Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)

29/04/202012:11(Xem: 9811)
I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)

Phat Thanh Dao_10 


TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

I. PHẦN THỨ I TỔNG LUẬN(1):

Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu

Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh 
 Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước


CÁC PHÁP MẦU PHẬT ĐẠO



 

 

 

LIỆT KÊ CHI TIẾT CÁC PHÁP MẦU PHẬT ĐẠO

A. CÁC PHÁP TU THẾ GIAN

(1 - 12)







 
B. CÁC PHÁP TU XUẤT THẾ GIAN

(13 - 16)





(17 - 19)





(20 - 22)






(23)





(24 - 28)






(29 - 31)



 

 

---o0o---

 


 

I. PHẦN THỨ I TỔNG LUẬN(1):

 

CÁC PHÁP MẦU PHẬT ĐẠO

 

 

Trong phần nầy chúng tôi chỉ trình bày “Tất cả các pháp mầu Phật đạo” mà Đại Bát Nhã thường nhắc tới. Nếu không biết những pháp này sẽ gặp nhiều trở ngại cho sự hiểu biết, học tập và thực hành Bát nhã Ba la mật.

Tất cả các pháp mầu Phật đạo, xin lưu ý độc giả, được lặp đi lặp lại hầu như gần hết trong 600 quyển Kinh ĐBN: Hoặc giải rộng hoặc tóm lược. Các pháp này được đề cập đầy đủ ở các phẩm “Biện Đại Thừa” từ quyển 51 trở đi, Hội thứ I; phẩm “Nói tướng Bát Nhã” phần đầu quyển 296, Hội thứ I; phẩm “Các Tướng Công Đức” quyển 380, Hội thứ I; phẩm “Tam Ma Địa” quyển 413, Hội thứ II và phẩm “Niệm Trụ Đẳng” quyển 414 và 415, Hội thứ II; phẩm “Nhiều Đức Tướng” quyển 469, Hội thứ II; phẩm “Thiện Hiện” quyển 488, Hội thứ III; được lập lại ở phẩm “Diệu Tướng” quyển 531, Hội thứ III của Kinh Đại Bát Nhã do Ngài Huyền Trang dịch v.v…; hay phẩm “Tứ Nhiếp” quyển 26 và 27, tập III của Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa(2) do Ngài Cưu Ma La Thập dịch. Trong tất cả quyển liệt kê trên về các pháp mầu Phật đạo, chúng tôi chọn quyển 380 của Kinh ĐBN. Vì quyển này tương đối trình bày gần như đầy đủ tất cả pháp mầu Phật đạo hơn cả.

Tất cả pháp mầu Phật đạo hay “81 khoa danh tướng Bát Nhã” được gọi là các thiện pháp, các diệu pháp, các pháp hy hữu, tư lương Bồ đề Bồ Tát hay đạo Bồ Tát Ma ha tát… nghĩa là người học đạo muốn trở thành Bồ Tát, thành Phật điều kiện cần và đủ là phải học các pháp nầy nên gọi là tư lương Bồ đề Bồ Tát. Tất cả các pháp thắng diệu đó được thu nhiếp vào Kinh Đại Bát Nhã do Ngài Huyền Trang dịch.

Phần thứ I của Tổng luận nầy có lẽ tẻ nhạt đối với một số người. Nhưng thiếu phần này thì coi như chẳng tu chẳng học gì cả mà chỉ đọc Đại Bát Nhã “cho biết” vậy thôi! Muốn tu, học và hành Bát Nhã phải như một lữ hành trèo non lội suối để đến đại thành giàu lợi vui, thì hành giả phải trang bị lương thực, quần áo, thuốc men... Cũng vậy muốn giác ngộ, muốn được Nhất thiết trí trí để trở thành Bồ Tát, Phật, hành giả Bát Nhã phải trang bị một số kiến thức Phật học, phương pháp tư duy, quán tưởng, thiền định, các phương tiện thiện xảo… cho Văn - Tư - Tu(3) được tròn đầy mà thực hành Giới - Định - Huệ(4) tức Tam vô lậu học, mau viên mãn để chóng chứng pháp thân.

 

(Xin mở ngoặc: Trong phần thứ I Tổng luận này chúng tôi chỉ trình bày các pháp mầu Phật đạo theo quyển 380, Hội thứ I, ĐBN. Kinh phân chia các pháp Phật gần như một hệ thống đi từ Nhơn thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Bích chi Phật thừa, Bồ Tát thừa hay Phật thừa. Nhưng chúng tôi không giải thích chi tiết hay nêu ra phương pháp hành trì các pháp tu này. Chúng tôi chỉ trình bày và giải thích đại cương các thiện pháp theo sự chỉ dẫn của Đại Bát Nhã mà thôi. Các pháp tu này được giải thích bổ túc tỉ mỉ bởi Bồ Tát Long Thọ trong Đại Trí Độ Luận hay A Tỳ Đàm Đại Tỳ Bà Sa Luận do Tôn giả Thế Hữu (Vasumitra) và 500 vị Đại A la hán chú giải quản diễn trong bộ luận A Tỳ Đạt Ma Phát Trí do Tôn giả Ca Đa Diễn Ni Tử (Kātyāyaniputra) biên soạn trong thời kỳ kết tập kinh điển lần thứ tư khoảng 400 năm sau khi Phật diệt độ).

 

Phẩm “Phương Tiện Tịnh Độ”quyển 394, Hội thứ I, ĐBN: Phật bảo Huệ Mạng Tu Bồ Đề:

- “Này Tu Bồ Đề! Nên biết, lại có vô lượng công đức tu hành của các Bồ Tát đều gọi là Thiện pháp, cũng gọi là Tư lương Bồ đề, cũng gọi là Bồ Tát đạo. Các đại Bồ Tát cần phải tu thiện pháp thù thắng như thế khiến viên mãn cùng tột mới có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí(5). Cần phải chứng đắc Nhất thiết trí trí rồi mới có thể chuyển bánh xe Chánh pháp(6) không trái ngược, khiến các hữu tình giải thoát sanh tử, chứng đắc cứu cánh Niết bàn(7) thường lạc”.

Vậy, pháp nào được coi Thiện pháp, Tư lương Bồ đề, cũng gọi là Bồ Tát đạo?

 

Phẩm “Chánh Định” quyển 477 và phẩm “Tuyên Hóa” quyển 536, ĐBN, Ngài Huyền Trang dịch có ghi như sau: Huệ Mạng Tu Bồ Đề(8) thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là tất cả thiện pháp?

Phật bảo:

“(…)Tu Bồ Đề! Các đại Bồ Tát từ sơ phát tâm tu hành Tứ niệm xứ cho đến tám Thánh đạo chi. An trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. An trụ Chân như cho đến bất tư nghì giới. An trụ khổ tập diệt đạo Thánh đế. Tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Tu hành các bậc Bồ Tát. Tu hành tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn. Tu hành Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí.

(…)Bởi đây sở tu Tứ niệm xứ cho đến Nhất thiết chủng trí năng tự nhiêu ích, cũng năng nhiêu ích tất cả hữu tình khiến thoát sanh tử được Niết Bàn, nên nói là Thiện pháp, cũng gọi Tư lương Bồ đề Bồ Tát, cũng gọi Bồ Tát đạo. Các Bồ Tát quá khứ, vị lai, hiện tại hành đạo đây, nên đã được, sẽ được, đang được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Cũng khiến hữu tình đã, sẽ, đang qua biển lớn sanh tử(9) được vui Niết Bàn.

Tu Bồ Đề phải biết! Lại có vô lượng Bồ Tát tu các công đức đều gọi Thiện pháp, cũng gọi Tư lương Bồ đề Bồ Tát, cũng gọi đạo Bồ Tát Ma ha tát. Các đại Bồ Tát cần tu các thắng thiện pháp như thế khiến cực viên mãn, mới chứng được Nhất thiết chủng trí. Đã chứng được Nhất thiết chủng trí mới có thể quay xe Chánh pháp, khiến các hữu tình an vui rốt ráo”.

Vậy, một người từ sơ phát tâm cho đến khi thành chánh quả Vô Thượng Bồ đề đều phải trải qua tu tập các pháp môn này, nên các pháp môn này được xem là các Thiện pháp, các pháp mầu Phật đạo, Tư lương Bồ đề hay Bồ Tát đạo... Đoạn kinh trên có thể tạm coi là một định nghĩa giản lược về các thiện pháp mà chúng tôi sẽ có cơ hội trình bày sau.

 

Đoạn Kinh ở phẩm “Khéo Học”, quyển 333, ĐBN nói rằng:

“Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật cũng là thiện hữu tốt nhất của đại Bồ Tát; 37 pháp trợ đạo cũng là thiện hữu tốt nhất của đại Bồ Tát; bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng là thiện hữu tốt nhất của đại Bồ Tát; khổ thánh đế, tập diệt đạo thánh đế cũng là thiện hữu tốt nhất của đại Bồ Tát; pháp nội ngoại không, không không đến pháp vô tánh tự tánh Không cũng là thiện hữu tốt nhất của đại Bồ Tát; chơn như, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới cũng là thiện hữu tốt nhất của đại Bồ Tát; pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng là thiện hữu tốt nhất của đại Bồ Tát; thập địa Bồ Tát cũng là thiện hữu tốt nhất của đại Bồ Tát; năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng là thiện hữu tốt nhất của đại Bồ Tát; pháp môn Tam ma địa, pháp môn Đà la ni cũng là thiện hữu tốt nhất của đại Bồ Tát; Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng là thiện hữu tốt nhất của đại Bồ Tát; Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng là thiện hữu tốt nhất của đại Bồ Tát… cho đến tất cả hạnh Bồ Tát, quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật cũng là thiện hữu tốt nhất của đại Bồ Tát.

Phật bảo Tu Bồ Đề:

(…)Này Thiện Hiện! Nên biết, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, tứ vô sở úy, đại từ, đại bi v.v… đối với các chúng đại Bồ Tát là thầy, là hướng đạo, là ánh sáng, là đuốc, là đèn, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là hộ, là thất, là nhà, là bờ, là bến, là về, là đến, là cha, là mẹ.

“(…) Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác của quá khứ, vị lai, hiện tại ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong khắp mười phương trụ trì an ổn tất cả hữu tình, khai thị pháp vi diệu, đều lấy bố thí Ba la mật, nói đủ cho đến cảnh giới bất tư nghì làm thầy, làm hướng đạo, làm ánh sáng, làm đuốc, làm đèn, làm hiểu, làm biết, làm trí, làm tuệ, làm cứu, làm hộ, làm thất, làm nhà, làm bến, làm bờ, làm về, làm đến, làm cha, làm mẹ. Vì sao? Vì chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều từ bố thí Ba la mật… nói đủ cho đến cảnh giới bất tư nghì mà xuất sanh. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát ý thích muốn chứng quả vị Giác ngộ tối cao, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật thì nên học bố thí Ba la mật, nên học tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã; nên học tất cả pháp Phật hay nói khác nên học Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì ở trong Kinh Bát Nhã sâu xa nầy, rộng nói tất cả pháp tướng nên học. Tất cả chúng đại Bồ Tát đối với pháp nầy đều phải siêng năng tin cần tu học”.

Lời giới thiệu này đủ chứng tỏ tánh cách vi diệu của các pháp môn Phật học này đối với các Bồ Tát huống chi là chúng sanh trần tục như chúng ta.

Thích nghĩa:

 (1). Chỉ giới thiệu sơ lược về các “Pháp mầu Phật đạo”. Phần thứ II mới đề cập đến lịch sử Kinh, thích nghĩa cùng luận giải các giáo lý chính của Đại Bát Nhã.

(2). Xin lưu ý: Kinh MHBNBLMĐ của Ngài La Thập dịch cũng được gọi là đại phẩm Bát Nhã, nhưng chỉ thuyết các giáo lý Bát Nhã của Hội thứ II mà thôi (không phải thuyết toàn bộ Đại Bát Nhã 16 pháp hội). Bồ Tát Long Thọ dùng Kinh MHBNBLMĐ để viết ra Bộ Đại Trí Độ Luận mà chúng ta có dịp tham khảo ở Hội thứ II của thiên Tổng luận này.

(3). Tam hữu lậu học còn gọi là tam tuệ: Văn - Tư - Tu. Văn tuệnghe mà phát tuệ; Tư tuệ do hỏi mà sanh tuệ; Tu tuệ do tu mà phát sanh tuệ. Sẽ thích nghĩa chi tiết sau.

(4). Tam vô lậu học: Giới - Định - Huệ. Giới nhằm chế phục tội lỗi xâm nhập từ ngoài vào; Định nhằm khắc phục vọng niệm điên đảo phát sanh từ bên trong; còn Huệ nhằm hiểu biết chính xác chân lý. Sẽ giải thích chi tiết sau.

(5). Nhất thiết trí trí, Nhất thiết tướng trí hay Nhất thiết chủng trí: Trong phẩm “Phương Tiện Thiện Xảo”, quyển 525, Hội thứ III. Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện: “Này Thiện Hiện! Nhất thiết trí nghĩa là trí chung của Thanh văn và Độc giác. Đạo tướng trí là trí chung của đại Bồ Tát. Nhất thiết tướng trí là diệu trí riêng của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng giác”. Đây có thể xem là một định nghĩa ngắn gọn về ba trí trong Phật đạo. Kinh Đại thừa, nhất là Kinh ĐBN phân biệt ba loại trí: 1- Nhất thiết trí là trí của Nhị thừa, 2- Đạo tướng trí là trí của Bồ Tát và Nhất thiết tướng trí, Nhất thiết chủng trí hoặc Nhất thiết trí trí là trí của Phật. Sẽ giải thích nhiều về trí này khi học đến phần thứ II, Tổng luận.

(6). Quay xe chánh pháp (chuyển pháp luân) là thuyết pháp độ sinh. Quay bánh xe pháp có nghĩa lăn bánh xe sắt để cán nhẹp tất cả những chướng ngại trên đường như cỏ cây, gai gốc, v.v... cũng như thuyết pháp để hướng dẫn chúng sinh ra khỏi những mê lầm đen tối.

Khi đức Phật thành đạo Ngài thấy pháp mà mình giác ngộ mầu nhiệm khó giải bày nên muốn nhập Niết bàn ngay. Phạm Thiên thấy vậy mới cầu khẩn Ngài thay vì giảng giải đạo giác ngộ khó khăn thì hãy dùng những thí dụ phương tiện quyền biến để dẫn dắt chúng sanh. Phật hứa. Rồi từ đó Ngài lặn lội khắp các vùng Bắc, Trung Ấn và dọc theo sông Hằng khai ngộ chúng sanh. Phật thuyết Tứ đế lần đầu tiên cho năm anh em Kiều trần Như tại vườn Lộc Uyển. Đó là lần chuyển pháp luân đầu tiên sau khi Phật giác ngộ.

(7). Niết bàn: Có nghĩa là tịch diệt, an lạc, giải thoát. Đây là mục đích cuối cùng của người tu Phật. Niết bàn không thể coi là cảnh giới hữu vi, trong đó có lầu cát diễm lệ sơn son thếp vàng, cơm ăn áo mặc đầy đủ, cung nữ đờn ca hát xướng suốt ngày đêm... giống như Thiên đàng. Cũng không nên hiểu Niết bàn là hư vô, trống rỗng. Thật ra, Niết bàn là cảnh giới rốt ráo được Phật miêu tả trong rất nhiều kinh điển Đại thừa, mà qua đó có thể hiểu là cảnh giới giải thoát tuyệt đối, dứt sạch mọi triền phược và chứng đắc thể tánh thường tồn của vạn hữu. Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士, 1230 -1291) của Việt Nam nói: “Niết Bàn tâm tịch tịch, sanh tử hải trùng trùng, bất sinh hoàn bất diệt, vô thỉ diệc vô chung” (涅槃心寂寂、生死海重重、不生還不滅、無始亦無終): Niết Bàn tâm vắng lặng, sanh tử biển trùng trùng, chẳng sanh lại chẳng diệt, không trước lại không sau.

Theo TT. Thích Tâm Thiện “Chú Giải Các Thuật Ngữ Trong Trung Luận” khi thuyết về Lịch sử tư tưởng và triết học Tánh Không, giải thích Niết bàn như sau:

“Niết bàn được diễn dịch bằng nhiều từ đồng nghĩa như: Tịch diệt, diệt độ, giải thoát, vô vi, an lạc... Cách dịch mới là viên tịch, thị tịch... Niết bàn được chia thành hai loại:

1- Hữu dư y Niết bàn: Cái nhân sinh tử đã được đoạn tuyệt.

2- Vô dư y Niết bàn: Cái quả sinh tử đã được đoạn tuyệt, do vậy, khi lâm chung mới đạt đến Vô dư Niết bàn.

Theo Tăng Triệu, Niết bàn hay diệt độ là chỉ cho sự vượt qua cái hoạn nạn lớn và cuối cùng, vượt qua bốn dòng sông, vĩnh viễn không còn bập bềnh trong biển sinh tử nữa.

Pháp Tướng Tôn nói đến Niết bàn qua các góc độ:

1- Bản lai tự tính thanh tịnh Niết bàn: Niết bàn là tự tính thanh tịnh tuyệt đối vốn có từ nghìn xưa. 

2- Hữu dư y Niết bàn: Sự dứt trừ căn rễ của tất cả phiền não để cho Chân như hiển lộ.

3- Vô dư y Niết bàn: Chân như thoát hiện ngoài tất cả khổ ải trong sinh tử.

4- Vô trụ xứ Niết bàn: Chân như hiển thị cùng khắp trong tam giới, sinh khởi đại bi tâm, đến đi hóa độ chúng sinh.

Và ở đây, chỉ riêng Đức Phật là có đầy đủ 4 đức Niết bàn này”.

(8). Tu Bồ Đề (skt là Subhuti). Còn gọi là Tu Phu Đê, Tu Bổ Đề, Tàu dịch là Không Sinh, Thiện Hiện, Thiện Cát, hay Thiện Nghiệp. Ông là một trong mười đệ tử lớn của Đức Phật, đệ tử đầu tiên liễu ngộ “Tánh Không” bậc nhất vào thời bấy giờ. Mặc dầu ông chỉ thuộc bậc La Hán, nhưng có đầy đủ chất lượng của một Bồ Tát. Vì vậy, Thế Tôn giao cho ông trọng trách giáo hóa các Bồ Tát về Tánh Không Bát Nhã. Ông đã đắc Vô tránh Tam muội, thích tĩnh lặng và không ưa tranh cãi. Ông được Phật thọ ký về đời sau sẽ thành Phật, hiệu là Danh Tướng Phật, cõi giới của Ngài tên là Bảo Sanh giới, kỳ kiếp của Ngài tên là Hữu Bảo Kỳ kiếp.

(9). Qua biển lớn sanh tử: Ý nói “đáo bỉ ngạn”, tiếng Phạn là Ba la mật đa (pramit), Hán dịch là độ, là đưa qua, nghĩa là pháp môn “đưa qua bờ bên kia” tức là giải thoát ra khỏi luân hồi sanh tử và được Niết bàn, đối với “thử ngạn” nghĩa là còn ở bờ bên này, tức bcủa luân hồi sanh tử hay triền phược.

 

Lưu ý: Trong suốt bộ Tổng luận nầy, kiểu chữ  Times New Roman “in thẳng” dùng ghi lại lời Kinh, Luận, lời của Cổ đức, Thiền sư hoặc các học giả Phật học; kiểu chữ Times New Roman “in nghiêng” là thích nghĩa hay chiết giải của tác giả.

 

 

LIỆT KÊ CHI TIẾT CÁC PHÁP MẦU PHẬT ĐẠO.

 

Đoạn kinh của phẩm “Các Tướng Công Đức”, quyển 380, Hội thứ I, Ngài Huyền Trang dịch: Có thể xem như là một bản tổng kết các pháp mầu Phật đạo. Đoạn kinh này được lặp đi lặp lại hàng trăm, hàng nghìn lần trong suốt 600 quyển ĐBN hoặc tóm lược hoặc giải rộng:

“Phật nói với Thiện Hiện Tu Bồ Đề về các “Pháp cực kỳ hy hữu” Bồ Tát dùng tứ nhiếp pháp(1) để nhiếp hộ và an lập chúng sinh như sau:

Bồ Tát Ma ha tát này thí (bố thí) các hữu tình những của cần dùng rồi, lại khuyên quy y Phật Pháp Tăng, Tam bảo(2), hoặc khuyên thọ trì năm giới cận sự(3), hoặc khuyên thọ trì tám giới cận trụ(4), hoặc khuyên thọ trì mười thiện nghiệp đạo(5), hoặc khuyên tu hành sơ thiền, hoặc khuyên tu hành đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền(6) hoặc khuyên tu hành Từ vô lượng, hoặc khuyên tu hành Bi, Hỷ, Xả vô lượng(7).

