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; lìa thọ, tưởng, hành, thức như cũng chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng.

Như Lai đối với sắc pháp tánh chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; đối với thọ, tưởng, hành, thức pháp tánh chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng.

Như Lai lìa sắc pháp tánh chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; lìa thọ, tưởng, hành, thức pháp tánh cũng chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng.

Nhẫn đến tất cả pháp Phật cũng như vậy.

Kiều Thi Ca! Những điều mà Tôn giả Xá Lợi Tử đã nói là đối với tất cả pháp, chẳng phải ly, chẳng phải tức, chẳng hợp, chẳng tan, đó là  thần lực của Như Lai, Như Lai là chỗ nương, vì lấy cái không chỗ nương làm chỗ nương.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bảo trời Đế Thích: Kiều Thi Ca! Trước, ngươi đã hỏi về Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ Tát tu hành, nên cầu ở chỗ nào?

Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát chẳng nên cầu Bát Nhã nơi sắc, chẳng nên cầu Bát Nhã nơi thọ, tưởng, hành, thức; cũng chẳng nên lìa sắc, chẳng nên lìa thọ, tưởng, hành, thức mà cầu Bát Nhã. Vì sao? Vì hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức; hoặc lìa sắc, hoặc lìa thọ, tưởng, hành, thức, hoặc đại Bồ Tát, hoặc Bát Nhã, hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, chỗ gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ Tát tu hành chẳng phải sắc, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức; chẳng phải là lìa sắc, chẳng phải lìa thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ Tát tu hành chẳng phải sắc, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức; chẳng phải là lìa sắc, chẳng phải lìa thọ, tưởng, hành, thức. Vì vậy, nên đại Bồ Tát chẳng nên cầu Bát Nhã nơi sắc, chẳng nên cầu Bát Nhã nơi thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nên lìa sắc, chẳng nên lìa thọ, tưởng, hành, thức mà cầu Bát Nhã.

Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát chẳng nên cầu Bát Nhã nơi 12 xứ, 18 giới, chẳng cầu Bát Nhã nơi Tứ đế, 12 nhân duyên, 18 pháp không, chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế… Đại Bồ Tát chẳng nên cầu Bát Nhã nơi tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp Phật bất cộng. Đại Bồ Tát chẳng nên cầu Bát Nhã nơi Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí… cho đến chẳng nên cầu Bát Nhã nơi quả vị Giác ngộ tối cao. Các đại Bồ Tát cũng chẳng nên lìa Bát Nhã nơi 12 xứ 18 giới, chẳng lìa Bát Nhã nơi Tứ đế cho đến quả vị Giác ngộ tối cao.

Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng nên cầu cũng chẳng nên lìa ở tất cả pháp ấy. Vì sao? Vì các pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, chỗ gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ Tát tu hành chẳng phải Tứ đế cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, cũng chẳng phải lìa Tứ đế cho đến quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì tất cả các pháp ấy đều vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ Tát tu hành chẳng phải Tứ đế cho đến quả vị Giác ngộ tối cao; cũng chẳng phải là lìa Tứ đế cho đến quả vị Giác ngộ tối cao. Vì vậy, nên Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu cũng chẳng nên lìa tất cả các pháp Phật nói trên.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi sắc như, chẳng nên cầu nơi thọ, tưởng, hành, thức như; chẳng nên lìa sắc như mà cầu, chẳng nên lìa thọ, tưởng, hành, thức như mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi sắc pháp tánh, chẳng nên cầu nơi thọ, tưởng, hành, thức pháp tánh; chẳng nên lìa sắc pháp tánh mà cầu, chẳng nên lìa thọ, tưởng, hành, thức pháp tánh mà cầu. Nhẫn đến tất cả pháp Phật cũng như vậy.

 

Thích nghĩa:

(1). Như Lai như: Từ được dùng trong Kinh MHBNBLMĐ. Trong khi Kinh ĐBN gọi là chơn như của Như Lai hay Như Lai chơn như. Cách dịch của Kinh MHBNBLMĐ khéo và gọn hơn nên chúng tôi dùng cụm từ “Như Lai như”. Vả lại, Chơn như (Chân như) hay Như tướng chỉ là một. Chân, chân thật không hư dối, Như, tánh của sự chân thật ấy không thay đổi. Đó là một quan điểm trọng yếu của Đại thừa giáo, chỉ thể tánh thường hằng tuyệt đối của vạn hữu, nằm ngoài mọi lí luận nhận thức, ngược lại thế giới hiện tượng thuộc cảm quan hay ý thức. Tri kiến được Chân như tức là Giác ngộ, vượt ra khỏi thế giới nhị nguyên, chứng được cái nhất thể giữa chủ và khách. Chân như đồng nghĩa với Như như, Như thực, Pháp giới, Pháp tánh, Thật tế, Thực tướng, Như Lai tạng, Pháp thân, Phật tánh, Tự tánh thanh tịnh thân, Nhất tâm, Bất tư nghị giới… Người thấy biết và chứng được cái thể chân thật, thường hằng, bất biến của tất cả pháp như thế thì gọi là Như Lai.