Hoặc khuyên tu hành định Không vô biên xứ, hoặc khuyên tu hành định Thức vô biên xứ, hoặc khuyên tu hành định Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ(8). Hoặc khuyên tu hành Phật tùy niệm, hoặc khuyên tu hành Pháp tùy niệm, hoặc khuyên tu hành Tăng tùy niệm, giới tùy niệm, xả tùy niệm, thiên tùy niệm(9), hoặc khuyên tu hành quán bất tịnh(10), hoặc khuyên tu nhớ đếm hơi thở(11). Hoặc khuyên tu hành tưởng vô thường, hoặc khuyên tu hành tưởng khổ vô thường, tưởng khổ vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng nhàm ăn, tưởng tất cả thế gian chẳng đáng vui, tưởng chết, tưởng đoạn, tưởng lìa, tưởng diệt(12). Hoặc khuyên tu hành Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo (13).

Hoặc khuyên tu hành Không Tam ma địa, hoặc khuyên tu hành Vô tướng, Vô nguyện Tam ma địa(14). Hoặc khuyên tu hành Không giải thoát môn, hoặc khuyên tu Vô tướng, Vô nguyện giải thoát môn(15). Hoặc khuyên tu hành tám giải thoát(bát bội xả), hoặc khuyên tu hành tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ(16). Hoặc khuyên tu hành bố thí Ba la mật, hoặc khuyên tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã, phương tiện xảo, nguyện, lực, trí Ba la mật(17). Hoặc khuyên an trụ khổ thánh đế, hoặc khuyên an trụ tập diệt đạo thánh đế(18).

Khuyên an trụ nội không; hoặc khuyên an trụ ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không(19). Hoặc khuyên an trụ chơn như, hoặc khuyên an trụ pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới(20).

Hoặc khuyên tu hành tất cả Đà la ni môn, hoặc khuyên tu hành tất cả Tam ma địa môn(21). Hoặc khuyên tu hành Cực hỷ địa, hoặc khuyên tu hành Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa(22). Hoặc khuyên tu hành năm nhãn, hoặc sáu thần thông(23).

Hoặc khuyên tu hành Như Lai mười lực, hoặc khuyên tu hành bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng(24). Hoặc khuyên tu hành đại từ, hoặc khuyên tu hành đại bi, đại hỷ, đại xả(25); hoặc khuyên tu hành pháp không quên mất, hoặc khuyên tu hành tánh luôn luôn xả(26); Hoặc khuyên tu hành Nhất thiết trí, hoặc tu hành Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí(27).

Hoặc khuyên tu hành ba mươi hai tướng đại sĩ, hoặc khuyên tu hành tám mươi tướng tùy hảo(28). Hoặc khuyên tu hành quả Dự lưu; hoặc khuyên tu hành quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề(29). Hoặc khuyên tu hành tất cả hạnh Bồ Tát Ma ha tát(30). Hoặc khuyên tu hành chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề”(31).

Đoạn kinh này có thể coi là một bản liệt kê gần đủ tất cả các thiện pháp hay Phật pháp hay còn gọi là các pháp mầu Phật đạo, các pháp hy hữu, tư lương Bồ đề Bồ Tát… mà hành giả tu Phật từ sơ phát tâm cho đến khi thành chánh quả phải trải qua. Nếu tiệm tu(1), hành giả phải trải qua ba A tăng kỳ kiếp(2) như Phật Thích Ca Mâu Ni chẳng hạn.

Tuy nhiên, quyển 380, phẩm “Các Tướng Công Đức” thuộc Hội thứ I không phân chia các pháp mầu Phật đạo làm hai phần: Các pháp tu thế gian và các pháp tu xuất thế gian. Quyển 530, phẩm “Diệu Tướng”, Hội thứ III ghi rõ phạm trù của pháp thế gian là:

Pháp thí thế gian của đại Bồ Tát là gì? Đó là khi đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa, vì các hữu tình mà tuyên nói, chỉ bày phân biệt rõ ràng diệu pháp thế gian. Đó là quán bất tịnh, hoặc niệm hơi thở, hoặc bốn tĩnh lự, hoặc bốn vô lượng, hoặc bốn định vô sắc, hoặc lục thần thông, hoặc các pháp thế gian và dị sanh khác. Đây gọi là pháp thí thế gian”.

Thích nghĩa:

(1). Tiệm tu: Pháp tu có thứ lớp, tu từng bậc từ thấp tới cao, tu dần dần qua các pháp môn Phật học theo một diễn trình. Trong lịch sử Phật học có nói đến Thần Tú, đệ tử của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn tu theo lối này. Ngược lại với tiệm tu là đốn tu. Đốn tu là thấy, nghe, hiểu biết... đạt ngộ tức thời không qua một tiến trình nào cả như trường hợp của Lục Tổ Huệ Năng, cũng là môn đồ của Ngũ Tổ, tu cùng thời với Thần Tú dưới trướng của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn.

(2). Ba a tăng kỳ kiếp (còn gọi là Tam a tăng kỳ, Tam kỳ, Tam vô số đại kiếp, Tam vô số kiếp…): Ba kiếp A tăng kỳ, tức là khoảng thời gian mà vị Bồ Tát phải trải qua kể từ khi phát tâm tu hành đến khi đạt thành Chánh quả. A tăng kỳ (Phạm: Asaôkhya) nghĩa là vô lượng số; kiếp là đơn vị thời gian rất lâu xa, có đại kiếp, trung kiếp và tiểu kiếp khác nhau. Theo thuyết của Nhiếp đại thừa luận bản quyển hạ, được lưu ý nhất, thì: 1). Kiếp A tăng kỳ thứ nhất: Bồ Tát Địa tiền, tức tu hành trải qua 40 giai vị: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng. 2). Kiếp A tăng kỳ thứ hai: Các Bồ Tát vào Thập địa, tu từ Sơ địa đến Thất địa. 3). Kiếp A tăng kỳ thứ ba: Bồ Tát tu từ Bát địa tới Thập địa rồi vào Đẳng giác, Diệu giác tức thành Phật. Phật thích Ca Mâu Ni theo lịch sử Phật đạo còn ghi lại đã trải qua các chặng đường như trên mới thành Chánh quả.

(3). Cận sự: Chỉ người phụng sự Tam bảo, gần gũi Phật pháp để ngăn ngừa tội lỗi, nên gọi là cận sự. Cận sự có hai: Cận sự nam (Phạm: Upàsaka. Dịch âm là Ưu bà tắc, Ô ba sách ca. Còn gọi là Thanh tín sĩ) và Cận sự nữ (Phạm: Upàsikà. Dịch âm: Ưu bà di, Ưu ba tư ca). Chỉ người nữ tu tại gia giữ năm giới, có nghĩa là gần gũi Tam bảo, phụng thờ Như Lai, thụ ba qui y và giữ năm giới cũng như người cận sự nam.

(4). Cận trụ (Phạm, Pàli: Upavàsa. Dịch âm: Ô ba bà sa, Ưu ba bà sa): Còn gọi là Thiện túc. Chỉ các nam nữ tu tại gia thọ trì tám giới. Vì gần gũi với Tam bảo, cho nên gọi là Cận trụ, Thiện túc. Người nam thọ trì tám giới gọi là Cận trụ nam; người n thọ trì tám giới gọi là Cận trụ nữ.

 

 

A. CÁC PHÁP TU THẾ GIAN:

 

 

Được coi là các pháp tu thế gian khi hành giả tu theo các pháp thuộc thế gian: Các quả được hưởng chỉ là các quả hữu lậu nghĩa là sanh ra làm người (Nhơn) hay trời (Thiên), với các phúc lợi cụ thể có giới hạn như đối với người tu giữ năm giới hoặc tám giới hoặc tu thập thiện, thì sinh ra có năm căn đầy đủ, sanh vào chỗ giàu sang, có đức độ, được mọi người kính trọng hay sanh vào dòng họ cao quý có địa vị như vua chúa, hay sanh thiên v.v… Đối với người tu Tứ thiền, Bát định thì được sanh vào cõi trời hữu sắc hay vô sắc có đầy đủ uy quyền, có cung điện uy nghi tráng lệ, có bầu đoàn thê thiếp, quyến thuộc đông đúc nghĩa là có đời sống vật chất và tinh thần thật sung mãn không gì bằng v.v… Nhưng đó chỉ là cái quả có giới hạn, nếu Nhơn hay Thiên vì một niệm bất giác xảy ra có thể bị rơi rụng, lại bị đọa vào cảnh giới tối tăm như các chúng sanh khác.

 

1. TỨ NHIẾP PHÁP: Bốn phép nhằm thu phục nhân tâm tiến vào đạo Bồ đề, gồm:

 

1- Bố thí nhiếp: Dùng bố thí để cảm hóa chúng sinh, đưa họ vào đạo để mong cầu giải thoát. Bố thí gồm có: Thí sắc, dùng vật chất bố thí; thí lực, dùng công sức để bố thí; thí an còn gọi là vô úy thí, dùng sự an ổn bố thí, tức bảo vệ người khác cho họ được an ổn, yên tâm; thí mạng, dùng mạng sống để bố thí; thí biện, dùng biện tài để bênh vực cho kẻ yếu thế. Ngoài ra còn hai hình thức bố thí khác được coi là cao cả là pháp thí, đem giáo lý của đức Phật giảng dạy cho người khác để họ liễu đạo như mình và thân giáo, lấy thân mô phạm của mình làm gương mẫu để giáo hóa kẻ khác.

2- Ái ngữ nhiếp: Dùng lời nói dịu ngọt, an ủi, khuyên lơn khiến chúng sinh đem lòng cảm mến.

3- Lợi hành nhiếp: Mang lợi ích san sẻ cho chúng sinh để cảm hóa và dẫn dắt họ vào đường giải thoát.

4- Đồng sự nhiếp: Cùng làm một nghề nhưng mình giỏi kỹ thuật hơn, hiểu biết hơn, nên chia sẻ, giúp đỡ các cộng sự viên để họ được thăng tiến như mình.

Tứ nhiếp pháp được nhắc nhiều lần trong Kinh ĐBN nên không cần trích dịch ở đây. Hiểu đại cương như giải thích trên cũng tạm đủ.

 

2. QUY Y TAM BẢO.

 

Quy y dịch từ Phạn ngữ, Nam mô có nghĩa phục tòng. Như một lãng tử sau bao thuở lưu lạc phong trần bây giờ quay về nương tựa dưới mái ấm gia đình là Phật, Pháp, Tăng và tự phát nguyện:

 

3. GIỮ GÌN 5 GIỚI:

 

Giới luật của ngưi Phật tử tại gia, cấm: Sát sanh, trộm cướp, tà dâm, rượu chè (cần sa ma túy) và nói dối.

 

4. HOẶC GIỮ GÌN 8 GIỚI:

 

1- Không sát sanh,

2- Không trộm cắp,

3- Không dâm dục (trái phép),

4- Không nói dối,

5- Không uống rượu,

6- Không được trang điểm(cài hoa, xức dầu thơm,thoa phấn)

7- Không được đàn ca, múa hát hay xem hát,

8- Không được nằm giường cao, ghế rộng.

Nếu người tu giữ tám giới trọn một ngày một đêm và chỉ thọ nhật một lần trước giờ ngọ thì gọi là thọ Bát quan trai. Vậy xin đừng nhầm tu giữ gìn tám giới với tu Bát quan trai giới.

 

5. HOẶC THỌ TRÌ 10 THIỆN NGHIỆP ĐẠO:

 

1- Về thân: Có 3 là không: Sát, Đạo, Dâm.

2- Về khẩu: Có 4 không: Nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi 2 chiều, nói lời hung ác.

3- Về ý: Có 3 là không: Tham, sân, si.

 

6. TU HÀNH TỨ THIỀN

 

1- Sơ thiền: Hành giả khởi đầu bằng tâm lý nhàm chán các triền phược, ô trọc của cõi Dục và mong cầu xa lìa. Sau nhờ thiền pháp này mà xa lìa được ô trược của Dục giới, sinh ra vui mừng, nên gọi “ly sinh hỷ lạc”.

2- Nhị thiền: Nhưng vui mừng cũng là một cái chướng ngại mới của tâm, nên cần phải xa lìa. Vì vậy, hành giả phải vào định cao hơn là Nhị thiền. Khi định này có kết quả, các vui mừng thô phù của Sơ thiền chấm dứt, các vui mừng mới vi tế hơn của thiền này lại phát sinh. Vì thế, cho nên gọi là “Định sinh hỷ lạc”.

3- Tam thiền: Cái vui mừng của Nhị thiền mặc dầu vi tế nhưng cũng không tránh khỏi sự dao động của tâm. Vì vậy, hành giả cần phải loại trừ cái vui mừng của Nhị thiền. Khi trừ bỏ được cái vui mừng này thì nỗi vui mừng mầu nhiệm khác lại phát sinh. Vì thế, cho nên gọi là “Ly hỷ sinh diệu lạc”.

4- Tứ thiền: Ở Tam thiền vẫn còn cái vui mầu nhiệm (diệu lạc), hễ còn vui thì không được an tịnh. Hành giả phải tiến thêm một bậc nữa, đi vào thiền thứ tư là xả luôn cái niệm vui để tâm được hoàn toàn thanh tịnh. Vì thế nên gọi “xả niệm thanh tịnh”.

 

Lưu ý: Hội thứ XV, phần nói về “Thiền Định Ba La Mật” sẽ giải thích rõ hơn.

 

7. TU HÀNH TỨ VÔ LƯỢNG TÂM (hay Tứ phạm trú):(1)

 

Bốn tâm vô lượng (Từ, Bi, H, X): Là bốn tâm nguyện rộng lớn vô giới hạn của chư Phật và các vị Bồ Tát. Bốn tâm này đối trị bốn phiền não là sân hận, ganh tị, buồn phiền và tham muốn, để mang lại lợi ích và an vui cho vô lượng vô số chúng sanh, nên gọi là bốn tâm vô lượng:

1- Từ vô lượng: Từ tâm, tâm hòa thuận nhu nhuyễn yêu thương bờ bến đối với người hay muôn loài, trong đó không có tham lam sân hận, sẵn sàng chịu đựng mọi đau khổ phiền muộn cho tất cả chúng sanh;

2- Bi vô lượng: Bi thương, lòng thương xót trước những đau khổ vô bờ bến của chúng sanh, nên quyết tâm ra tay cứu độ;

3- Hỷ vô lượng: Vui theo cái vui của chúng sanh. Thấy chúng sanh hết khổ được vui, nên vui theo;

4- Xả vô lượng: Xả là bỏ, từ bỏ, buông bỏ những ràng buộc thế gian. Về vật chất là xả bỏ thân mạng tài sản, về tinh thần là những phiền não, chấp trước… để tâm được rỗng rang tự tại.

Phẩm “Pháp Giới”, quyển 567, Hội thứ VI, ĐBN. Phật dạy Thắng Thiên Vương:

- “Này Thiên vương! Đó là bốn vô lượng. Các đại Bồ Tát đầy đủ tâm đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả nên thường có thể lợi ích an vui trong việc giáo hóa hữu tình, đó là Bồ Tát phương tiện thiện xảo.

- Bạch Thế Tôn! Vì sao bốn thứ này nói là Đại?

- Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật đầy đủ Từ không biên giới, Từ không phân biệt, Từ các pháp tánh, Từ chẳng ngưng nghỉ, Từ không não hại, Từ lợi ích lớn, Từ bi tánh bình đẳng, Từ bi lợi lạc khắp, Từ bi xuất thế gian. Những loại như thế v.v... gọi là Đại từ.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, thấy các hữu tình đủ các thứ khổ, không có nơi quay về nương tựa, vì muốn cứu giúp nên phát Bồ đề tâm, siêng cầu chánh pháp; đã tự mình đắc rồi, giảng thuyết cho các hữu tình:

Những người tham lam thì dạy tu bố thí.

Người không giới, phá giới thì dạy thọ trì giới.

Người tánh hung ác, dạy hành nhẫn nhục.

Người lười biếng, trễ nải, dạy hành tinh tấn.

Người tâm tán loạn, dạy hành tịnh lự.

Người ngu si, dạy học diệu tuệ.

Vì độ hữu tình nên dù gặp phải các thứ việc khó khăn rất khổ nhọc, nhưng hoàn toàn không rời bỏ Bồ đề tâm. Những việc làm như thế gọi là Đại bi.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, nghĩ:

Ba cõi lửa cháy dữ dội, ta đã ra khỏi nên sanh hoan hỷ.

Dây sanh tử ràng buộc từ lâu, ta đã cắt đứt vĩnh viễn nên sanh hoan hỷ. Ở trong biển sanh tử tìm tòi chấp thủ, chấp tướng, ta đã ra khỏi hẳn nên sanh hoan hỷ.

Cờ kiêu mạn dựng từ vô thỉ, ta đã bẻ gãy nên sanh hoan hỷ.

Dùng trí Kim cang phá núi phiền não, làm cho tiêu tan hết nên sanh hoan hỷ.

Ta đã tự an ổn, lại an ổn cho người. Kẻ ngu si tối tăm, kẻ tham, sân, mạn v.v... phiền não trói buộc, ngái ngủ triền miên trong thế gian, nay mới được thức tỉnh nên sanh hoan hỷ.

Ta nay đã thoát khỏi tất cả nẻo ác, lại có thể cứu giúp hữu tình trong nẻo ác, làm cho được ra khỏi, nên sanh hoan hỷ.

Hữu tình từ lâu ở trong sanh tử mê lầm, chẳng biết đường ra, ta nay cứu giúp chỉ dạy đường chánh, làm cho đến được thành Nhất thiết trí, an vui hoàn toàn nên sanh hoan hỷ.

Các việc làm như thế v.v... gọi là Đại hỷ.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, đối với tất cả sắc mà mắt đã thấy, tiếng mà tai đã nghe, mùi mà mũi đã ngửi, vị mà lưỡi đã nếm, xúc mà thân đã chạm, pháp mà ý đã rõ, chẳng đắm, chẳng lìa mà khởi tâm xả. Những việc làm như thế gọi là Đại xả.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, thành tựu bốn vô lượng lớn như thế, do đó gọi là phương tiện thiện xảo”.

Từ điển Đạo Uyển định nghĩa tứ vô lượng tâm hay tứ phạm trú như sau: S, P: catur-brahmavihāra; Hán Việt: Tứ phạm trú (四梵住), cũng được gọi là Tứ vô lượng tâm (四無量心): Một phép thiền định, trong đó hành giả tạo điều kiện cho bốn tâm thức cao thượng phát sinh. Bốn phạm trú là: Từ (s: maitrī) vô lượng, Bi (s, p: karuṇā) vô lượng, Hỷ (s, p: muditā) vô lượng và Xả (s: upekṣā) vô lượng. Bốn tâm vô lượng này đối trị bốn phiền não là sân hận, ganh tị, buồn bực và tham muốn. Trong Đại thừa, Bốn phạm trú cũng được gọi là hạnh Ba la mật (s: pāramitā; Lục độ). Đó là tâm thức của Bồ Tát muốn cứu độ chúng sinh. Thực hành Bốn phạm trú, thiền giả sẽ tái sinh tại cõi Thiên (s, p: deva). Đức Phật giảng về phép thiền định này như sau: “Có bốn vô lượng. Hỡi các tỷ khưu, một người tràn đầy tâm (từ, bi, hỷ, xả) sẽ phóng tâm đó đi một phương, hai phương, ba phương, bốn phương, rồi phía trên, phía dưới, xung quanh mình. Người đó phóng tâm đi khắp thế giới, chiếu rọi khắp nơi với tâm (từ, bi, hỷ, xả), tâm thức vô lượng vắng bóng sân hận và phiền não”.

 

8. TỨ VÔ SẮC XỨ ĐỊNH (còn gọi là Tứ không định, hay Tứ định vô sắc):

 

1- Không vô biên xứ định:

Mặc dầu đạt được Tứ thiền, tâm hoàn toàn thanh tịnh, nhưng hành giả vẫn còn thấy sắc pháp, sắc giới…, thân cảnh còn trói buộc nên tâm muốn trốn tránh. Để xa lìa, hành giả phải vượt qua sắc tưởng(sắc pháp, sắc giới…)quán tưởng hư không vô biên. Dứt bỏ được các tưởng về sắc tướng thì được Không vô biên x(1).

2- Thức vô biên xứ định:

Mặc dầu đã xa lìa được sắc tưởng, nhưng hành giả vẫn còn giữ bản ngã hẹp hòi là còn thấy cái thức “Hư không vô biên”. Định thứ hai giúp hành giả vượt qua luôn cả “cái thức khởi lên Hư không vô biên” thì được Thức vô biên xứ, thức này không có giới hạn. Kinh nói: “Hoàn toàn vượt qua Không vô biên xứ, biết rằng “Thức vô biên xứ” vị ấy chứng trú Thức vô biên xứ”.

3- Vô sở hữu xứ định:

Nếu Không vô biên xứ là trở ngại cho Thức vô biên xứ, thì Thức vô biên xứ cũng một trở ngại cho sự an tịnh. Hành giả từ bỏ sự bám víu vào Thức vô biên xứ và quán sự phi hữu, sự trống rỗng, khía cạnh viễn ly của chính cái Không vô biên xứ và Thức vô biên xứ. Hành giả vào định thứ ba là quán “tất cả đều không có gì”, không tâm , không cảnh, không năng, không sở... Nếu làm được như vậy, thức khởi lên trong định sẽ trở thành Vô sở hữu xứ. Đạt đến điểm này, kinh nói: “Hoàn toàn vượt qua Thức vô biên xứ, biết rằng “không có gì”, hành giả chứng và trú Vô sở hữu xứ”.

4- Phi tưởng và phi phi tưởng xứ định (Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ định):

Đạt đến mức định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hành giả chẳng có tưởng, chẳng không tưởng, tâm được an tịnh hoàn toàn. Đạt đến điểm này, kinh nói: “Bằng cách vượt qua hoàn toàn Vô sở hữu xứ, hành giả chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ”(2).

Thích nghĩa:

(1). Cái gì không có giới hạn trong không gian (àkàmanantam) thì gọi là hư không vô biên, hư không vô biên ấy là một xứ (àyatana) trong nghĩa trụ xứ, chỗ trú, nơi sinh hoạt của tâm linh.

(2). Tưởng ở đây không phải là tưởng, vì nó không làm nhiệm vụ quyết định của tưởng, và nó cũng không phải là phi tưởng, vì nó hiện diện trong một trạng thái vi tế, như một hành còn sót lại, nên nói là “phi tưởng phi phi tưởng”, lại là một xứ, nghĩa là làm nền tảng cho những trạng thái khác, nên nói là “phi tưởng phi phi tưởng xứ”. Và ở đây không phải chỉ có tưởng là như vậy, mà thọ là phi thọ phi phi thọ, thức cũng là phi thức phi phi thức, xúc là phi xúc phi phi xúc, và cũng vậy đối với các pháp liên hệ còn lại. (Thích nghĩa này viết theo Tập I, Thanh Tịnh Đạo, chương X, do Ni sư Thích nữ Trí Hải dịch từ quyển “The Path of Perfection”, bản dịch Anh ngữ của Thượng tọa Nànamoli, nguyên bản Pàli do Luật sư Buddhaghosa sáng tác vào thế kỷ thứ V Tây lịch).

Theo D.T. Suzuki, một Thiền sư đã chứng thiền, người có thẩm quyền trong phương diện này (trong cuốn Thiền Luận Quyển thượng, Luận hai, tiểu mục 5 nói về Thiền và Dhyana) giải thích tứ thiền và tứ định vô sắc hay tứ vô sắc giải thoát như sau: “Định (samadhi) và thiền (dhyana) trong nhiều trường hợp đồng nghĩa nhau, và thường dùng lẫn lộn nhau; đúng nghĩa thì định là một trạng thái tâm lý chứng được bằng phép tu thiền. Thiền là một diễn trình, còn định là cứu cánh”.

 

- Tứ thiền:

Thiền đầu - sơ thiền - là do công phu tập trung tư tưởng vào một vật duy nhất kỳ cho đến trong tâm mờ nhạt hết tham dục mà chỉ còn lại cảm giác hỷ lạc. Nhưng trí thức còn hoạt động, nên sự phán đoán và suy đoán còn tác động vào đối tượng của sự quán tưởng. Khi tất cả động tác ấy hoàn toàn lắng đứng và tâm an trụ ở một điểm, đó là chứng thiền thứ hai - nhị thiền - trong ấy vẫn còn cảm giác hỷ lạc. Ở thiền thứ ba - tam thiền - tâm càng thâm quán càng thanh tịnh, nhưng những hoạt động vi tế nhất của tâm vẫn chưa xả trừ hết, đồng thời niềm hỷ lạc vẫn còn nguyên. Khi thiền thứ tư, tột bực - tứ thiền - chứng đến thì cả đến hỷ lạc cũng dứt tuyệt, và đó là trạng thái tuyệt đối thanh tịnh của tâm đi vào đại định. Tất cả yếu tố về cảm giác và thức giác khuấy động sự thanh tịnh của tâm đều lần lượt được điều chế, và tâm, tự tịnh tự định, hoàn toàn thu nhiếp trong tam muội. Đó là chứng đến cảnh giới tuyệt đối quân bình giữa chỉ (samatha) và quán (vipasayana), nghĩa là giữa thiền và định.

 

- Tứ vô sắc định hay còn gọi là tứ vô sắc giải thoát:

Vượt qua tứ thiền, còn bốn thiền giới khác gọi là tứ vô sắc giải thoát (arupavimoksha), tức tứ vô sắc định. Định đầu gọi là không vô biên xứ định, cốt quán toàn thể hư không bao la vô lượng (không gian) mà không bị phân tán bởi những hình thái thiên sai vạn biệt; định thứ nhì - thức vô biên xứ định - là cảnh giới của vô biên ý thức đối lại với vô biên hư không; định thứ ba - vô sở hữu xứ định - vượt qua sự phân biệt giữa hư không và tư tưởng; và định thứ tư - phi tưởng phi phi tưởng xứ định - xả trừ cả ý thức vô phân biệt trên để hoàn toàn thoát ly tất cả trí thức suy luận.

Để kết luận về Thiền và quán, chúng ta có thể nói một cách đại cương như sau: Có nhiều trường phái Thiền và phương pháp Thiền khác nhau, nhưng tựu trung hành thiền là lấy tâm để quán sát chính nó. Thiết yếu có hai hình thức Thiền: Thiền Chỉ hay Thiền Định (đình chỉ tâm) dẫn đến sự an tĩnh vắng lặng và Thiền Quán hay Thiền Tuệ (quán sát để sanh tuệ) tiến tới sự trực nghiệm bản chất của sự vật và trí tuệ giải thoát.

Thích nghĩa chung cho các pháp tu thế gian:

Đoạn kinh vừa nêu trên xếp loại các pháp tu này là pháp tu thế gian. Cái quả của người tu các pháp thế gian như trên đã nói, nếu giữ năm giới, tám giới hay tu thập thiện đạo tốt kiếp sau sẽ sanh ở cõi Dục, trở thành người tốt, năm căn đầy đủ, có đức độ, được mọi người quý trọng hay sanh Thiên ở Tứ châu hay Lục dục thiên. Người tu Tứ thiền thành công thì được sanh ở cõi Sắc và người tu Tứ Vô sắc định thì được sanh ở cõi Vô sắc.

Kinh thường chia chúng sanh luân hồi trong ba cõi (tam giới) là Dục, Sắc và Vô Sắc thành hai mươi lăm thành phần gọi là “nhị thập ngũ hữu”(1). Trong cõi Dục có 14 cách hiện hữu, trong cõi Sắc có 7, trong cõi Vô Sắc có 4:

 

1- Mười bốn hiện hữu thuộc về Dục giới:

 

1/. Tứ ác đạo:

 

1). Địa ngục,

2). Súc sanh,

3). Ngạ quỷ,

4). A tu la,

 

2/. Tứ châu hay Tứ thiên hạ (Bốn cõi thiên hạ): Mỗi thế giới được chia theo bốn phương của núi Tu di, gọi là Bốn châu hay Bốn cõi thiên hạ, gồm có:

 

1). Phương Bắc là Câu lô châu, hay Uất đan việt châu;

2). Phương Nam là Thiệm bộ châu, hay Diêm phù đề châu;

3). Phương Tây là Ngưu hóa châu hay Cồ da ni châu;

4). Phương Đông là Thắng thần châu hay Phất bà đề châu.

 

3/. Lục dục thiên:

 

1). Tứ thiên vương xứ,

2). Tam thập tam thiên xứ (Trời Ba mươi ba),

3). Diệm ma thiên (Trời Dạ ma),

4). Đâu suất thiên (Trời Đổ sử đa),

5). Hóa lạc thiên (Trời Lạc biến hóa), và

6). Tha hóa tự tại thiên.

 

2- Bảy hiện hữu thuộc về Sắc giới là Tứ thiền thiên gồm: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền; Tịnh cư thiên gồm: Đại phạm vương, Vô tưởng thiên, Tịnh cư A na hàm, cộng tất cả lại là bảy. Trong mỗi cảnh lại có các bậc trời khác nhau:

 

1/. Sơ thiền: Người tu đắc sơ thiền có thể dạo chơi hay thác sanh lên 3 tầng trời như Phạm chúng thiên, Phạm phụ thiên, Phạm đại thiên; gọi chung là Tam phạm: Đại phạm là vua, Phạm phụ là quan, Phạm chúng là dân:

2/. Nhị thiền: Người tu đắc nhị thiền có thể thác sanh lên 3 tầng trời như: a/. Thiểu quang thiên: Tầng trời này ít ánh sáng nhất nên gọi là Thiểu quang thiên. b/. Vô lượng quang thiên: Ánh sáng ở tầng trời này dần dần tăng thêm tới mức khó đo lường được, nên gọi là Vô lượng quang thiên. c/. Cực quang tịnh thiên: Ánh sáng ở tầng trời này sáng hơn 2 tầng trời nói trên, chiếu khắp cõi mình. Lại vì thiên chúng của tầng trời này dùng ánh sáng làm tiếng nói nên còn gọi là Quang âm thiên;

3/. Tam thiền: Người tu đắc tam thiền có thể thác sanh lên 3 tầng trời như: a/. Thiểu tịnh thiên: Chư thiên cõi này cảm nhận niềm vui thanh tịnh ít nhất trong cõi trời Tam thiền nên gọi là Thiểu tịnh thiên. b/. Vô lượng tịnh thiên: Sự cảm nhận niềm vui thanh tịnh của chư thiên cõi trời này dần dần tăng thêm đến mức không thể đo lường được, cho nên gọi là Vô lượng tịnh thiên. c/. Biến tịnh thiên: Chư thiên cõi này cảm nhận niềm vui thanh tịnh thù thắng nhất và tràn lan khắp, nên gọi là Biến tịnh;

4/. Tứ thiền: Người tu đắc tứ thiền có thể thác sanh lên 3 tầng trời như: a/. Vô vân thiên: Tầng trời này ở trên các tầng mây dày đặc, cho nên bắt đầu từ đây, chỉ có những làn mây mỏng như ánh sao. b/. Phúc sinh thiên: Kẻ phàm phu phải có phúc đức thù thắng mới được sinh lên tầng trời này. c/. Quảng quả thiên: Nơi thù thắng nhất trong các tầng trời cõi Sắc mà phàm phu được sinh đến.

Và Tịnh cư thiên gồm: 1). Đại phạm vương, 2). Vô tưởng thiên, 3). Tịnh cư A na hàm.

 

3- Bốn hiện hữu thuộc về Vô sắc giới (Tứ không thiên x):

 

1/. Không xứ (không vô biên x),

2/. Thức xứ (thức vô biên xứ),

3/. Bất dụng xứ (hay Vô sở hữu xứ) và

4/. Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

 

Đó là chú giải về nhị thập ngũ hữu mà ta thường thấy trong kinh sách Phật học. Kinh Đại Bát Nhã giới thiệu các hiện hữu của các cõi trời sai khác nằm trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm người tu thiền sau khi hoàn tất Tứ thiền thì phải xả niệm để được thanh tịnh nên an lập ở ngũ tịnh cư thiên.

Nên Phật nói với Ngài A Nan:

“A Nan trong đây lại có 5 tầng Bất hoàn Thiên, các vị nầy đã diệt hết tập khí chín phẩm trong cõi dưới, khổ vui đều hết, ở bên dưới không có chỗ ở nên an lập chỗ ở nơi chúng đồng phần của tâm buông bỏ (tức an lập ở ngũ tịnh cư thiên).

1- Khổ vui đều diệt, không còn tâm niệm đấu tranh; một loài như thế gọi là Vô Phiền Thiên.

2- Tự buông xả, không còn năng xả, sở xả; một loài như thế gọi là Vô Nhiệt Thiên.

3- Khéo thấy mười phương thế giới thảy đều đứng yên, lại không còn cấu nhiễm trầm trọng của trần cảnh; một loài như thế gọi là Thiện Kiến Thiên.

4- Tri kiến thanh tịnh hiện tiền, nhồi nắn hun đút không ngại; một loài như thế gọi là Thiện Hiện Thiên.

5- Quán sát rốt ráo các cực vi cùng tột tính của sắc pháp vào tính không bờ bến; một loài như thế gọi là Sắc Cứu Cánh Thiên”.

Thích nghĩa:

(1). Chúng tôi thích nghĩa thành phần hiện hữu của các cõi trời theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm y theo lời giới thiệu của Kinh Đại Bát Nhã. Nếu quý vị có hứng thú xin tham khảo cuốn Thủ Lăng Nghiêm Trực chỉ của Hàm Thị Giải, dịch giả Thích Phước Hảo, MỤC VI: Các cõi trời sai khác, trang 869, nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà nội.

 

9. TU HÀNH LỤC TÙY NIỆM

 

Sáu thứ tưởng nhớ, nhiếp tâm cho khỏi tán loạn, gồm có: 1- Niệm Phật, 2- Niệm Pháp, 3- Niệm Tăng, 4- Niệm giới (suy nghĩ, tưởng nhớ về các giới luật để giữ thân tâm được thanh tịnh), 5- Niệm xả (hay thí tức là bố thí, xả ngã để giải thoát thân tâm), 6- Niệm thiên (luôn luôn nhnghĩ là không muốn rơi vào cảnh giàu sang, sung sướng, trường thọ... của cõi thiên mà thối thất Bồ đề tâm).

Phẩm “Diệu Tướng” quyển 528, Hội thứ III, ĐBN. Phật dạy Cụ thọ Thiện Hiện về lục tùy niệm như sau:

“Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát từ lúc phát tâm trong khi tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành, đem Nhất thiết trí trí tương ưng với tác ý, tin hiểu các pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh. Trước hết nên tu học tùy niệm Phật, thứ đến tu học tùy niệm Pháp, tuần tự cho đến cuối cùng là tu học tùy niệm thiên”.

 

1- Thế nào là đại Bồ Tát tu học tùy niệm Phật?

“Thiện Hiện nên biết! Thế nào là đại Bồ Tát tu học tùy niệm Phật? Nghĩa là đại Bồ Tát khi tu học tùy niệm Phật, không dùng sắc, thọ, tưởng, hành, thức để tư duy về Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì sắc cho đến thức đều vô tự tánh. Nếu pháp vô tự tánh thì vô sở hữu. Nếu vô sở hữu thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu không niệm, không tư duy, đây gọi là tùy niệm Phật.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi tu học tùy niệm Phật, không nên dùng sắc thân vàng ròng, có ánh sáng một tầm với ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp mà tư duy về Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì sắc thân vàng ròng, tướng hảo như vậy đều vô tự tánh. Nếu pháp vô tự tánh thì vô sở hữu. Nếu vô sở hữu thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu không niệm, không tư duy, đây gọi là tùy niệm Phật.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi tu học tùy niệm Phật, không nên dùng giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát trí kiến uẩn để tư duy về Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì các uẩn như vậy đều vô tự tánh. Nếu pháp vô tự tánh thì vô sở hữu. Nếu vô sở hữu thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì không niệm, không tư duy, đây gọi là tùy niệm Phật.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi tu học tùy niệm Phật, không nên dùng năm loại mắt, sáu phép thần thông, Như Lai mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí và vô lượng, vô biên các pháp của Phật để tư duy về Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì các pháp như vậy đều vô tự tánh. Nếu pháp vô tự tánh thì vô sở hữu. Nếu vô sở hữu thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu không niệm, không tư duy, đây gọi là tùy niệm Phật.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi tu học tùy niệm Phật, không nên dùng pháp duyên khởi để tư duy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì các pháp duyên khởi đều vô tự tánh. Nếu là pháp vô tự tánh thì vô sở hữu. Nếu vô sở hữu thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu không niệm, không tư duy, đây gọi là tùy niệm Phật.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã sâu xa, nên tu học tùy niệm Phật như thế. Nếu tu học tùy niệm Phật, thì tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành. Nếu đại Bồ Tát có khả năng tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành như vậy, thì có thể viên mãn bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, nói rộng, cho đến Nhất thiết tướng trí. Nhờ đó chứng đắc Nhất thiết trí trí. Đại Bồ Tát này dùng tất cả pháp vô tánh làm tự tánh, nhờ sức phương tiện nên hiểu tất cả pháp đều vô tự tánh, trong ấy không hữu tưởng, cũng không vô tưởng.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát nên tu học tùy niệm Phật như thế, nghĩa là trong ấy ngay cả Phật còn bất khả đắc, huống gì có tùy niệm Phật”.

 

2- Thế nào là đại Bồ Tát tu học tùy niệm Pháp?

“Lại nữa, này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ Tát tu học tùy niệm Pháp? Nghĩa là đại Bồ Tát khi tu học tùy niệm Pháp, không nên tư duy pháp thiện, pháp ác, hoặc pháp hữu ký, pháp vô ký, hoặc pháp thế gian, pháp xuất thế gian, hoặc pháp có ái nhiễm, pháp không ái nhiễm, hoặc thánh pháp, phi thánh pháp, hoặc pháp hữu lậu, pháp vô lậu, hoặc pháp rơi rớt trong ba cõi, pháp chẳng rơi rớt trong ba cõi, hoặc pháp hữu vi, pháp vô vi. Vì sao? Vì các pháp như vậy đều vô tự tánh. Nếu pháp vô tự tánh thì vô sở hữu. Nếu vô sở hữu thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu không niệm, không tư duy, đây gọi là tùy niệm Pháp.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã sâu xa, nên tu học tùy niệm Pháp như thế. Nếu tu học tùy niệm Pháp như vậy thì đây là tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành. Nếu đại Bồ Tát có khả năng tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành thì có thể viên mãn bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí. Do đây chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Đại Bồ Tát này dùng tất cả pháp vô tánh làm tự tánh. Nhờ sức phương tiện nên học tất cả pháp đều vô tự tánh, trong ấy không hữu tưởng, cũng không vô tưởng.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát nên tu học tùy niệm Pháp như thế, nghĩa là ngay trong ấy pháp còn bất khả đắc, huống gì có tùy niệm Pháp”.

 

3- Thế nào là đại Bồ Tát tu học tùy niệm Tăng?

“Lại nữa, này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ Tát tu học tùy niệm Tăng? Nghĩa là đại Bồ Tát khi tu học tùy niệm Tăng, nên nghĩ: Chúng đệ tử Phật đầy đủ các công đức, là những bậc Thánh nhân, bốn đôi tám vị(1), tất cả đều là do vô vi hiển bày, đều lấy vô tánh làm tự tánh. Do nhân duyên này nên không tư niệm. Vì sao? Vì bậc Thiện sĩ như vậy đều vô tự tánh. Nếu pháp vô tự tánh thì vô sở hữu. Nếu vô sở hữu thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu không niệm, không tư duy, đây gọi là tùy niệm Tăng.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã sâu xa, nên tu học tùy niệm Tăng như thế. Nếu tu học tùy niệm Tăng như thế thì đây là tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành. Nếu đại Bồ Tát có khả năng tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành như vậy, thì có thể viên mãn bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí. Nhờ đó chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Đại Bồ Tát này dùng tất cả pháp vô tánh làm tự tánh. Do sức phương tiện nên giác ngộ tất cả pháp đều vô tự tánh, trong ấy không hữu tưởng, cũng không vô tưởng.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát nên tu học tùy niệm Tăng như thế, nghĩa là trong ấy ngay cả Tăng còn bất khả đắc, huống gì có tùy niệm Tăng”.

 

4- Thế nào là đại Bồ Tát tu học tùy niệm giới?

“Lại nữa, này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ Tát tu học tùy niệm giới? Nghĩa là đại Bồ Tát khi tu học tùy niệm giới, từ lúc mới phát tâm nên tùy niệm thánh giới không khuyết, không hở, không tỳ vết, không nhơ uế, không chấp thủ, đáng được cúng dường, được người trí khen ngợi, thọ trì pháp thiện vi diệu, tùy thuận viên mãn tư duy thắng định, giới này đều lấy vô tánh làm tự tánh. Do nhân duyên này nên không tư niệm. Vì sao? Vì Thánh giới như thế đều vô tự tánh. Nếu pháp vô tự tánh thì vô sở hữu. Nếu vô sở hữu thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu không nhớ, không tư duy, đây gọi là tùy niệm giới.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã sâu xa, nên tu học tùy niệm giới như thế. Nếu tu học tùy niệm giới như thế thì đây là tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành. Nếu đại Bồ Tát có khả năng tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành như vậy, thì có thể viên mãn bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí. Nhờ đó chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Đại Bồ Tát này dùng tất cả pháp lấy vô tánh làm tự tánh. Do sức phương tiện nên hiểu tất cả pháp đều vô tự tánh, trong ấy không hữu tưởng, cũng không vô tưởng.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát nên tu học tùy niệm giới như thế, nghĩa là trong ấy ngay cả giới còn bất khả đắc, huống gì có tùy niệm giới”.