(2). Kinh ĐBN dùng cụm từ “chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng”, Kinh MHBNBLMĐ dùng cụm từ “chẳng hợp, chẳng tan”. Chẳng tương ưng hay chẳng phải chẳng tương ưng có nghĩa là chẳng khế hợp hay chẳng phải không khế hợp. Còn cụm từ chẳng hợp, chẳng tan có nghĩa chẳng hòa hợp mà cũng chẳng phân ly nhau. Cả hai cụm từ này có nghĩa như nhau.

 

Lược giải:

 

Bát nhã Ba la mật dạy rằng chẳng nên ở trong sắc hay lìa sắc mà cầu Bát Nhã, cũng chẳng nên ở trong thọ, tưởng, hành, thức hay lìa thọ, tưởng, hành, thức mà cầu Bát Nhã. Bát Nhã nầy cùng với uẩn xứ giới đều chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, không sắc, không hình, không đối, chỉ là nhất tướng chỗ gọi vô tướng. Nhẫn đến chẳng nên ở trong Nhất thiết chủng trí mà cầu Bát Nhã, cũng chẳng nên lìa Nhất thiết chủng trí mà cầu Bát Nhã.

Bát nhã Ba la mật chẳng phải uẩn xứ giới cũng chẳng phải lìa uẩn xứ giới, nhẫn đến chẳng phải Nhất thiết chủng trí, cũng chẳng phải lìa Nhất thiết chủng trí. Bát Nhã chẳng phải sắc như, cũng chẳng phải lìa sắc như, nhẫn đến chẳng phải Nhất thiết chủng trí như, cũng chẳng phải lìa Nhất thiết chủng trí như. Bát nhã Ba la mật chẳng phải sắc pháp tánh, cũng chẳng phải lìa sắc pháp tánh, nhẫn đến chẳng phải Nhất thiết chủng trí pháp tánh, cũng chẳng phải lìa Nhất thiết chủng trí pháp tánh.

Vì sao? Vì tất cả pháp nầy đều vô sở hữu bất khả đắc.

Nên Kinh nói: “Sở hành Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát phải cầu ở trong sở thuyết của Thiện Hiện” mà sở thuyết của Thiện Hiện là không cầu ở ngũ ấm, lục nhập(1), lục thức(2), lục xúc(3) và tất cả pháp Phật; cũng không lìa ngũ ấm, lục nhập, lục thức, lục xúc và tất cả pháp Phật, vì tất cả pháp đều vô sở hữu bất khả đắc. Nên Kinh nói “chẳng lìa tất cả pháp mà được Như Lai, cũng chẳng lìa Như Lai mà được tất cả pháp. Cũng chẳng ở trong tất cả pháp mà được Như Lai, cũng chẳng ở trong Như Lai mà được tất cả pháp. Như Lai đối với tất cả pháp chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai lìa tất cả pháp cũng chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng”.

“(…)Như Lai đối với tất cả pháp chẳng phải ly, chẳng phải tức, chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai là chỗ nương vì đem không có chỗ nương mà làm chỗ nương vậy”.

Đây là công thức khó hội, chúng ta chỉ cần hiểu một cách đơn giản là: Không học là học, không hành là hành, không cầu mà được, không chỗ nương mới là chỗ nương. Có chỗ nương là có chỗ bám, có bám là có trụ, có trụ là có dính mắc dù là trụ trong các pháp được đem lại nhiều công đức nhất. Vô trụ mới là chân trụ. Vô trụ đây là trụ trong Bát Nhã. Trụ trong Bát Nhã là trụ vô sở trụ. Vì vậy, học, hành, mong cầu để có chỗ bám thì giống như nắm bắt một làn hương.

Giáo pháp Bát Nhã ở đây một lần nữa chỉ rõ thế giới hiện tượng là giả danh, là không, là rỗng không, không có gì để sở hữu, nên nói là bất khả đắc. Nếu vô sở hữu, bất khả đắc thì không thể học hay hành, không thể cầu hay chứng. Có học, có hành, có mong cầu, chứng đắc là còn nương tựa như chim tựa cành, như dây leo nương dậu thì không còn tự chủ, không thể đứng vững trên đôi chân của mình nữa. Kỹ thuật tu trì là luyện thân, luyện tâm, luyện chí. Thân có vững, tâm có chuyên, chí có bền… thì không cửa nào mà không gõ được!