 

5- Thế nào là đại Bồ Tát tu học tùy niệm xả?

“Lại nữa, này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ Tát tu học tùy niệm xả? Nghĩa là đại Bồ Tát khi tu học tùy niệm xả, từ lúc mới phát tâm nên dùng vô tánh làm tự tánh, phương tiện tu tùy niệm xả, nên khi xả tài vật hoặc xả pháp, không nên nghĩ: Ta có thể xả bỏ hoặc không thể xả bỏ. Nếu khi xả các chi phần trong thân thể, cũng không nên nghĩ: Ta có thể xả bỏ hoặc không thể xả bỏ. Không tư duy về sự bố thí và phước báo của sự bố thí. Vì sao? Các pháp như thế đều vô tự tánh. Nếu pháp vô tự tánh thì vô sở hữu. Nếu vô sở hữu thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu không niệm, không tư duy, đây gọi là tùy niệm xả.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã sâu xa, nên tu học tùy niệm xả như thế. Nếu tu học tùy niệm xả như thế thì đây là tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành. Nếu đại Bồ Tát có khả năng tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành như vậy, thì có thể viên mãn bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí. Nhờ đó chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Đại Bồ Tát này dùng pháp vô tánh làm tự tánh. Do sức phương tiện nên hiểu tất cả pháp đều vô tự tánh, trong ấy không hữu tưởng, cũng không vô tưởng.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát nên tu học tùy niệm xả như thế, nghĩa là trong ấy ngay cả xả còn bất khả đắc, huống gì có tùy niệm xả”.

 

6- Thế nào là đại Bồ Tát tu học tùy niệm thiên?

“Lại nữa, này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ Tát tu học tùy niệm thiên? Nghĩa là đại Bồ Tát khi tu học tùy niệm thiên, từ lúc mới phát tâm nên dùng vô tánh làm tự tánh, phương tiện tu tùy niệm thiên như vầy: Các bậc Dự lưu sanh trong sáu cõi trời Dục giới, các bậc Bất hoàn sanh vào hai cõi trên. Tất cả như vậy đều bất khả đắc, không thể nhớ nghĩ. Vì sao? Vì chư thiên này đều vô tự tánh. Nếu pháp vô tự tánh thì vô sở hữu. Nếu vô sở hữu thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu không niệm, không tư duy, đây gọi là tùy niệm thiên.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã sâu xa, nên tu học tùy niệm thiên như thế. Nếu tu học tùy niệm thiên như thế thì đây là tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành. Nếu đại Bồ Tát có khả năng tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành như vậy, thì có thể viên mãn bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí. Nhờ đó chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Đại Bồ Tát này dùng tất cả pháp lấy vô tánh làm tự tánh. Do sức phương tiện nên hiểu tất cả pháp đều vô tự tánh, trong ấy không hữu tưởng, cũng không vô tưởng.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát nên tu học tùy niệm thiên như thế, nghĩa là trong ấy ngay cả thiên còn bất khả đắc, huống gì có tùy niệm thiên. (Q.528, ĐBN)

Thiện Hiện nên biết! Đây là đại Bồ Tát từ lúc mới phát tâm nương theo học sáu pháp tùy niệm tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành, làm lợi ích an vui loài hữu tình”.

 

Lưu ý: Ngoài sáu tùy niệm này, kinh còn liệt kê thêm 4 niệm khác nữa là vắng lặng tùy niệm, hít thở ra vào tùy niệm, thân tùy niệm, chết tùy niệm như phẩm “Học Quán” quyển 03, Hội thứ III, ĐBN đã liệt kê. Như vậy, tổng cộng có cả thảy là 10 tùy niệm.

Phẩm thứ nhất, tập 2, quyển thứ 21, Nói về “Bát Niệm”, Đại Trí Độ Luận nói rằng: Do nhân duyên “8 niệm trừ được khủng bố, sợ hãi”, nên Phật dạy các đệ tử phải thường tu 8 niệm”.

 

Để hiểu thêm, chúng tôi ghi lại các tùy niệm trong Chương VII, tập I, tác phẩm Thanh Tịnh Đạo do NiThích nữ Trí Hải dịch từ quyển “The Path of Perfection”(đã giới thiệu ở trên), như sau:

“Niệm (sati) là tưởng niệm hay tùy niệm (anussati) vì nó khởi lên luôn luôn; hoặc niệm thích hợp (anurùpa) cho một thiện gia nam tử xuất gia vì lòng tin, niệm có mặt trong những trường hợp cần thiết gọi là tùy niệm.

Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ đấng Giác ngộ gọi là niệm Phật. Đây là danh từ để chỉ chánh niệm có đối tượng là những đức tánh đặc biệt là đức Thế Tôn.

Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ Pháp gọi là niệm pháp. Đây là danh từ chỉ niệm mà đối tượng là những đức tánh đặc biệt của pháp được khéo giảng.

Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ Tăng gọi là niệm Tăng. Đây chỉ là danh từ có đối tượng là những đức tánh đặc biệt của Tăng chúng, nghĩa là những tánh như là đi vào con đường chánh,…

Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ giới gọi là niệm giới. Đây là danh từ chỉ niệm có đối tượng là những đức tánh đặc biệt của giới không bị rách...

Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ bố thí gọi là niệm thí. Đây là danh từ chỉ niệm có đối tượng là những đức tánh đặc biệt của sự bố thí như rộng rãi,…

Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ chư thiên gọi là niệm thiên. Đây là danh từ chỉ niệm có đối tượng là những đức tánh đặc biệt của niềm tin, có chư thiên làm chứng.

Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ cái chết gọi là niệm tử. Đây là danh từ chỉ niệm có đối tượng là sự chấm dứt mạng căn.

Thân hành niệm (kàya-gatà-sati) niệm ấy đi đến (gata) cái thân vật chất (kàya) được phân tích thành tóc, v.v…, hoặc đi vào trong thân, nên gọi là thân hành niệm. Đây là danh từ chỉ niệm có đối tượng là tướng của những thân phần gồm có tóc, lông, móng, răng, da v.v...

Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ hơi thở ra vào (ànàpàna) gọi là niệm hơi thở. Đây là danh từ có đối tượng là tướng hơi thở ra hơi thở vào.

Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ sự bình an gọi là niệm diệt. Đây là danh từ chỉ niệm có đối tượng là sự lắng dịu mọi đau khổ”.

Có lẽ với những giải thích giản dị này có thể làm chúng ta cảm thấy dễ chịu hơn. Tuy nhiên, quan niệm của Luận sư Buddhaghosa về niệm Thiên khác với phẩm “Tam Tiệm Thứ” mà Phật đã dạy ở trên.

Định nghĩa sau đây của Phật Quang từ điển có thể soi sáng vấn đề: Niệm Thiên (念天)- Phạm: Devànusmfti, Pàli: Devànussati. Thường nghĩ đến sự vui sướng và đầy đủ của các trời, đồng thời, tu các thiện nghiệp như bố thí, trì giới... làm cho thân tâm được thanh tịnh, không tạo các nghiệp ác để cảm được phước báo thân tướng tốt đẹp của cõi trời. Phẩm Quản diễn trong Kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển 2 (Đại 2, 555 hạ) nói: Đức Thế tôn dạy rằng: Nếu có tỉ khưu chính thân chính ý ngồi kiết già, buộc niệm ở trước, không nghĩ việc khác, chuyên chú niệm thiên, miệng ý thanh tịnh, không tạo nghiệp ác, giữ giới thành thân, phóng ra ánh sáng chiếu khắp mọi nơi (...). Thường xuyên tư duy không lìa thiên niệm, liền được các công đức thù thắng. (X. Kinh Tạp A Hàm Q.33; Kinh Tăng Nhất A Hàm Q.1; luận Đại trí độ Q.22).

Thích nghĩa:

(1). Bốn đôi tám vị còn gọi là tứ song bát bối hay tứ song bát chích: Các bậc tu hành được nhắc tới trong quyển luận Pháp Uẩn Túc quyển 2.

 

10. QUÁN THÂN BẤT TỊNH

 

Luôn luôn nghĩ đến thân mình được cấu tạo toàn là những thứ nhơ bẩn (như nước tiểu, phẩn, mồ hôi, đờm, mũi dãi, máu mủ…) để khỏi quý trọng thân mình mà khinh khi kẻ khác. Pháp quán này cũng nhằm đối trị đối với những người đầy sắc dục.

 

11. HOẶC QUÁN VỀ HƠI THỞ (Sổ tức quán):

 

Người quán pháp này là tập trung tinh thần theo dõi hơi thở ra vào của mình: Thở ra biết thở ra, hít vào biết hít vào, thờ dài biết thở dài, thở ngắn biết thở ngắn Mục đích của pháp quán này là nhiếp tâm để đối trị tán loạn.

 

12. TU HÀNH TƯỞNG VÔ THƯỜNG, TƯỞNG KHỔ, TƯỞNG VÔ NGÃ, TƯỞNG BẤT TỊNH, TƯỞNG NHÀM ĂN, TƯỞNG TẤT CẢ THẾ GIAN CHẲNG ĐÁNG ƯA THÍCH, TƯỞNG CHẾT, TƯỞNG ĐOẠN, TƯỞNG LÌA, TƯỞNG DIỆT:

 

Chỉ cho 10 tư tưởng hoặc 10 điều phải quán tưởng. Đó là: 1- Vô thường tưởng: Quán xét tất cả các pháp hữu vi luôn luôn sanh diệt, vô thường biến hoại. 2- Khổ tưởng: Quán xét tất cả pháp hữu vi là vô thường, luôn bị 3 khổ, 8 khổ bức bách. 3- Vô ngã tưởng: Quán tưởng tất cả pháp là khổ, cũng không tự tại, đều do nhân duyên sanh và không có tự tính, cho nên là vô ngã. 4- Thực bất tịnh tưởng: Quán tưởng tất cả thức ăn uống của thế gian đều từ các nhân duyên nhơ nhớp sanh ra, thảy đều là vật bất tịnh. 5- Nhất thiết thế gian bất khả lạc tưởng: Quán tưởng tất cả thế gian không có một điều gì là vui thú, chỉ toàn là tội lỗi, xấu ác. 6- Tử tưởng: Quán tưởng về tướng của cái chết. 7- Bất tịnh tưởng: Quán tưởng 36 vật bên trong thân con người và 9 cái lỗ ở ngoài thân đều bài tiết ra những thứ hôi thối, nhớp nhúa. 8- Đoạn tưởng. 9- Ly dục tưởng. 10- Tận tưởng. Ba tưởng sau cùng là quán tưởng được Bồ đề Niết bàn, để đoạn trừ phiền não, lìa bỏ cõi mê sống chết và dứt hết hoặc nghiệp sanh tử. (Theo Phật Quang từ điển)

Quyển 536, phẩm “Tuyên Hóa”, Hội thứ III, ĐBN. Phật khuyên rằng:

“Nếu thấy hữu tình nào nhiều tham dục, sanh lòng thương xót, dùng phương tiện làm cho họ tu quán bất tịnh. Nếu thấy hữu tình nào nhiều sân giận, sanh lòng thương xót, dùng phương tiện khuyên họ tu quán từ bi. Nếu thấy hữu tình nào nhiều ngu si sanh lòng thương xót, dùng phương tiện khuyên họ tu quán duyên khởi. Nếu thấy hữu tình nào nhiều kiêu mạn, sanh lòng thương xót, dùng phương tiện khuyên họ tu quán giới phân biệt. Nếu thấy hữu tình nào nhiều tầm tứ, sanh lòng thương xót, dùng phương tiện khuyên họ tu quán hơi thở”.

Đó là các pháp tu thế gian. Tuy nhiên phạm trù giữa các pháp tu thế gian với pháp tu xuất thế gian trong kinh sách phân định cũng không được rõ ràng lắm. Nhưng chúng ta có thể nói một cách tổng quát các pháp tu thế gian là vì còn tùy thuộc thế gian nên không thể thoát khỏi ba cõi sáu đường, không được Thánh trí, không giác ngộ và được Niết bàn thường lạc. Chỉ có các pháp tu xuất thế gian mới được như vậy!

 

 

B. CÁC PHÁP TU XUẤT THẾ GIAN:

 

 

Nhưng muốn tu và đạt được giai vị cao hơn thì phải tu các pháp xuất thế gian, còn gọi là Thánh pháp. Những vị tu theo các pháp tu này được hưởng các quả như Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán, Độc giác, Bồ Tát hay Vô thượng Chánh đảng Chánh giác. “Kết quả của Thánh pháp là dứt trừ vĩnh viễn tất cả tập khí phiền não tương tục”(1), đạt cảnh giới Niết bàn rốt ráo!

Các pháp xuất thế gian(2) gồm:

 

13. TU HÀNH 37 PHÁP TRỢ ĐẠO(3):

 

Bốn niệm trụ (tứ niệm xứ), bốn chánh đoạn (tứ chánh cần), bốn thần túc (tứ như ý túc), năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác (thất giác phần), tám chi thánh đạo (bát chánh đạo phần). Đó là 37 pháp trợ đạo của Đạo đế trong Tứ Diệu đế, có thể tóm lược như sau:

 

1- Bốn niệm trụ còn gọi là Tứ niệm xứ: Bốn chỗ niệm tưởng, bốn điều mà người tu hành thường để tâm đến, hay luôn luôn nghĩ đến:

1/. Quán thân bất tịnh (Thân niệm xứ): Luôn thấy biết rằng thân này do nhân duyên giả hợp, gồm những vật chất bất tịnh, nhơ nhớp, không bền chắc, không có gì đáng tham đắm, chấp giữ.

2/. Quán tâm vô thường (Tâm niệm xứ): Luôn thấy biết rằng tâm niệm vô thường, nối tiếp sinh diệt, không có gì bền chắc, đáng cố chấp.

3/. Quán thọ thị khổ (Thọ mạng xứ): Luôn thấy biết rằng mọi cảm thọ đều là khổ, không có gì để mê đắm, tham tiếc.

4/. Quán pháp vô ngã (Pháp niệm xứ): Thấy rõ tất cả các pháp đều không thật có một bản ngã tồn tại độc lập, chỉ là do nhân duyên hòa hợp mà sanh ra.

Nhờ quán tưởng như vậy mà có thể trụ tâm trong chánh niệm.

 

Quyển 568, phẩm “Niệm Trụ”, Hội thứ VI, Phật bảo Thắng Thiên Vương:

- “Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát này hành sâu Bát nhã Ba la mật thì tâm luôn chơn chánh không có mê loạn. Vì sao? Vì Bồ Tát tu tập viên mãn niệm trụ về thân, thọ, tâm, pháp (tứ niệm xứ). Hễ có đi vào thành ấp, xóm làng nghe nói lợi dưỡng tâm không tham đắm, nhiễm trước. Giống như Thế Tôn đã dạy trong giới kinh: Người khéo chánh niệm thì xa lìa các phiền não.

- Này Thiên vương! Đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật khéo tu niệm trụ về thân như thế nào? Nghĩa là Bồ Tát này dùng trí như thật xa lìa pháp ác bất thiện tương ưng với thân. Quán sát thân này từ đầu đến chân chỉ có các thứ bất tịnh tội lỗi, vô ngã, vô lạc, vô thường, bại hoại, tanh hôi, xú uế, do gân mạch dính liền, gớm ghiếc không đáng nhìn. Quán thân như vậy rồi thì tham dục, chấp thân ngã kiến không còn sanh khởi. Nhờ nhân duyên đó mà các pháp lành tương ưng đều được tùy thuận. (Pháp quán này gọi là Quán thân bất tịnh hay Thân niệm xứ)

- Này Thiên vương! Đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật khéo tu niệm trụ về thọ như thế nào? Nghĩa là Bồ Tát này suy nghĩ: Các thọ đều khổ nhưng vì hữu tình điên đảo lầm tưởng cho là vui. Phàm phu ngu si cho khổ là vui. Thánh giả chỉ nói tất cả đều khổ, vì muốn đoạn diệt khổ nên cần phải tu tinh tấn và khuyến khích người khác nên tu pháp này. Quán như vậy rồi thường trụ niệm thọ, không tùy thuận hoạt dụng của thọ mà phải tu hành đoạn dứt thọ và cũng dạy cho người như vậy. (Pháp quán này gọi là Quán thọ thị khổ hay Thọ niệm xứ)

- Này Thiên vương! Đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật khéo tu niệm trụ về tâm như thế nào? Nghĩa là Bồ Tát này suy nghĩ: Tâm vô thường, người ngu bảo là thường trụ, khổ bảo vui, vô ngã bảo ngã, bất tịnh bảo tịnh. Tâm đây chẳng trụ, nhanh chóng chuyển đổi; cội gốc của thùy miên, cửa của các ác thú, là nhân duyên của mọi phiền não hoại diệt các thiện. Tâm này thường sanh tham, sân, si khó tin tưởng. Tâm dẫn đầu các pháp. Nếu biết rõ tâm thì rõ các pháp. Các pháp thế gian đều do tâm tạo. Tâm chẳng tự thấy các thứ tội lỗi do mình, hoặc thiện hoặc ác đều do tâm khởi. Tâm tánh chuyển nhanh như vòng lửa quay bỗng chốc chẳng dừng, như gió ngựa đồng, như nước bạo động, như lửa năng đốt. Quán như thế khiến nhớ bất động, thì tâm liền theo mình, chẳng theo sở hành. Nếu điều phục tâm như thế là điều phục được các pháp. (Pháp quán này gọi là Quán tâm vô thường hay Tâm niệm xứ)

- Này Thiên vương! Đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật khéo niệm trụ về pháp như thế nào? Nghĩa là Bồ Tát này biết như thật thế gian có các pháp ác bất thiện đó là tham, sân, si và các tập khí phiền não. Cần phải tu các pháp để đối trị trị tham, sân, si và các tập khí phiền não. Biết như vậy rồi chẳng hành tham sân si v.v… và dạy người khác nên xa lìa.

Này Thiên vương! Đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật đối cảnh khởi niệm như thế nào? Nghĩa là Bồ Tát này nếu gặp sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp liền nghĩ: Đối với pháp không chân thật này mà lại sanh tham ái ư? Đây chỉ là sự đắm trước của phàm phu ngu si, ấy là bất thiện”. (Pháp quán này gọi là pháp quan vô ngã hay quán niệm xứ)

 

2- Bốn chánh đoạn (Tứ chánh cn): 4 điều cần thiết phải có của người tu hành:

 

1/. Chuyên cần ngăn ngừa những điều ác chưa phát lộ.

2/. Chuyên cần dứt trừ những điều ác đã phát lộ.

3/. Chuyên cần phát lộ những điều lành chưa phát lộ.

4/. Chuyên cần phát triển những điều lành đã phát lộ.

 

3- Bốn thần túc (Tứ như ý túc): 4 pháp làm nơi nương tựa cho các công đức thiền định, thần thông được thành tựu mỹ mãn như ý muốn của mình. Bốn định ấy là:

 

1/. Dục thần túc (hay Dục như ý túc): Lòng mong muốn tha thiết, khát khao giải thoát, ý chí kiên trì trong tu tập cho đến viên mãn mới thôi.

2/. Tinh tấn thần túc (hay Tinh tấn như ý túc): Tinh tấn là nghị lực tập trung mạnh mẽ, chuyên nhất, không gián đoạn để thực thi các pháp mà mình đang tu để đạt mục tiêu cuối cùng.

3/. Tâm thần túc (hay Nhất tâm như ý túc): Chuyên nhất vào định cảnh, không bao giờ sao lãng như một người té vào giếng cạn giữa rừng sâu, suốt ngày chỉ tập trung tinh thần để làm sao ra khỏi chỗ hiểm ác này.

4/. Trạch pháp thần túc (hay Quán như ý túc): Nghiêm tầm, học hỏi giáo lý, phân biệt rõ chánh pháp, tà pháp.

 

4- Ngũ căn: Là năm căn. Căn đây là căn bản, là gốc rễ, là nguồn gốc để tất cả các thiện pháp xuất sinh. Luận Độ Trí luận dạy rằng: “Năm căn này là căn bản để phát sinh mọi thiện pháp, nên gọi là ngũ căn”.