 

Vậy, học Bát Nhã phải cầu ở đâu? Mở đầu phẩm này Xá Lợi Tử nói: Kiều Thi Ca! Sở hành Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát phải cầu ở trong sở thuyết của Thiện Hiện. Sở thuyết của Thiện Hiện là gì? Sở thuyết của Thiện Hiện chính là không, vô tướng, vô nguyện. Đó là câu trả lời trực tiếp của chúng tôi. Toàn thể Đại Bát Nhã nói về Tánh Không, nói về Vô tướng, Vô nguyện. Khi nhập được tam muội này thì có thể bước qua cửa không(không môn) mà giải thoát!

Đại Trí Độ Luận Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 29, “Tán Hoa”, tập 3, quyển 55, giải thích rằng:

Phật ở trong cả 6 thời, thường dùng Phật nhãn để quán tâm chúng sanh, thường dùng trí huệ Bát Nhã thuyết về vô thường, khổ, không, vô ngã, thường phân biệt rõ về biệt tướng và tổng tướng của các pháp, thường thuyết về các nhân duyên sanh pháp, nhằm dạy chúng sanh nhận rõ các pháp đều chẳng có ai làm ra (vô chủ tác), chẳng có ai thọ (vô thọ giải), chẳng có ai biết (vô tri giả), chẳng có ai thấy (vô kiến giả), lại thường thuyết các pháp đều là vô chủ tác, vô thọ giả, vô tri giả, vô kiến giả, đều là rốt ráo không, đều là rốt ráo bất khả đắc, là đã thâm nhập được vào Bát nhã Ba la mật rồi”. Nên Phật bảo Tu Bồ Đề dạy bảo trao truyền giáo pháp này.

“Ngài Tu Bồ Đề thay Phật, đã thuyết Bát nhã Ba la mật tại pháp hội, lời thuyết giảng của ngài được Phật chứng minh, khiến chư Thiên Tử đến nghe pháp đều hoan hỷ tín thọ.

Do vậy mà ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đã thay mặt chư Thiên, nêu lên các câu hỏi, để được các ngài Xá Lợi Phất và Tu Bồ Đề giải rõ thêm.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn tự nghĩ: Chẳng biết Bát nhã Ba la mật tướng là như thế nào?

Biết được tâm niệm của vị Đế Thích, ngài Xá Lợi Phất nói: Ngài Tu Bồ Đề thường nhập “pháp không”, thường thuyết “pháp không”, chỗ ngài thuyết ra là “không”, dẫn đến “pháp không” đó cũng là không”.

Vì vậy phải nương nơi chỗ ngài Tu Bồ Đề thuyết mà cầu Bát nhã Ba la mật trong “pháp không” này.

Thích nghĩa cho phần lược giải này:

(1). Lục nhập: Sáu chỗ xâm nhập (thấy biết) hay sáu căn: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.

(2). Lục thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Khi 6 căn tiếp xúc 6 trần thì phát sinh 6 nhận thức này.

(3). Lục xúc: Chỉ cho 6 tác dụng tinh thần do 6 căn, 6 cảnh và 6 thức hòa hợp mà sinh ra. Đó là: Nhãn xúc, nhĩ xúc, tỉ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc. 1/. Nhãn xúc sinh ái: Mắt tiếp xúc với những màu sắc, hình dáng xinh đẹp ở thế gian mà sinh tâm ưa thích, không chịu lìa bỏ. 2/. Nhĩ xúc sinh ái: Tai thường tiếp xúc với tất cả tiếng ca hát, đàn sáo, âm điệu du dương ở thế gian mà sinh tâm ưa thích, không lìa bỏ. 3/. T xúc sinh ái: Mũi thường tiếp xúc với các mùi thơm ở thế gian như chiên đàn, trầm thủy v.v... mà tâm sinh ưa thích, không lìa bỏ. 4/. Thiệt xúc sinh ái: Lưỡi thường tiếp xúc với tất cả hương vị thơm ngon của thế gian mà sinh tâm ưa thích, không lìa bỏ. 5/. Thân xúc sinh ái: Thân tiếp xúc với làn da mịn màng trơn láng của người nam, người nữ mà sinh tâm ham thích, không lìa bỏ. 6/. Ý xúc sinh ái: Ý thường duyên theo tất cả các pháp như sắc, thanh, hương, vị, xúc của thế gian mà sinh tâm ưa thích, không lìa bỏ. (Phỏng theo Tự điển Phật Quang).

Ai học Phật đều có thể hiểu ý nghĩa của tất cả các pháp trên. Chỗ dẫn ý ở đây là: Khi Kinh đề cập đến ngũ uẩn, lục nhập, lục thức, lục xúc tức muốn nói đến thân căn và khí thế gian tức tâm và vật hay nói khác là có ý đề cập đến nhân sinh và vũ trụ. Nên khi tóm lược chúng tôi thường rút gọn là uẩn, xứ, giới hay ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới cho gọn thay vì liệt kê từng pháp một, quá dài dòng./.

 

---o0o---

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567