 

1/. Tín căn: Lòng tin mạnh mẽ, vững chắc. Chính lòng tin đó là căn bản phát sinh những hạnh lành. Phật dạy “Tin là mẹ của vô lượng công đức”. Nhưng đặt lòng tin ở đâu? Phải đặt lòng tin ở Tam bảo: Phật, Pháp và Tăng.

2/. Tấn căn: Tấn là tấn căn, là sự dũng mãnh tinh tấn trên bước đường tu tập, không thối chuyển. Theo Luận Nhiếp Đại thừa, có ba thứ tinh tấn: 1). Bị giáp tinh tấn: Mang áo giáp tinh tấn xông pha dẹp tan giặc phiền muộn, khổ đau; 2). Gia hạnh tinh tấn: Nghĩa là luôn luôn gắng sức, không ngừng nghỉ trên bước đường giải thoát; 3). Vô hỷ túc tinh tấn: Nghĩa là không tự mãn vui mừng cho là đủ khi thâu đạt một vài thắng lợi trên đường tu hành.

3/. Niệm căn: Luôn nghĩ nhớ, niệm tưởng đến chánh pháp.

4/. Định căn: Định hay Tịnh lự, dịch nghĩa chữ Phạn là Dhyana (thiền na). Định là lắng tâm yên tịnh, chuyên chú vào chánh pháp để hiểu rõ thật nghĩa của nó. Căn là gốc rễ, như rễ cây có tác dụng làm cho cây lớn mạnh. Định căn là cội nguồn của sự tập trung trí tuệ để tiến đến giác ngộ. Theo Luận Nhiếp Đại thừa, Định có thể chia thành ba bậc: 1). An trụ định: Để tâm an trụ trong định cảnh, không cho tán động, do đó phiền não có thể tiêu trừ; 2). Dẫn phát định: Do đoạn được phiền não, nên phát sinh sáu phép thần thông và các công đức thù thắng; 3). Thành sở tác sự định: Do phát khởi được các thần thông và công đức, nên thường làm lợi ích cho chúng sinh và cứu độ họ ra khỏi sanh tử, chứng được Niết bàn rốt ráo. Ba định trên nhờ cội rễ của căn tánh sẵn có, chuyên chú tu tập chánh định nên dễ thâu được kết quả.

5/. Tuệ căn: Tuệ là trí sáng suốt có thể thâm nhập vạn pháp. Trí tuệ đó không phải ý thức phân biệt, vì phân biệt là vọng thức của ý thức và cảm quan. Cũng theo Luận Nhiếp Đại thừa, trí tuệ có ba thứ: 1). Vô phân biệt gia hạnh tuệ: Quán trí này không còn thấy có phân biệt, nghĩa là còn phải dụng công tu hành để thành tựu hoàn toàn vô phân biệt trí; 2). Vô phân biệt tuệ: Trí này không cần gia hạnh (gia công dụng hạnh), vì đã thuần thục. Do không phân biệt nên không có mê vọng. Nhờ trí nầy, hành giả được tự tại thể chứng Chân như; 3). Vô phân biệt hậu đắc tuệ: Hay hậu đắc trí, nghĩa là trí tuệ có được sau khi chứng Chân như. Trí tuệ này hoàn toàn sáng suốt, tỏ ngộ được thật tướng các pháp.

 

5- Ngũ lực: Ngũ lực là năm năng lực, năm sức mạnh của ngũ căn. Nói dễ hiểu hơn, ngũ căn như năm cánh tay, còn ngũ lực là sức mạnh của năm cánh tay đó.

 

1/. Tín lực: Thần lực của đức tin hay sức mạnh lớn lao vi diệu do tín căn phát sinh.

2/. Tấn lực: Tức thần lực của tinh tấn hay sức mạnh bất thối chuyển có thể san bằng mọi trở lực. Sức mạnh này do tín căn phát sinh.

3/. Niệm lực: Tức là sự ghi nhớ hay sức mạnh lớn lao bền chặt của niệm căn.

4/. Định lực: Tức thần lực của sự tập trung tư tưởng hay sức mạnh vĩ đại của định căn.

5/. Tuệ lực: Tức thần lực của trí tuệ hay sức mạnh vô biên của tuệ căn.

 

6- Bảy chi đẳng giác (còn gọi là Thất giác phần, Thất giác chi, Thất thánh giác hay Thất giác ý): Bảy phần sáng suốt góp phần tạo nên trí tuệ giải thoát, hay bảy sự hiểu biết chân chánh về những khía cạnh khác nhau trên đường tu tập, gồm:

 

1/. Trạch pháp giác chi: Sáng suốt phân biệt chánh pháp và tà pháp, chọn lựa đúng giáo pháp chân chánh để hành trì.

2/. Tinh tấn giác chi: Sự sáng suốt biết tinh tấn, chuyên cần tu học chánh pháp.

3/. Hỷ giác chi: Sự sáng suốt biết vui sướng, hoan hỷ khi được chánh pháp.

4/. Khinh an giác chi: Sự sáng suốt thanh thản nhẹ nhàng, trừ bỏ mọi chướng ngại trên đường tu tập.

5/. Niệm giác chi: Sự sáng suốt thường niệm tưởng chánh pháp, Tam bảo.

6/. Định giác chi: Sự sáng suốt an trú trong chánh định, tâm không tán loạn.

7/. Xả giác chi: Sự sáng suốt buông bỏ các tà pháp, các ác pháp bất thiện.

 

7- Tám chi thánh đạo (Bát chánh đạo phần): Là tám con đường chân chính hay tám phương tiện mầu nhiệm đưa chúng sinh đến đời sống vi diệu hay đưa chúng sinh đến địa vị Thánh hiền.

 

1/. Chánh kiến: Hay Chánh tri kiến là thấy, nghe, hay biết một cách thẳng thắn, công minh đúng với sự thật khách quan.

2/. Chánh tư duy: Suy nghĩ, xem xét chân chính đúng với lẽ phải.

3/. Chánh ngữ: Ngữ là ngôn từ. Chính ngữ là lời nói chân thật, ngay thẳng, công bình và hợp lý, không a dua, nịnh hót hay xuyên tạc.

4/. Chánh nghiệp: Nghiệp hay karma là kết quả của những hành động tạo tác. Hành động chân chánh, hợp đạo, không vì quyền lợi của mình mà gây tổn hại cho kẻ khác.

5/. Chánh mạng: Mạng là sự sống, đời sống. Chánh mạng là sinh sống chân chính bằng nghề nghiệp lương thiện, trong sạch của mình. Người sống theo chính mạng lấy tịnh giới làm thể, lấy trí tuệ làm mạng, bỏ niệm vọng cầu, an vui với chánh pháp.

6/. Chánh tinh tấn: Là chuyên cần siêng năng học và hành chánh nghĩa để đem lại lợi lạc an vui cho mình và các chúng sinh khác.

7/. Chánh niệm: Là nhớ nghĩ những điều hay lẽ phải, những đạo lý chân chính. Chánh niệm có hai phần: 1).Chánh ức niệm: Là nghĩ nhớ đến những lỗi lầm để thành tâm sám hối; 2).Chánh quán niệm: Là dùng tâm từ bi xét nghĩ cuộc đời là bể khổ, để ra tay cứu độ chúng sinh.

8/. Chánh định: Tập trung quán tưởng vào một vấn đề chính đáng, đúng chân lý có ích lợi cho mình và cho kẻ khác như quán từ bi, quán giới phân biệt...

 

Trên đây tóm lược 37 pháp trợ đạo (Tam thập thất đạo phẩm), phần chánh văn phẩm “Các Tướng Công Đức”, quyển 380, Hội thứ I, ĐBN, Ngài Huyền Trang dịch. Phật giải thích cho Tu Bồ Đề, như sau:

- “Này Thiện Hiện! Thế nào gọi là 4 niệm trụ (hay tứ niệm xứ):

Này Thiện Hiện! Đó là đối với nội thân, an trụ quán theo thân; đối với ngoại thân, an trụ quán theo thân, đối với nội ngoại thân, an trụ quán theo thân, đầy đủ chánh cần, chánh tri, chánh niệm, trừ tham ái ở đời, an trụ thân, quán tập; an trụ thân, quán diệt, do đó đối với thân, an trụ quán theo thân; an trụ thân, quán tập; an trụ thân, quán diệt, không có chỗ tựa, đối với các pháp thế gian, không có sự chấp thọ, đó là thứ nhất. Đối với nội thọ, an trụ quán theo thọ; đối với ngoại thọ, an trụ quán theo thọ; đối với nội ngoại thọ, an trụ quán theo thọ, đầy đủ chánh cần, chánh tri, chánh niệm, trừ tham ái ở đời, an trụ thọ, quán tập; an trụ thọ, quán diệt; do đó đối với thọ, an trụ quán theo thọ; an trụ thọ, quán tập; an trụ thọ, quán diệt, không có chỗ tựa, đối với các pháp thế gian, không có sự chấp thọ, đó là thứ hai. Đối với nội tâm, an trụ quán theo tâm; đối với ngoại tâm, an trụ quán theo tâm; đối với nội ngoại tâm, an trụ quán theo tâm, đầy đủ chánh cần, chánh tri, chánh niệm, trừ tham ái ở đời, an trụ tâm, quán tập; an trụ tâm, quán diệt, do đó đối với tâm, an trụ quán theo tâm; an trụ tâm, quán tập; an trụ tâm, quán diệt, không có chỗ tựa, đối với các pháp thế gian, không có sự chấp thọ, đó là thứ ba. Đối với nội pháp, an trụ quán theo pháp; đối với ngoại pháp, an trụ quán theo pháp, đối với nội ngoại pháp, an trụ quán theo pháp, đầy đủ chánh cần, chánh tri, chánh niệm, trừ tham ái ở đời, an trụ pháp, quán tập; an trụ pháp, quán diệt, do đó đối với pháp, an trụ quán theo pháp; an trụ pháp, quán tập; an trụ pháp, quán diệt, không có chỗ tựa, đối với các pháp thế gian, không có sự chấp thọ, đó là thứ tư”.

(Bốn niệm trụ hay Tứ niệm xứ còn gọi là Tứ Niệm Xứ Quán, Tứ Niệm Chỉ, Tứ Niệm Trú hay Tứ Ý Chỉ là bốn phương pháp nhằm tập trung tâm vào một điểm, đề phòng tạp niệm vọng tưởng và đạt được chân lý. Tứ Niệm Xứ gồm có: 1-. Thân Niệm Xứ: Quán thân bất tịnh; 2- Thọ Niệm Xứ: Quán sự yêu ghét của cảm thọ hết thảy đều là khổ; 3- Tâm Niệm Xứ: Quán tâm là sinh diệt, vô thường; 4- Pháp Niệm Xứ: Quán hết thảy pháp là vô ngã).

- “Này Thiện Hiện! Thế nào gọi là 4 chánh đoạn (hay Tứ chánh cần)? Này Thiện Hiện! Vì khiến cho các pháp ác bất thiện chưa sanh, chẳng sanh, nên khởi phát ý muốn siêng năng tinh tấn, cảnh tỉnh tâm, giữ tâm, đó là thứ nhất. Vì khiến pháp ác bất thiện đã sanh đoạn diệt, nên phát khởi ý muốn siêng năng tinh tấn, cảnh tỉnh tâm, giữ tâm, đó là thứ hai. Vì khiến pháp thiện chưa sanh được sanh nên phát khởi ý muốn siêng năng tinh tấn, cảnh tỉnh tâm, giữ tâm, đó là thứ ba. Vì khiến pháp thiện đã sanh đứng vững chẳng mất, tu và tác chứng trí làm cho đầy đủ tăng trưởng rộng lớn, nên phát khởi ý muốn siêng năng tinh tấn, cảnh tỉnh tâm, giữ tâm, đó là thứ tư”.

(Nói một cách dễ hiểu Tứ Chánh Cần còn gọi là Tứ Chánh Đoạn, Tứ Ý Đoạn hay Tứ Chánh Thắng, gồm có: 1- Siêng năng tinh tấn đoạn trừ các điều ác đã sanh; 2- Siêng năng tinh tấn làm cho không sanh khởi các điều ác chưa sanh; 3- Siêng năng tinh tấn làm cho sanh khởi các điều thiện chưa sanh; 4- Siêng năng tinh tấn làm cho tăng trưởng các điều thiện đã sanh. Lấy sự nhất tâm, tinh tấn để hành trì 4 pháp này cho nên được gọi là Tứ Chánh Cần).

 

- “Này Thiện Hiện! Thế nào là 4 thần túc (hay Tứ như ý túc)?

Này Thiện Hiện! Vì sao tên bốn thần túc? Thiện Hiện! Dục tam ma địa trọn nên đoạn hành, tu tập thần túc. Nương dựa nhàm, nương dựa lìa, nương dựa diệt, hồi hướng về xả, đấy là thứ nhất. Cần tam địa trọn nên đoạn hành, tu tập thần túc, nương dựa nhàm, nương dựa lìa, nương dựa diệt, hồi hướng về xả, đấy là thứ hai. Tấn tam ma địa trọn nên đoạn hành, tu tập thần túc, nương dựa nhàm, nương dựa lìa, nương dựa diệt, hồi hướng về xả, đấy là thứ ba. Quán tam ma địa trọn nên đoạn hành, tu tập thần túc. Nương dựa nhàm, nương dựa lìa, hồi hướng về xả, đấy là thứ tư . Thiện Hiện! Đấy gọi là bốn thần túc”.

(Tứ như ý túc còn gọi là Tứ Thần Túc gồm có Dục Như Ý Túc, Tinh Tấn Như Ý Túc, Tâm Như Ý Túc, Tư Duy Như Ý Túc. Các pháp này tùy theo năng lực mong muốn, nỗ lực, tâm niệm, quán sát mà có được định và tùy theo cái định ấy mà có được các loại thần biến, cho nên được gọi là Tứ Thần Túc).

 

- “Này Thiện Hiện! Những gì gọi là năm căn?

Này Thiện Hiện! Tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn”.

(Ngũ căn tức Năm Căn Vô Lậu dùng để hàng phục phiền não, đưa vào Thánh đạo và có tác dụng tăng thượng, gồm có: 1- Tín Căn: Niềm tin vào Tam Bảo; 2- Tấn Căn hay còn gọi là Tinh Tấn Căn, siêng năng dũng mãnh tu các pháp lành; 3- Niệm Căn: Nghĩ nhớ đến các pháp đúng; 4-. Định Căn: Năng lực khiến cho tâm dừng lại một chỗ, không bị tán loạn; 5- Tuệ Căn: Nhờ có định mà trí tuệ quán xét sanh khởi, cho nên biết được như thật chân lý. Năm pháp này là căn bản thường khiến cho sanh khởi hết thảy các thiện pháp).

 

- “Này Thiện Hiện! Những gì là năm lực?

Này Thiện Hiện! Tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực”.

(Hay ngũ lực: Năm sức mạnh tinh thần hay năm khả năng xuất phát từ năm Căn giúp đạt giác ngộ. Năm lực đó là: 1- Tín lực là tâm loại bỏ các loại tin tưởng sai lầm; 2-Tinh tiến lực là năng lực tu trì Bốn tinh tiến, cũng được gọi là chính cần để diệt trừ bất thiện pháp; 3- Niệm lực là sức mạnh do tu trì Bốn niệm xứ đem lại; 4- Định lực là sức mạnh do Thiền định mang lại nhằm loại bỏ mọi tham ái; 5- Huệ lực là sức mạnh nhờ phát khởi tri kiến Tứ diệu đế)(4).

 

- “Này Thiện Hiện! Những gì gọi là bảy giác chi (hay gọi Thất Bồ đề phần)?

Này Thiện Hiện! Niệm đẳng giác chi, trạch pháp đẳng giác chi, tinh tấn đẳng giác chi, hỷ đẳng giác chi, khinh an đẳng giác chi, định đẳng giác chi, xả đẳng giác chi”.

(Bảy giác chi còn gọi là Thất Đẳng Giác Chi, Thất Biến Giác Chi, Thất Bồ Đề Phần, Thất Bồ Đề Phần Bảo, Thất Giác Phần, Thất Giác Ý, Thất Giác Chí, Thất Giác Chi Pháp, Thất Giác Ý Pháp, gọi tắt là Thất Giác, là 1 trong 37 phẩm trợ đạo, gồm có: 1- Trạch Pháp Giác Chi, nghĩa là chọn lựa sự đúng sai của pháp, lấy cái đúng và bỏ đi cái sai; 2- Tinh Tấn Giác Chi là chọn lựa pháp đúng đắn và tinh tấn chuyên tâm tu tập pháp ấy; 3- Hỷ Giác Chi an trú trong pháp vui đúng đắn; 4- Khinh An Giác Chi là đoạn trừ tà ác đạt để được sự nhẹ nhàng an lạc của thân tâm và tăng trưởng thiện căn; 5- Xả Giác Chi là xả bỏ đi tâm phan duyên với ngoại cảnh và quay trở về sống bình an; 6/. Định Giác Chi là nhập vào thiền định, tâm và cảnh trở thành một, làm cho tâm không tán loạn gọi Định Giác Chi; 7- Niệm Giác Chi khi tu tập đạo pháp, trú trong chánh niệm và thường làm quân bình trí tuệ. Khi tâm được bình lặng với 3 Giác Chi: Trạch Pháp, Tinh Tấn và Hỷ, hành giả quán sát các pháp khích lệ tâm mình. Khi tâm bị dao động thì dùng tâm Khinh An Giác Chi để nhập vào thiền định và làm cho tâm được an tịnh. Trong khi đó 3 Giác Chi trước thuộc về Tuệ và 3 Giác Chi sau thuộc Định còn Giác Chi cuối cùng thuộc về cả Định và Tuệ).

 

- “Này Thiện Hiện! Những gì gọi là tám chi thánh đạo (hay gọi Bát chánh đạo phần)?

Này Thiện Hiện! Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định”.

(Tám chi Thánh đạo là 8 con đường chân chánh, đúng đắn để cầu về cõi Niết Bàn còn gọi là Bát Thánh Đạo, Bát Chi Chánh Đạo, Bát Thánh Đạo Phần... Đây là pháp môn thực tiễn, tiêu biểu nhất của Phật Giáo, là phương pháp hay con đường tắt chính xác để hướng đến giải thoát, Niết Bàn. Khi đức Phật tuyên thuyết bài pháp đầu tiên, Ngài đã dạy nên xa lìa hai thái cực thọ hưởng dục lạc và tu khổ hạnh, nên hướng về con đường Trung Đạo, tức ám chỉ pháp môn Bát Chánh Đạo này, gồm: 1- Chánh Kiến hay còn gọi là Đế Kiến, tức thấy khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo (Tứ Đế), có nghiệp thiện ác thì có quả báo của nghiệp thiện ác ấy, có đời này đời kia, có cha mẹ, trên đời có bậc chân nhân đến chỗ an lành, bỏ điều thiện cũng như hướng đến điều thiện, nơi đời này và đời kia tự giác ngộ và tự chứng thành tựu; 2- Chánh Tư Duy hay còn gọi là Chánh Chí, Chánh Phân Biệt, Chánh Giác, nghĩa là suy nghĩ đúng đắn, chân chánh. Khi đã thấy được lý của Tứ Đế, hành giả tư duy để làm cho tăng trưởng trí tuệ chân thật. Nó lấy tâm vô lậu làm thể; 3- Chánh Ngữ còn gọi là Chánh Ngôn, Đế Ngôn, tức xa lìa nói dối, nói lời hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời thêu dệt, dùng trí tuệ để sửa đổi khẩu nghiệp, không nói những lời phi lý. Nó lấy giới vô lậu làm thể; 4- Chánh Nghiệp còn gọi là Chánh Hạnh, Đế Hạnh, tức xa lìa sát sanh, trộm cắp, tà dâm, v.v., dùng trí tuệ đúng đắn để trừ tất cả những việc làm không đúng của thân và sống với thân trong sạch. Nó lấy giới vô lậu làm thể; 5- Chánh Mạng còn gọi là Đế Thọ, tức xả bỏ cuộc sống không đúng như dùng chú thuật, v.v... và mong cầu đúng pháp những vật dụng trong sinh hoạt hằng ngày như áo quần, thức ăn uống, giường ghế, thuốc men, v.v... Nó lấy giới vô lậu làm thể; 6- Chánh Tinh Tấn còn gọi là Chánh Phương Tiện, Chánh Trị, Đế Pháp, Đế Trị, tức phát nguyện đoạn trừ các điều ác mình đã tạo, làm cho không sinh khởi những điều ác mà mình chưa làm, làm cho sinh khởi những điều thiện mà mình chưa làm, và làm cho tăng trưởng những điều thiện mà mình đã từng làm. Nó lấy sự siêng năng vô lậu làm thể; 7- Chánh Niệm còn gọi là Đế Ý, tức quán 4 đối tượng thân, thọ, tâm và pháp, lấy trí tuệ chân chánh nghĩ nhớ đến chánh đạo để dẹp trừ các suy nghĩ không đúng. Nó lấy niệm vô lậu làm thể; 8- Chánh Định còn gọi là Đế Định, dùng trí tuệ chân chánh để nhập vào Thiền định thanh tịnh vô lậu, xa lìa các pháp bất thiện, thành tựu từ Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền. Bát Chánh đạo này có công lực làm cho chúng sanh từ bờ bên này của cõi mê sang qua được bờ bên kia của giác ngộ. Cho nên nó lấy thuyền, bè làm lời thệ nguyện. Ngược lại, Tà Kiến (thấy không đúng), Tà Tư (suy nghĩ không đúng), Tà Ngữ (nói lời không đúng), Tà Nghiệp (làm việc không đúng), Tà Mạng (sống không đúng), Tà Tinh Tấn (tinh tấn không đúng), Tà Niệm (nghĩ nhớ không đúng), Tà Định (định không đúng) được gọi là Bát Tà (tám pháp không đúng)(5).

 

Phẩm thứ nhất, tập 1, quyển 19, chương 29 “Giải Thích: 37 Pháp Trợ Đạo”, trong Đại Độ Trí Luận. Bồ Tát Long Thọ nói rằng:

“Ba mươi bảy đạo phẩm này, lấy mười pháp làm căn bản. Những gì là mười? Đó là tín, giới, tư duy, tinh tấn, niệm, định, tuệ, trừ, hỷ, xả.

Tín là Tín căn, Tín lực.

Giới là Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng.

Tinh tấn là Bốn chánh cần, Tinh tấn căn, Tinh tấn lực, Tinh tấn giác phần, Chánh Tinh tấn.

Niệm là Niệm căn, Niệm lực, Niệm giác phần, Chánh niệm.

Định là Bốn như ý túc, Định căn, Định lực, Định giác phần, Chánh định.

Tuệ là Bốn niệm xứ, Tuệ căn, Tuệ lực, Trạch pháp giác phần, chánh kiến.

Các pháp ấy, niệm tùy thuận theo cảnh duyên của trí tuệ mà được chơn chánh an trụ, nên bấy giờ gọi là Niệm xứ. Phá tà pháp, đi trong chánh đạo, nên gọi là Chánh cần. Nhiếp tâm an ổn ở trong quán duyên, nên gọi là Như ý túc. Trí tâm được nhu nhuyến, gọi là Căn; tri tâm được lanh lợi gọi là Lực. Dùng để tu đạo nên gọi là Giác, dùng để thấy đạo nên gọi là Đạo”.

“...Ba mươi bảy đạo phẩm là tên gọi khi bắt đầu muốn vào đạo; cũng như kẻ hành giả đi đến chỗ thầy, khi nghe đạo pháp, trước tiên dùng niệm để thọ trì pháp ấy; khi ấy gọi là Niệm xứ. Thọ trì rồi, từ nơi pháp mà cầu tu chánh quả, cho nên tinh tấn tu hành; khi ấy gọi là Chánh cần. Vì tinh tấn nhiều nên tâm không tán loạn; nhiếp tâm điều nhu nên gọi là Như ý túc.

Tâm điều nhu rồi phát sanh Năm căn: Thật tướng các pháp sâu xa khó hiểu, do Tín căn nên tín được; ấy gọi là Tín căn. Không tiếc thân mạng, nhất tâm cầu đạo; ấy gọi là Tinh tấn căn. Thường niệm đạo không niệm việc khác, ấy gọi là niệm căn. Thường nhiếp tâm ở đạo; ấy gọi là Định căn. Quán thật tướng Bốn đế; ấy gọi là Tuệ căn. Năm căn ấy tăng trưởng, hay ngăn chặn phiền não; như sức cây lớn hay ngăn nước. Năm căn này khi tăng trưởng có thể dần vào thâm pháp; ấy gọi là Lực.

Khi lực được rồi, phân biệt đạo pháp có ba phần: Trạch pháp giác, Tinh tấn giác, Hỷ giác. Ba pháp này, khi hành đạo nếu tâm bị trầm một thì nó làm cho khởi lên, còn Trừ giác (Khinh an giác chi), Định giác, Xả giác, ba pháp này, nếu khi hành đạo mà tâm tán động, thì nó thu nhiếp làm cho Định, Niệm giác chi ở hai nơi, nhóm tập thiện pháp, ngăn chặn ác pháp; cũng như người giữ cửa, kẻ có lợi thì cho vào, kẻ vô ích thì đuổi đi. Nếu khi tâm trầm một thì niệm ba pháp làm cho khởi lên; nếu khi tâm tán động thì niệm ba pháp làm cho nhiếp lại.

Bảy việc này (Bảy giác chi) có thể đưa đến thật giác ngộ của bậc vô học, cho nên gọi là phần (chi). Được pháp ấy an ổn đầy đủ rồi, vì muốn nhập vào thành Niết bàn vô vi, nên thực hành các pháp ấy, khi ấy gọi là Đạo”.

 

Phẩm thứ nhất, tập 1, quyển 20, chương 30 “Giải Thích: 37 Pháp Trợ Đạo”, trong Đại Trí Độ Luận. Kết luận:

“Ba mươi bảy đạo phẩm là con đường đi đến Niết bàn. Đi trọn con đường ấy là được đến thành Niết bàn”. Thành Niết bàn có 3 cửa là Không, Vô tướng, Vô tác… Bốn thiền v.v... là pháp giúp mở cửa”.

Thích nghĩa:

(1). Phẩm “Các Tướng Công Đức” quyển 469, tập 19, Hội thứ II, ĐBN.

(2). Phẩm “Quảng Thừa” quyển 06, MHBNBLMĐ, do La Thập dịch cũng có đề cập và giải thích tường tận về các Pháp xuất thế gian, nhưng không phân biệt rõ phạm trù của các pháp tu thế gian với các pháp tu xuất thế gian.

(3). Tôi tưởng với những giải thích cặn kẽ kể trên quý vị có thể hiểu trọn vẹn giá trị tinh thần của 37 pháp tu trợ đạo. Tuy nhiên, muốn hiểu tường tận hơn nữa, xin đọc:

- Phẩm Biện Đại Thừa quyển 53, tập 03; phẩm“Các Tướng Công Đức” quyển 380, Hội thứ I phẩm “Niệm Phật Trụ Thảy” quyển 414, Hội thứ II, ĐBN, do Ngài Huyền Trang dịch.

- Phẩm “Quảng Thừa” quyển 06, tập 01, Kinh Ma Ha Bát nhã Ba la mật do Ngài La Thập dịch cũng có đoạn kinh chú giải 37 pháp trợ đạo như trên.

- Phật Học Phổ Thông của cố HT. Thích Thiện Hoa, khóa III.

(4). Thích nghĩa của Đạo Uyển.

(5). Tất cả chú giải trên, trừ Ngũ lực là do Đạo uyển thích nghĩa, còn các pháp khác từ Tứ niệm xứ cho đến Bát chánh đạo là do Phật học Tinh tuyển thích nghĩa. Nói chung, tất cả thích nghĩa trong mục này dù là Đạo Uyển hay dù là Phật học tinh tuyển hoặc do Phật Quang từ điển hay của chúng tôi chú giải đều không có gì sai khác. Chỉ khác là giản lược hay giải rộng mà thôi, nội dung như nhau. Kinh ĐBN có liệt kê chi tiết 37 pháp trợ đạo trong 5 hội đầu. Tụng đọc đến phần thứ II Tổng luận về các giáo lý Bát Nhã, quý vị sẽ rõ.

 

14. TU HÀNH TAM MA ĐỊA KHÔNG, TAM MA ĐỊA VÔ TƯỚNG, VÔ NGUYỆN:

 

Theo phần đầu của từ điển Phật Quang “tam tam ma địa” (Pàli:Tayo samàdhì, cũng gọi Tam đẳng trì, Tam định): Chỉ cho 3 loại Tam muội. Theo kinh Tăng nhất A hàm quyển 16 thì 3 loại Tam muội là: 1- Không tam muội (Phạm: Sùnyatàsamàdhi): Quán xét hết thảy các pháp đều rỗng không, là Tam muội tương ứng với 2 hành tướng Không và Vô ngã của Khổ đế, quán các pháp do nhân duyên sinh, ngã và ngã sở đều là không. 2- Vô tướng tam muội (Phạm: Animitta-samàdhi): Tức tất cả các pháp đều không tưởng niệm, cũng không thể thấy, là Tam muội tương ứng với 4 hành tướng diệt, tĩnh, diệu, ly của Diệt đế. Niết bàn lìa 5 pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc, 2 tướng nam, nữ và 10 tướng của 3 tướng hữu vi, cho nên gọi là Vô tướng. 3- Vô nguyện tam muội (Phạm: Apraịihita-samàdhi), cũng gọi Vô tác tam muội, Vô khởi tam muội. Nghĩa là đối với tất cả các pháp không có mong cầu gì, là Tam muội tương ứng với 2 hành tướng khổ và vô thường của Khổ đế, với 4 hành tướng nhân, tập, sinh, duyên của Tập đế. Các pháp vô thường, khổ, nhân... đều đáng chán xa, cho nên đạo như thuyền bè (chở người sang sông) cần phải xả bỏ (qua sông thì phải quên đò), vì thường xuyên theo định ấy nên có tên là Vô nguyện.

 

Phẩm thứ nhất, tập 1, quyển 5, nói về “Công Đức Bồ Tát”. Đại Trí Độ Luận, Bồ Tát Long Thọ thuyết về tam muội này, như sau:

Hỏi: - Tam Tam Muội gồm những Tam muội gì?

Đáp: - Đó là 3 Tam muội “Không”, “Vô tướng”, và “Vô Tác”

Quán 5 ấm vô ngã là được Không Tam Muội. Trú trong Không chẳng dấy niệm tham, sân, si, mạn, nghi, kiến… là được Vô Tác Tam Muội.

Lại nữa, ly tất cả pháp tướng, ly tướng trần cảnh, ly tướng nam nữ, các tướng sanh, trụ, diệt… là được Vô Tướng Tam Muội. Lại nữa, tụ trong Vô tướng rõ biết tất cả pháp tự tướng đều Không, nên vào được Không Tam Muội. Trụ trong Không nên vào được Vô Tác Tam Muội.

- Sao gọi là Không?

- Là rõ biết Thật tướng của hết thảy pháp là Không.

- Sao gọi là Vô tác?

- Là quán hết thảy tất cả pháp chẳng phải CÓ, cũng chẳng phải KHÔNG, là quán CÓ và Không bình đẳng, chẳng phải hai chẳng phải khác.

- Sao gọi là Vô tướng?

- Là quán hết thảy tất cả pháp đều chẳng có tướng, đều chẳng có thể thọ, đều chẳng có thể chấp.

Lại có thuyết nói “Đầy đủ 18 pháp Không thì được Không Tam Muội, tâm không mong cầu gì cả thì được Vô Tác Tam Muội. Phá sách hết các tướng chẳng còn nhớ nghĩ là được Vô Tướng Tam Muội”.    

 

15. TU HÀNH PHÁP MÔN GIẢI THOÁT KHÔNG, PHÁP MÔN GIẢI THOÁT VÔ TƯỚNG, VÔ NGUYỆN.

 

Theo tự điển Phật Quang: Tam giải thoát môn (Phạm: Trìịi vimokwa-mukhàni). Gọi tắt: Tam Giải thoát, Tam thoát môn, Tam môn. Chỉ cho 3 pháp môn giúp hành giả được giải thoát, đến Niết bàn. Đó là: 1- Không môn (Phạm: Sùnyatà): Quán xét tất cả các pháp đều không tự tính, do nhân duyên hòa hợp mà sinh; nếu thông suốt lý ấy thì đối với các pháp được tự tại. 2- Vô tướng môn (Phạm: Animitta), cũng gọi Vô tưởng môn: Đã biết tất cả pháp là Không, liền quán tưởng các tướng nam nữ, nhất dị... thật bất khả đắc; nếu thông suốt lý các pháp vô tướng, thì lìa tướng sai biệt mà được tự tại. 3- Vô nguyện môn (Phạm: Apraịihita), cũng gọi Vô tác môn, Vô dục môn: Nếu biết tất cả pháp vô tướng thì trong 3 cõi không mong cầu điều gì; nếu không mong cầu thì không tạo tác nghiệp sinh tử; nếu không tạo nghiệp sinh tử thì không phải chịu quả khổ, do đó được tự tại.

Ba môn giải thoát nương vào 3 Tam muội vô lậu là Không tam muội, Vô tướng tam muội và Vô nguyện tam muội mà vào; 3 Tam muội này giống như 3 cái cửa giải thoát, cho nên gọi là Tam giải thoát môn. Tuy nhiên, Tam muội chỉ chung cho cả hữu lậu và vô lậu, còn Tam giải thoát môn thì chỉ dành cho vô lậu thôi. Bởi vì Tam giải thoát môn là Pháp đặc biệt thanh tịnh vô lậu của thế gian và xuất thế gian nên là cửa vào của Niết bàn. Ngoài ra, theo luận Du già sư địa, quyển 74 thì Tam giải thoát môn là y cứ vào tam tự tính mà được kiến lập, tức do tự tính Biến kế sở chấp mà lập Không giải thoát Tam Giai Phật Pháp môn (bản được khám phá ở động Đôn hoàng), do tự tính Y tha khởi mà lập Vô nguyện giải thoát môn và do tự tính Viên thành thực mà lập Vô tướng giải thoát môn. (Xem luận Câu xá, Q.28; luận Đại tì bà sa, Q.104; Thập địa kinh luận, Q.8; Đại thừa nghĩa chương, Q.2; Ma ha chỉ quán, Q.7 thượng).

Như vậy, ba cửa giải thoát khác với ba tam muội (định) giải thoát. Theo chú giải của từ điển Phật Quang “Ba môn giải thoát nương vào 3 Tam muội vô lậu là Không tam muội, Vô tướng tam muội, và Vô nguyện tam muội mà vào”. Đoạn kinh ở quyển 380, tập 16, vì vậy mới chia hai pháp tu này riêng biệt. Theo Mật tông, tu tam muội không, vô tướng, vô nguyện lại là một pháp tu đặc biệt. Phương tiện có khác nhưng cứu cánh như nhau, nếu tu đắc thì đồng giải thoát.

 

Phẩm Biện Đại Thừa quyển 51, Hội thứ I, Đại Bát Nhã Ngài Huyền Trang dịch:

“Phật bảo Tu Bồ Đề:

- Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của đại Bồ Tát là ba Tam ma địa. Những gì là ba?

- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán tự tướng của tất cả pháp đều là không, tâm được an trụ, thì gọi là pháp môn giải thoát không, cũng gọi là Tam ma địa không, đó là Tam ma địa thứ nhất.

Nếu đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, lấy vô sở đắc làm phương tiện, vì quán tự tướng của tất cả pháp là không, nên đều không có tướng, tâm được an trụ, thì gọi là pháp môn giải thoát vô tướng, cũng gọi là Tam ma địa vô tướng, đó là Tam ma địa thứ hai.

Nếu đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, lấy vô sở đắc làm phương tiện, vì quán tự tướng của tất cả pháp là không, nên đều không có sở nguyện, tâm được an trụ, thì gọi là pháp môn giải thoát vô nguyện, cũng gọi là Tam ma địa vô nguyện, đó là Tam ma địa thứ ba”.

Nếu theo đoạn kinh này giải thích thì Tam ma địa không, vô tướng, vô tác chẳng khác pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Điểm này có thể làm cho chúng ta lẫn lộn. Nhưng muốn giải thoát thì phải đạt định, nghĩa là khi tu các Tam muội được định rồi thì mới bước qua được cổng (môn) giải thoát. Đó có thể coi là hệ quả của một diễn trình. Nếu chấp nhận hệ quả đó thì đoạn kinh của phẩm “Biện Đại Thừa”, quyển 51, Hội thứ I mới có thể giải thích được. Tuy nhiên trong thực tế nếu người tu Phật thực hành và đạt được Tam tam muội vô lậu (dành cho xuất thế gian) chắc chắn sẽ giải thoát cũng giống như tu Tam giải thoát môn.

 

Phẩm “Quảng Thừa” quyển 06, tập 01, MHBNBLMĐ của La Thập giải thích Tam tam muội: Không tam muội, vô tướng tam muội và vô tác tam muội như sau:

Không tam muội là nói các pháp tự tướng rỗng không. Đây gọi là không giải thoát môn.

Vô tướng tam muội là nói diệt hoại các pháp tướng, không nghĩ, không nhớ. Đây gọi là vô tướng giải thoát môn.

Vô tác tam muội là nói đối với các pháp không mong cầu tạo tác. Đây gọi là vô tác giải thoát môn”.

Đoạn kinh nầy của MHBNBLMĐ một lần nữa đồng hóa Tam tam muội với Tam giải thoát môn.

Riêng phẩm “Các Tướng Công Đức” quyển 380, Hội thứ I, ĐBN của Ngài Huyền Trang dịch, sau khi liệt kê các thiện pháp hay các pháp cực kỳ hy hữu lại không giải thích về Tam tam muội mà chỉ giải thích Tam giải thoát môn như sau:

“- Thiện Hiện! Vì sao gọi là ba giải thoát môn? Thiện Hiện! Không giải thoát môn, vô tướng giải thoát môn, vô nguyện giải thoát môn, Thiện Hiện! Đấy là ba giải thoát môn.

- Thiện Hiện! Sao gọi là không giải thoát môn? Thiện Hiện! Hoặc hành tướng không, hành tướng hư ngụy, hành tướng vô ngã, hành tướng vô tự tánh, tâm tánh nhất cảnh (có nghĩa là chuyên chú vào một cảnh nên gọi là tam muội, đẳng trì còn gọi là định). Thiện Hiện! Đấy là không giải thoát môn.

- Thiện Hiện! Sao gọi là vô tướng giải thoát môn? Thiện Hiện! Đấy là hoặc hành tướng diệt, hành tướng vắng lặng, hành tướng xa lìa, tâm tánh nhất cảnh. Thiện Hiện! Đấy là vô tướng giải thoát môn.

- Thiện Hiện! Sao gọi là vô nguyện giải thoát môn? Thiện Hiện! Đấy là hoặc hành tướng khổ, hành tướng vô thường, hành tướng điên đảo, tâm tánh nhất cảnh. Thiện Hiện! Đấy là vô nguyện giải thoát môn”.

Chúng ta có thể lấy phẩm “Khéo Đạt” quyển 471, Hội thứ I, ĐBN làm kết luận cho Tam giải thoát môn:

Phật bảo Tu Bồ Đề:

Các Bồ Tát Ma ha tát ngoại trừ không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, lại không còn có các pháp yếu đáng học nữa.

Tu Bồ Đề! Ba môn giải thoát tổng thu tất cả pháp diệu thiện vậy. Vì sao? Không giải thoát môn quán tất cả pháp tự tướng đều không. Vô tướng giải thoát môn quán tất cả pháp xa lìa các tướng. Vô nguyện giải thoát môn quán tất cả pháp xa lìa sở nguyện.

Các Bồ Tát Ma ha tát nương ba môn đây năng nhiếp tất cả thiện pháp thù thắng. Lìa ba môn đây, thiện pháp thù thắng chẳng sanh trưởng được”.

Lưu ý: Mặc dầu những dẫn chứng kinh điển rõ ràng nêu trên, nhưng cũng chưa chắc giúp đọc giả hài mãn. Phần thích nghĩa ở tiết mục (21) sau đây nói về các Tam muội hy vọng có thể giúp làm sáng tỏ hai pháp môn: Ba cửa giải thoát khác với ba tam muội (định) giải thoát.

 

16. KHUYÊN TU HÀNH 8 GIẢI THOÁT HOẶC KHUYÊN TU HÀNH 8 THẮNG XỨ, 9 THỨ ĐỆ ĐỊNH, 10 BIẾN XỨ:

 

1- Tám giải thoát: Còn gọi là Bát bội xả hay Bát giải thoát tam muội. Đại Bát Nhã do Ngài Huyền Trang dịch có nhiều đoạn nói về pháp tu nầy, tiêu biểu trong phẩm “Thí Dụ” quyển 46, Hội thứ I hay phẩm “Dẫn Nhiếp” quyển 350, Hội thứ I, Kinh ĐBN ghi rằng: “Giải thoát thứ nhất: Trong có sắc quán các sắc; giải thoát thứ hai: Trong không có sắc tưởng quán sắc bên ngoài; giải thoát thứ ba: Chứng đắc thân giải thoát thanh tịnh, thù thắng; giải thoát thứ tư: Vượt lên trên tất cả sắc tưởng, trừ diệt tưởng có đối đãi, chẳng tư duy các thứ tưởng, nhập không vô biên, an trú trọn vẹn trong không vô biên xứ; giải thoát thứ năm: Vượt lên trên tất cả không vô biên xứ, nhập vào thức vô biên, an trụ trọn vẹn trong vô sở hữu xứ; giải thoát thứ sáu: Vượt lên trên tất cả thức vô biên xứ, nhập vào vô sở hữu xứ, an trụ trọn vẹn trong thức vô biên xứ; giải thoát thứ bảy: Vượt lên trên tất cả vô sở hữu xứ, nhập vào phi tưởng, an trụ trọn vẹn trong phi phi tưởng xứ; giải thoát thứ tám: Vượt lên trên tất cả phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập vào và an trụ trọn vẹn trong định diệt tưởng thọ”(1).

Phẩm thứ nhất, tập 2, quyển 21, nói về “Bát Bội Xả”, Đại Trí Độ Luận, giải thích: “Khi tu được 8 Bội Xả, hành giả sẽ được thân tâm thanh tịnh, xa rời 5 dục lạc, xả bỏ các tâm chấp trước mà vẫn chẳng hoại nội ngoại sắc. Cũng có khi hành giả xả cả nội ngoại sắc tướng”.

 

Từ điển Đạo Uyển giải thích tám giải thoát vắn tắt như sau: Tám giải thoát hay bát bội xả (S:aṣṭavimokṣa), Phép thiền định giúp hành giả vượt tám cấp thiền và giải thoát các vướng mắc về sắc và vô sắc. Tám giải thoát là: 1- Ở trong sắc giới, quán nội sắc và ngoại sắc, nhằm bỏ tâm ham thích sắc thể (nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát 内有色想觀外色解脱); 2- Không quán nội sắc, quán ngoại sắc, nhận ngoại sắc là ô nhiễm (nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát 内無色想觀外色解脱); 3- Quán tưởng về thanh tịnh nhưng không bám giữ (tịnh thân tác chứng cụ túc tác giải thoát 淨身作證具足作解脱); 4- Vượt qua sắc thể, nghĩ “hư không là vô biên” (Không vô biên xứ giải thoát 空無邊處解脱); 5- Đạt “thức là vô biên” (thức vô biên xứ giải thoát 識無邊處解脱); 6- Đạt tâm “không có vật gì” (vô sở hữu xứ giải thoát 無所有處解脱); 7- Đạt Phi tưởng phi phi tưởng xứ (phi tưởng Phi phi tưởng xứ giải thoát 非想非非想處解脱); 8- Đạt cấp Diệt thụ tưởng xứ (diệt tận định giải thoát 滅盡定解脱). Cấp 1 của Tám giải thoát liên hệ với cấp 1, 2 của Tám thắng xứ, cấp 2 liên hệ với cấp 3, 4. Cấp 4 -7 của Tám giải thoát đồng nghĩa với Bốn xứ.

Thích nghĩa:

(1). Diệt tận định (còn gọi là Diệt thọ tưởng định, Diệt tận tam muội, Tịch diệt định) là phép định rốt ráo trong Bát giải thoát tam muội hay trong Cửu thứ đệ định. Thiền giả vào định này sẽ gạt được hết các mối ưu tư, các cảm thọ do lục thức tiếp xúc với lục trần. Đây là phép Đại định rất cao chỉ có bậc đại La hán hay Phật mới có thể thực hành được. Các Thánh giả khi nhập định này, trước hết vào Diệt tận định, nhập Sơ thiền; xả Sơ thiền nhập Diệt tận định vào Nhị thiền; xả Nhị thiền nhập Diệt tận định vào Tam thiền; xả Tam thiền nhập Diệt tận định vào Tứ thiền. Sau đó lần lược qua Không vô biên xứ định, Thức vô biên xứ định, Vô sở hữu xứ định, Phi tưởng phi phi tưởng xứ định, sau rốt lại vào Diệt tận định, nửa chu kỳ đầu này gọi là “Thuận định”. Khi xuất định này, thiền giả bắt đầu đi ngược lại từ Diệt tận định xuống lần tới Sơ thiền lại vào Diệt tận định mà xuất ra, nửa chu kỳ sau gọi là “Nghịch định”. Nếu Thánh giả vào thiền này và ở luôn trong đó thì gọi là nhập diệt.

Lưu ý: Xin đừng lẫn lộn Vô tưởng định và Diệt tận định, mặc dầu hai định nầy đều đưa đến vô tâm. Về kỹ thuật tu tập và kết quả, hai định nầy hoàn toàn khác nhau. Mỗi Tông phái giải thích một khác. Đại cương, Vô tưởng định là định của phàm phu, chỉ đình chỉ các tưởng, trong khi Diệt tận định là định của Thánh giả (La hán, Phật) không những đình chỉ được các tưởng và ý thức phân biệt… mà còn tiêu diệt mọi tâm hành.

HT. Thích Thiện Hoa trong cuốn Duy Thức Học trang 68, nhà xuất bản Tôn giáo phát hành, viết vắn tắt Vô tưởng định là định của phàm phu, còn Diệt tận định là định của Thánh giả, như sau: “1- Diệt tưởng định: Định này diệt hết các Tâm vương và Tâm sở của sáu Thức trước (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức). Song đây chỉ gọi “Vô tưởng” là vì “tưởng” làm chủ động vậy. 2- Diệt tận định: Định này không những diệt hết các Tâm vương và Tâm sở của sáu Thức trước, mà diệt luôn cả phần tạp nhiễm của Tâm vương, Tâm sở và Thức thứ bảy (Mạt na thức)”.

Thích nghĩa rõ ràng đáng tin cậy nhất là thích nghĩa của Phật Quang tự điển, phân biện hai định này như sau: Vô tưởng định là định của phàm phu chứng được, còn Diệt tận định thì Phật và các bậc A la hán cầu giải thoát do xa lìa định chướng mà chứng được, tức là các bậc dùng sức thắng giải của hiện pháp Niết bàn mà tu định này. Bậc Thánh đã xa lìa các phiền não ở Vô sở hữu xứ, cảnh giới định của các Ngài có thể được ví với sự tịch lặng của Niết bàn vô dư. Cho nên nếu muốn có được niềm vui tĩnh lặng của sự vô tâm thì tu theo định này, có thể sinh lên tầng trời Hữu đính (Phi tưởng phi phi tưởng xứ) của cõi Vô sắc. Về định Diệt tận, các tông phái có nhiều thuyết khác nhau. Như Thuyết nhất thiết hữu bộ chủ trương định này có thực thể riêng biệt, nhưng Kinh lượng bộ và tông Duy thức thì không cho nó là pháp thực, mà chỉ ở nơi phần vị không chuyển của tâm, tâm sở mà giả lập ra định này; tông Duy thức còn cho rằng trong định này chưa đoạn diệt thức A lại da; các nhà Phân biệt luận thì nói, bậc Thánh vào định này, tư tưởng và cảm thụ của vị ấy đã diệt, nhưng tế tâm (tâm nhỏ nhiệm) thì vẫn chưa diệt. Ngoài ra, cứ theo Tông kính lục, quyển 55 nêu, thì Diệt tận định và Vô tưởng định có bốn điểm khác nhau: 1- Người chứng có khác: Diệt tận định là định xuất thế gian mà Phật và các bậc A la hán chứng được; còn Vô tướng định thì là định thế gian do phàm phu và ngoại đạo chứng được. 2- Kỳ nguyện khác: Diệt tận định chỉ cầu công đức xuất thế; còn Vô tưởng định thì cầu quả vui ở thế gian. 3- Cảm quả và không cảm quả khác: Diệt tận định là nghiệp vô lậu, không cảm quả báo sống chết trong ba cõi, còn Vô tưởng định thì là nghiệp hữu lậu, có thể cảm quả báo ở cõi trời Vô tưởng. 4- Diệt thức khác: Diệt tận định có thể diệt trừ thức thứ sáu, diệt luôn cả phần ô nhiễm của thức thứ bảy, còn Vô tuởng định thì chỉ diệt trừ được cái thấy phân biệt của thức thứ sáu, còn các tà kiến khác thì vẫn chưa diệt hết được..

Cũng nên nói thêm rằng: Đây là vấn đề chuyên môn. Chuyên môn không những do cách dùng thuật ngữ để diễn tả, đặt tên mà còn chuyên môn trong kỹ thuật tu tập và hành trì. Chỉ những vị có công phu tu tập sâu dày mới có thể phân biệt giải thích rõ ràng về các thiền định, các Đà la ni, Tam ma địa v.v… Chúng tôi theo sách vở, kinh điển trình bày lại, không dám đi sâu hay tán rộng.

 

2- Tám thắng xứ hay Bát thắng xứ (S, P: abhibhāvāyatana) là Tám phép thiền định để vượt dục giới bằng cách làm chủ các thụ tưởng. Các phép thiền định này được trình bày rất sớm trong các kinh sách đạo Phật. Tám thắng xứ là: 1/. Quán nội sắc, quán ngoại sắc có hạn lượng. 2/. Quán nội sắc, quán ngoại sắc vô hạn lượng. Hai giai đọạn này giúp hành giả từ bỏ lòng ham muốn các sắc và tương ưng cấp 1 của Tám giải thoát (s: aṣṭavimokṣa). 3/. Quán vô sắc ở nội tâm, quán ngoại sắc có hạn lượng. 4/. Quán vô sắc ở nội tâm, quán ngoại sắc vô hạn lượng. Hai giai đoạn này giúp hành giả kiên cố chính định và tương ưng với cấp 2 của Tám giải thoát. Trong giai đoạn 5/ đến 8/, hành giả quán vô sắc ở nội tâm, thấy ngoại sắc màu xanh, vàng, đỏ, trắng nhằm ngăn chận lòng ham muốn sắc thể đẹp xấu. Các giai đoạn 5-8 tương ưng với cấp thứ ba của Tám giải thoát và cấp 5-8 của phép quán biến xứ (p: kasina).

Quán nội sắc” có nghĩa là lựa một chỗ lớn (vô hạn) hay chỗ bé (có hạn) trên thân và tập trung quán sát nó, sau nhiều lần thấy nó chỉ là phản ảnh của tâm. Trong giai đoạn 3. và 4., hành giả lựa một ngoại sắc (thí dụ một cánh hoa). Lựa ngoại sắc thì nên lấy một ngoại sắc nhỏ dành cho người có tâm bất định, ngoại sắc lớn dành cho người có tâm si mê, ngoại sắc đẹp dành cho người hay từ chối, ngoại sắc xấu dành cho người còn tham dục. (Từ diển Đạo Uyển)

 

3- Chín thứ đệ định (Cửu thứ đệ định): Định thứ nhất Xa lìa dục, pháp ác bất thiện, có tầm có tứ, ly sanh hỷ lạc, nhập vào và an trú trọn vẹn trong bậc định thứ nhất; định thứ hai: Tầm tứ tịch tịnh, các tâm thanh tịnh bên trong qui về một tánh, vô tầm vô tứ, định sanh hỷ lạc, nhập vào và an trú trọn vẹn trong bậc định thứ hai; định thứ ba: Xa lìa sự vui mừng, an trú trong xả, chỉ nhớ nghĩ trọn vẹn về chánh tri, thân hưởng và an trú trong niềm vui của lời thánh, xả trọn vẹn sự nhớ nghĩ, an trú trong niềm vui, nhập vào và an trú trọn vẹn trong bậc định thứ ba; định thứ tư: Dứt vui, dứt khổ, cái mừng lo trước kia biến mất, chẳng khổ, chẳng vui, xả niệm thanh tịnh, nhập vào và an trú trọn vẹn trong bậc định thứ tư; định thứ năm: Vượt lên tất cả tưởng về sắc, diệt trừ tưởng có đối đãi, chẳng tư duy các thứ tưởng, nhập vào trong cái không vô biên, an trụ trọn vẹn trong không vô biên xứ; định thứ sáu: Vượt lên tất cả không vô biên xứ, nhập vào thức vô biên, an trụ trọn vẹn trong thức vô biên xứ; định thứ bảy: Vượt lên tất cả thức vô biên xứ, nhập vào vô sở hữu, an trụ trọn vẹn trong vô sở hữu xứ; định thứ tám: Vượt lên tất cả vô sở hữu xứ, nhập vào và an trụ trọn vẹn trong phi tưởng phi phi tưởng xứ; định thứ chín: Vượt lên tất cả phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập vào và an trụ trong diệt tưởng thọ định. (Phẩm “Thí Dụ”, quyển thứ 46 hay phẩm “Dẫn Nhiếp”, quyển thứ 350 hoặc phẩm “Các Tướng Công Đức”, quyển thứ 380, ĐBN).

Tự điển Phật Quang thích nghĩa Cửu Thứ đệ định như sau: Hàm ý là chín loại Thiền định phải tu theo thứ lớp không xen lẫn. Cũng gọi Vô gián thiền hoặc Luyện thiền. Chỉ cho chín loại thiền định gồm: Bốn thiền cõi Sắc, bốn xứ cõi Vô sắc và định Diệt thụ tưởng. Vì tâm không xen lẫn, cứ y theo thứ lớp từ định này vào định khác, cho nên gọi là Thứ đệ định. Phân biệt như sau: 1). Sơ thiền thứ đệ định. 2). Nhị thiền thứ đệ định. 3). Tam thiền thứ đệ định. 4). Tứ thiền thứ đệ định. 5). Không xứ thứ đệ định. 6). Thức xứ thứ đệ định. 7). Vô sở hữu xứ thứ đệ định. 8). Phi tưởng phi phi tưởng xứ thứ đệ định. 9). Diệt thụ tưởng thứ đệ định. Hành giả chuyên tâm nhất ý, trí tuệ sắc bén, tự xét nghiệm tâm mình, từ tâm sơ thiền vào nhị thiền, cho đến vào định Diệt thụ tưởng, dứt bặt hết tâm thức: Đó là đạt đến chỗ cùng tột của Thiền định. Vì thiền này không xen lẫn niệm khác nên cũng gọi là Vô gián thiền - lại vì thiền này tinh luyện các vị thiền làm cho tâm trong sạch, cũng như luyện vàng, nên gọi là Luyện thiền.

 

4- Mười biến xứ: Cũng gọi Thập nhất thiết nhập, Thập nhất thiết xứ, Thập biến nhập, Thập biến xứ định. Chỉ cho 10 pháp trùm khắp tất cả mọi nơi. Tức nương vào thắng giải tác ý, quán xét 10 pháp: Đất, nước, lửa, gió, xanh, vàng, đỏ, trắng, không và thức trùm khắp mọi nơi, cho nên gọi là Địa biến xứ cho đến Thức biến xứ. Sau khi hành giả tu Bát giải thoát, Bát thắng xứ thì đối với sắc... được tướng thanh tịnh, đối với cảnh sở quán được chuyển biến tự tại. Bát giải thoát, Bát thắng xứ thì đối với sắc... được tướng thanh tịnh, đối với cảnh sở quán được chuyển biến tự tại, nhưng vẫn chưa trùm khắp, cho nên còn phải tu định này. (X. luận Câu xá, Q.29; phẩm Ngũ thông trong luận Giải thoát đạo). Từ điển Phật Quang.

Để kết luận 4 pháp tu này, đại Trí Độ Luận thuyết như sau: Khi tu 8 Bối Xả thuần thục rồi, thì sẽ được 8 Thắng Xứ, nghĩa là đạt được 8 cảnh giới thù thắng. Nếu ở nơi tịnh quán mà Thắng Xứ chưa được rộng rãi, thì hành giả phải dùng sức Bối Xả và sức Thắng Xứ, để quán 4 Đại là đất, nước, gió, lửa biến khắp hư không, lại quán 4 màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng cũng biến cùng khắp hư không, lại quán hư không cùng khắp, quán thức tâm cùng khắp. Như vậy là được 10 Nhất Thế Nhập (cũng gọi là 10 Biến Xứ). Sau đó hành giả lại quán các sắc tướng, chuyển biến được các sắc tướng ấy từ xấu, tốt, từ không xấu, không tốt... một cách vô ngại”.

 

17. TU HÀNH BỐ THÍ BA LA MẬT, TU HÀNH TỊNH GIỚI, AN NHẪN, TINH TẤN, TỊNH LỰ, BÁT NHÃ, PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO, NGUYỆN, LỰC, TRÍ BA LA MẬT:

 

Đây ý muốn nói về Thập Ba la mật (Phạm: Daza-pàramità), gọi đủ: Thập Ba La mật đa. Hán dịch: Thập thắng hạnh, Thập độ, Thập đáo bỉ ngạn. Mười hạnh thù thắng mà Bồ Tát phải tu tập đầy đủ để đạt đến Đại Niết bàn. Từ điển Phật Quang nêu hai chú giải như sau:

 

1- Thập Ba La Mật. Sáu Ba la mật cộng thêm 4 Ba la mật nữa là Phương tiện, Nguyện, Lực và Trí thành mười là: 1/. Thí ba la mật (Phạm: Dànapàramità): Có 3 thứ là Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí; 2/. Giới ba la mật (Phạm: Zìlapàramità): Giữ giới và thường tự xét; 3/. Nhẫn ba la mật (Phạm: Kwàntipàramità): Nhẫn nại chịu sự bức hại; 4/. Tinh tiến ba la mật (Phạm:Viryapàramità): Gắng sức tiến tu, không biếng nhác; 5/. Thiền ba la mật (Phạm: Dhyànapàramità): Tập trung tư tưởng khiến tâm an định; 6/. Bát nhã Ba la mật (Phạm:Prajĩàpàramità): Mở ra trí tuệ chân thực, hiểu rõ thật tướng các pháp; 7/. Phương tiện ba la mật (Phạm: Upàya-pàramità): Dùng các phương pháp gián tiếp để khơi mở trí tuệ; 8/. Nguyện ba la mật (Phạm: Praịidhàna-pàramità): Thường giữ gìn nguyện tâm và thực hiện các nguyện tâm ấy trong việc tu tập hằng ngày; 9/. Lực ba la mật (Phạm: Balapàramità): Năng lực bồi dưỡng những thiện hạnh thực tiễn và phân biệt chân ngụy; 10/. Trí ba la mật (Phạm: Prajĩàpàramità): Trí tuệ có năng lực rõ biết tất cả các pháp. Mười Ba la mật đều lấy tâm Bồ đề làm nhân. Kinh Giải thâm mật quyển 4 cho rằng lý do ngoài 6 Ba la mật còn thiết lập thêm 4 Ba la mật là vì Phương tiện ba la mật giúp đỡ cho 3 Ba la mật Thí, Giới và Nhẫn; Nguyện ba la mật là giúp đỡ cho Tinh tiến ba la mật; Lực Ba la mật là giúp đỡ cho Thiền ba la mật; Trí ba la mật là giúp đỡ cho Bát nhã Ba la mật. Mật giáo đem 10 Ba la mật phối hợp với 10 vị Bồ Tát và đặt ở viện Hư không tạng trong Mạn đồ la Thai tạng giới để biểu thị cho phúc đức và trí đức của Bồ Tát Hư không tạng. Tức phía bên phải an vị 5 Bồ Tát Thí, Giới, Nhẫn, Tinh tiến và Thiền, thuộc về Liên hoa bộ, biểu thị Phúc môn; phía bên trái an vị 5 Bồ Tát Bát Nhã, Phương tiện, Nguyện, Lực và Trí, thuộc về Kim cương bộ, biểu thị Trí môn. Lại đem 10 ngón tay phối hợp với 10 Ba la mật, tức Thí là ngón út bên phải, Giới là ngón vô danh bên phải, Nhẫn là ngón giữa bên phải, Tinh tiến là ngón trỏ bên phải, Thiền là ngón cái bên phải; Bát Nhã là ngón út bên trái, Phương tiện là ngón vô danh bên trái, Nguyện là ngón giữa bên trái, Lực là ngón trỏ bên trái và Trí là ngón cái bên trái.

 

2- Thập Ba La Mật. Mười Ba la mật được nêu trong Phật truyện kinh Bản Sinh tiếng Pàli là: Thập Ba La Mật. Mười Ba la mật được nêu trong Phật truyện kinh Bản sinh tiếng Pàli là: Đàn (Thí), Thi (Giới), Bát Nhã (trí tuệ), Tì lê da (tinh tiến), Sằn đề (nhẫn), Xả thế (phủ nhận thế gian và tự kỷ), Chân thực (không nói lời dối trá làm hại chân thực), Quyết ý (ý mình đã quyết không để lay động), Từ (không màng lợi riêng, vì tất cả hữu tình mà trụ nơi từ tâm), Xả (không vì khổ vui mừng giận mà động tâm). Giai vị tu hành 10 đức mục này được gọi là Ba la mật địa (Phạm: Pàramitàbhùmi).

 

Sau đây là các trích dẫn về Lục Ba la mật trong Kinh Đại Bát Nhã và Kinh trích từ quyển 538 đến quyển 555 của ĐBN, không có đặt tên, nên chúng tôi tạm gọi là “Tiểu Bản Bát Nhã”(TBBN)(1):

 

1- Lục Ba la mật (Sáu pháp tương ưng đáo bỉ ngạn):

Sáu pháp môn mà Phật chế ra cho người tu Phật, tu và hành để tự độ mình và độ người ra khỏi bể sanh tử. Đó là:

 

1/. Bố thí (đàn na),

2/. Trì giới (thi na),

3/. Tinh tấn (tỳ lệ gia),

4/. Nhẫn nhục (sằn đề),

5/. Tịnh lự (thiền na) và

6/. Trí tuệ (Bát Nhã).

 

Phẩm “Biện Đại Thừa” quyển 51, tập 03, được lập lại trong phẩm “Dẫn Nhiếp” quyển 349 và 350, Hội thứ I, ĐBN, Ngài Huyền Trang dịch:

- “Phật bảo: Thiện Hiện! Ngươi hỏi vì sao mà biết được cái tướng Đại thừa của các Bồ Tát? Sáu phép Ba la mật đa là tướng Đại thừa của Bồ Tát. Những gì là sáu? Đó là bố thí Ba la mật đa, tịnh giới Ba la mật đa, an nhẫn Ba la mật đa, tinh tấn Ba la mật đa, tịnh lự Ba la mật đa, Bát nhã Ba la mật đa.

- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là bố thí Ba la mật của đại Bồ Tát?

Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát phát tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí và đại bi làm đầu, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tự bố thí tất cả sở hữu trong ngoài, cũng khuyên người khác bố thí sở hữu trong ngoài. Duy trì thiện căn này, cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì này Thiện Hiện, đó là bố thí Ba la mật đa của đại Bồ Tát.

- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là tịnh giới Ba la mật của đại Bồ Tát?

Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát phát tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí và đại bi làm đầu, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tự an trú mười thiện nghiệp đạo, cũng khuyên người khác an trú muời thiện nghiệp đạo, duy trì thiện căn này, cùng với tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì này Thiện Hiện, đó là tịnh giới Ba la mật đa của đại Bồ Tát.

- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là an nhẫn Ba la mật của đại Bồ Tát?

Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát phát tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí và đại bi làm đầu, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tự làm đầy đủ và tăng thượng an nhẫn, cũng khuyên người khác làm đầy đủ và tăng thượng an nhẫn, duy trì thiện căn này, cùng với tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì này Thiện Hiện, đó là an nhẫn Ba la mật đa của đại Bồ Tát.

- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là tinh tấn Ba la mật của đại Bồ Tát?

Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát phát tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí và đại bi làm đầu, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với sáu phép Ba la mật đa, tự siêng năng tu tập chẳng dừng nghỉ, cũng khuyên người khác đối với sáu phép Ba la mật đa, siêng năng tu tập chẳng dừng nghỉ, duy trì thiện căn này, cùng với tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì này Thiện Hiện, đó là tinh tấn Ba la mật đa của đại Bồ Tát.

- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là tịnh lự Ba la mật của đại Bồ Tát?

Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát phát tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí và đại bi làm đầu, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tự mình có thể khéo léo nhập vào các tịnh lự vô lượng, vô sắc, hoàn toàn chẳng theo thế lực ấy mà thọ sanh, cũng có thể khuyên người khác nhập vào các tịnh lự, vô lượng, vô sắc giống như sự khéo léo của mình, duy trì thiện căn này, cùng với tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì này Thiện Hiện, đó là tịnh lự Ba la mật đa của đại Bồ Tát.

- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bát Nhã của đại Bồ Tát?

Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát phát tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí và đại bi làm đầu, lấy vô sở đắc làm phương tiện, có khả năng tự quán sát như thật tất cả pháp tánh, đối với các pháp tánh, không có sự chấp trước, cũng khuyên người khác quán sát như thật tất cả pháp tánh, đối với các pháp tánh, không có sự chấp trước, duy trì thiện căn này, cùng với tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì này Thiện Hiện, đó là Bát nhã Ba la mật đa của đại Bồ Tát”.

 

Phẩm “Ba Lần Lữa” quyển 372; phẩm “Diệu Tướng” quyển 528, ĐBN cũng ghi:

 

- “Tu Bồ Đề phải biết: Bồ Tát Ma ha tát này từ sơ phát tâm khi tu học bố thí Ba la mật đa, nên tự hành bố thí, cũng khuyên người hành bố thí, hằng chính xưng nêu công đức bố thí, vui mừng khen ngợi kẻ hành bố thí. Nhờ nhân duyên đây viên mãn bố thí: Lìa tâm bủn xỉn, tùy các hữu tình cần dùng lương thực của cải thảy đều thí cho. Bồ Tát Ma ha tát này do bố thí nên thọ trì nhóm giới. Do thí giới nên được nhóm định. Do thí giới định nên được nhóm huệ. Do thí giới định huệ nên được nhóm giải thoát. Do thí giới định huệ giải thoát nên được nhóm giải thoát trí kiến. Do các nhóm thí giới định huệ giải thoát giải thoát trí kiến nên vượt các bậc Thanh văn Duyên giác, chứng vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh(2). Đã vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Làm việc này rồi mới năng chứng được Nhất thiết trí trí, quay xe diệu pháp, đem pháp Tam thừa an lập độ thoát các loại hữu tình thoát khỏi sinh tử, chứng được Niết bàn. Bồ Tát Ma ha tát này do bố thí nên mặc dù năng làm nghiệp lần hồi, tu học lần hồi, hành hạnh lần hồi như thế mà đối tất cả đều vô sở đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp vô tự tánh vậy.

 

- Lại nữa, Tu Bồ Đề! Bồ Tát Ma ha tát này từ sơ phát tâm tu học tịnh giới Ba la mật đa, tự hành tịnh giới, cũng khuyên người hành tịnh giới, hằng chính xưng nêu công đức tịnh giới, vui mừng khen ngợi kẻ hành tịnh giới. Nhờ nhân duyên đây thanh tịnh nhóm giới, thí kẻ bần cùng của cải cần thiết. Đã hành thí rồi, an trụ nhóm giới, nhóm định, nhóm huệ, nhóm giải thoát, nhóm giải thoát trí kiến. Do các nhóm giới định huệ giải thoát giải thoát trí kiến thanh tịnh nên vượt các bậc Thanh văn Độc giác thảy, chứng vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Đã vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Làm việc đây rồi, mới năng chứng được Nhất thiết trí trí, quay xe diệu pháp v.v...

 

- Lại nữa, Tu Bồ Đề! Bồ Tát Ma ha tát này từ sơ phát tâm tu học an nhẫn Ba la mật đa, tự hành an nhẫn, cũng khuyên người hành an nhẫn, hằng chính xưng nêu công đức an nhẫn, vui mừng khen ngợi kẻ hành an nhẫn. Bồ Tát Ma ha tát này khi hành an nhẫn năng đem của vật thí các hữu tình đều khiến đầy đủ. Đã hành thí rồi an trụ nhóm giới, nhóm định, nhóm huệ, nhóm giải thoát, nhóm giải thoát trí kiến. Nhờ các nhóm giới định huệ giải thoát giải thoát trí kiến thanh tịnh nên vượt các bậc Thanh văn Duyên giác, chứng vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Đã vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Làm việc nầy rồi, mới năng chứng được Nhất thiết trí trí, quay xe diệu pháp v.v...

 

- Lại nữa, Tu Bồ Đề! Bồ Tát Ma ha tát này từ sơ phát tâm tu học tinh tiến Ba la mật đa, tự hành tinh tiến, cũng khuyên người hành tinh tiến, hằng chính xưng nêu công đức tinh tiến, vui mừng khen ngợi kẻ hành tinh tiến. Bồ Tát Ma ha tát này khi hành tinh tiến năng đem của vật thí các hữu tình đều khiến đầy đủ. Đã hành thí rồi, an trụ nhóm giới, nhóm định, nhóm huệ, nhóm giải thoát, nhóm giải thoát trí kiến. Nhờ các nhóm giới định huệ giải thoát giải thoát trí kiến thanh tịnh nên vượt các bậc Thanh văn Duyên giác, chứng vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Đã vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Làm việc này rồi, mới năng chứng được Nhất thiết trí trí, quay xe diệu pháp v.v...

 

- Lại nữa, Tu Bồ Đề! Bồ Tát Ma ha tát này từ sơ phát tâm tu học thiền định Ba la mật đa, tự vào tĩnh lự vô lượng định vô sắc, cũng khuyên người vào tĩnh lự vô lượng định vô sắc, hằng chính xưng nêu công đức tĩnh lự vô lượng định vô sắc, vui mừng khen ngợi kẻ hành tĩnh lự vô lượng định vô sắc. Bồ Tát Ma ha tát này khi hành tĩnh lự năng đem của vật thí các hữu tình đều khiến đầy đủ. Đã hành thí rồi an trụ nhóm giới, nhóm định, nhóm huệ, nhóm giải thoát, nhóm giải thoát trí kiến. Nhờ các nhóm giới định huệ giải thoát giải thoát trí kiến thanh tịnh nên vượt các bậc Thanh văn Duyên giác, chứng vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Đã vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Làm việc này rồi mới năng chứng được Nhất thiết trí trí quay xe diệu pháp v.v...

 

- Lại nữa, Tu Bồ Đề! Bồ Tát Ma ha tát này từ sơ phát tâm tu học Bát nhã Ba la mật đa, đem giới định huệ và thắng giải thoát, giải thoát trí kiến an lập hữu tình, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, tự hành sáu Ba la mật, cũng khuyên người hành sáu Ba la mật, hằng chính xưng nêu công đức sáu Ba la mật, vui mừng khen ngợi kẻ hành sáu Ba la mật. Bồ Tát Ma ha tát này do bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật phương tiện khéo léo vượt các bậc Thanh văn Duyên giác, chứng vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Đã vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Làm việc này rồi, mới năng chứng được Nhất thiết trí trí, quay xe diệu pháp v.v...”

 

Phẩm “Tán Hoa” quyển 554, Kinh Tiểu Bản Bát Nhã, Phật phó chúc cho Ông A Nan sáu pháp Ba la mật như sau:

“Khánh Hỷ phải biết: Nếu Bồ Tát Ma ha tát siêng học sáu thứ Ba la mật, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vậy nên, Khánh Hỷ! Ta đem sáu Ba la mật đây lại giao phó dặn dò ngươi, nên chính thọ trì chớ bỏ quên mất.

Vì sao? Sáu Ba la mật như thế là kho pháp vô tận các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, vì tất cả Phật pháp từ đây sanh vậy.

Khánh Hỷ phải biết: Chư Phật Thế Tôn mười phương ba đời sở thuyết pháp yếu, đều là từ sáu thứ Ba la mật kho pháp vô tận tuôn chảy ra vậy.

Khánh Hỷ phải biết: Chư Phật Thế Tôn mười phương ba đời đều nương sáu thứ Ba la mật kho pháp vô tận, tinh siêng tu học chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Khánh Hỷ phải biết: Đệ tử Thanh văn chư Phật Thế Tôn mười phương đời đều nương 6 thứ Ba la mật kho pháp vô tận, tinh siêng tu học đã, đang, sẽ vào vô dư Niết bàn”.

 

Phẩm “Thiện Hữu” quyển 551, Tiểu Bản Bát Nhã so sánh sáu pháp Ba la mật như sau: Phật bảo Thiên Hiện Tu Bồ Đề:

“Thiện Hiện nên biết! Như vậy, sáu pháp Ba la mật đa cũng là thầy của đại Bồ Tát. Sáu pháp Ba la mật đa cũng là bậc dẫn đường của đại Bồ Tát. Sáu pháp Ba la mật đa cũng là ánh sáng của đại Bồ Tát. Sáu pháp cũng là sự chiếu soi của đại Bồ Tát. Sáu pháp Ba la mật đa cũng là nhà cửa của đại Bồ Tát. Sáu pháp Ba la mật đa cũng là sự hộ trì của đại Bồ Tát. Sáu pháp Ba la mật đa cũng là sự quy y của đại Bồ Tát. Sáu pháp Ba la mật đa cũng là sự hướng đến của đại Bồ Tát. Sáu pháp Ba la mật đa cũng là hòn đảo của đại Bồ Tát. Sáu pháp Ba la mật đa cũng là cha lành của đại Bồ Tát. Sáu pháp Ba la mật đa cũng là mẹ hiền của đại Bồ Tát. Sáu pháp Ba la mật đa thường làm cho chúng đại Bồ Tát đắc được trí vi diệu, sanh giác ngộ chơn thật, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.Vì sao? Vì tất cả chúng đại Bồ Tát đều nhờ sáu pháp Ba la mật đa mà tu tập Bát nhã Ba la mật đa viên mãn hoàn toàn.

Thiện Hiện nên biết! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở quá khứ đã chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề đã Bát Niết bàn. Phật Thế Tôn kia đều nương vào sáu pháp Ba la mật đa mà sanh Nhất thiết trí. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở vị lai sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, sẽ Bát Niết bàn. Phật Thế Tôn kia cũng nương vào sáu pháp Ba la mật đa mà sanh Nhất thiết trí. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại trong mười phương vô lượng, vô số, vô biên thế giới hiện đang chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, hiện đang vì các hữu tình giảng thuyết chánh pháp. Phật Thế Tôn kia cũng nương sáu pháp Ba la mật đa mà sanh Nhất thiết trí. Nay Ta, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, hiện đang tuyên thuyết chánh pháp cho các hữu tình cũng nương sáu pháp Ba la mật đa mà sanh Nhất thiết trí. Vì sao? Vì sáu pháp Ba la mật đa này có thể bao gồm khắp tất cả ba mươi bảy Bồ đề phần pháp, hoặc bốn phạm trụ, hoặc bốn nhiếp sự, hoặc vô lượng, vô biên Phật pháp khác, hoặc trí chư Phật, hoặc trí tự nhiên, trí bất tư nghì, trí không đối địch, Nhất thiết trí trí, tất cả đều bao gồm ở trong sáu pháp Ba la mật đa này. Thế nên, Ta nói sáu pháp Ba la mật đa này là bạn lành chơn tịnh của các chúng đại Bồ Tát, là thầy chỉ dạy, là bậc dẫn đường, là ánh sáng, là chiếu soi, là nhà cửa, là hộ trì, là nơi quy y, là nơi hướng đến, là hòn đảo, là cha lành, là mẹ hiền cho các chúng đại Bồ Tát, luôn làm cho chúng đại Bồ Tát đắc trí tuệ vi diệu, sanh giác ngộ như thật, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, làm bạn bè chẳng mong đền trả của các hữu tình.

Thế nên, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nên học sáu pháp Ba la mật đa.

“Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát muốn học sáu thứ Ba la mật đa, nên đối kinh điển Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, quán sát nghĩa thú, thỉnh quyết chỗ nghi. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật đa như thế năng cùng sáu thứ Ba la mật đa làm tôn làm dẫn, năng chỉ năng chuyển, làm mẹ sanh mẹ dưỡng vậy. Vì sao? Vì nếu lìa Bát nhã Ba la mật đa thời không có năm Ba la mật đa trước. Mặc dù có bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự mà chẳng gọi là năng đến bờ kia. Vậy nên, Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát muốn được hạnh chẳng theo người dạy, muốn trụ bậc chẳng theo người dạy, muốn dứt nghi tất cả hữu tình, muốn mãn nguyện tất cả hữu tình, muốn nghiêm tịnh cõi Phật, muốn thành thục hữu tình, nên học Bát nhã Ba la mật đa. Vì sao? Vì trong Kinh Bát nhã Ba la mật đa sâu xa này rộng nói về pháp cần nên học của các đại Bồ Tát, tất cả các đại Bồ Tát đối với kinh ấy đều nên siêng năng tu học. Nếu siêng năng tu học phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật đa sâu xa thì nhất định chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, luôn làm lợi ích an vui cho chúng sanh cùng tận đời vị lai”.

 

Để kết luận: Về tính cách quan trọng của Lục Ba la mật nên phẩm “Chuyển Sanh”, quyển 07, Hội thứ I, ĐBN xưng tán Lục Ba la mật như sau:

“Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát muốn đắc năm nhãn thanh tịnh, nên siêng tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì sáu phép Ba la mật đa như vậy, gồm thâu tất cả thiện pháp thanh tịnh, đó là thiện pháp của Thanh văn, thiện pháp của Độc giác, thiện pháp của Bồ Tát, thiện pháp của Như Lai. Xá Lợi Tử! Nếu hỏi thẳng: Pháp nào có thể gồm thâu tất cả thiện pháp, thì nên đáp ngay rằng: Đó là Bát nhã Ba la mật đa sâu xa. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì Bát nhã Ba la mật đa sâu xa là mẹ sanh, mẹ dưỡng của tất cả thiện pháp, có thể sanh ra và nuôi dưỡng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự và năm nhãn v.v… cùng vô lượng vô biên công đức thù thắng, chẳng thể nghĩ bàn”.

Thích nghĩa:

(1). Kinh này không có đặt tên (như đã lưu ý trước đây, tương đương với Đạo Hành kinh của Chi lâu Ca sấm, Tiểu Phẩm Bát n Ba La Mật” của La Thập hay Phật Mẫu Bát Nhã Kinh” của Thí Hộ) được ghi trong Đại Bát Nhã, từ quyển 538 đến quyển 555. Để tránh lẫn lộn với các kinh ngắn tương đương trên, chúng tôi tạm gọi kinh nầy là “Tiểu Bản Bát Nhã”. Xin đọc giả ghi nhớ cho. Đây là lưu ý thứ hai.

(2). Bồ Tát Chánh tánh ly sanh: Phẩm Tu Bồ Đề, quyển 484, ĐBN, Ngài Huyền Trang dịch, giải thích Bồ Tát Chánh tánh ly sanh như sau:

Xá Lợi Phất hỏi Tu Bồ Đề rằng: Vì sao Bồ Tát Ma ha tát được vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh?

Tu Bồ Đề đáp rằng: Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, chẳng thấy nội không, chẳng nương nội không mà quán ngoại không. Chẳng thấy ngoại không; chẳng nương ngoại không mà quán nội không.

Chẳng thấy nội ngoại không; chẳng nương nội ngoại không mà quán ngoại không, chẳng nương nội ngoại không mà quán đại không.

Chẳng thấy đại không; chẳng nương đại không mà quán nội ngoại không, chẳng nương đại không mà quán không không.

Chẳng thấy không không; chẳng nương không không mà quán đại không, chẳng nương không không mà quán thắng nghĩa không.

Chẳng thấy thắng nghĩa không; chẳng nương thắng nghĩa không mà quán không không, chẳng nương thắng nghĩa không mà quán hữu vi không.

Chẳng thấy hữu vi không; chẳng nương hữu vi không mà quán thắng nghĩa không, chẳng nương hữu vi không mà quán vô vi không.

Chẳng thấy vô vi không; chẳng nương vô vi không mà quán hữu vi không, chẳng nương vô vi không mà quán tất cánh không.

Chẳng thấy tất cánh không; chẳng nương tất cánh không mà quán vô vi không, chẳng nương tất cánh không mà quán vô tế không.

Chẳng thấy vô tế không; chẳng nương vô tế không mà quán tất cánh không, chẳng nương vô tế không mà quán vô tán không.

Chẳng thấy vô tán không; chẳng nương vô tán không mà quán vô tế không, chẳng nương vô tán không mà quán bổn tánh không.

Chẳng thấy bổn tánh không; chẳng nương bổn tánh không mà quán vô tán không, chẳng nương bổn tánh không mà quán tướng không.

Chẳng thấy tướng không; chẳng nương tướng không mà quán bổn tánh không, chẳng nương tướng không mà quán nhất thiết pháp không.

Chẳng thấy nhất thiết pháp không; chẳng nương nhất thiết pháp không mà quán tướng không, chẳng nương nhất thiết pháp không mà quán vô tánh không.

Chẳng thấy vô tánh không; chẳng nương vô tánh không mà quán nhất thiết pháp không, chẳng nương vô tánh không mà quán vô tánh tự tánh không.

Chẳng thấy vô tánh tự tánh không, chẳng nương vô tánh tự tánh không mà quán vô tánh không.

Xá Lợi Phất! Bồ Tát Ma ha tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật tác quán như thế được vào Bồ Tát Chánh tán ly sanh.

Có thể nói một vị Bồ Tát quán sát và thấu triệt 18 pháp không của Tánh Không Bát Nhã mà chẳng thấy, chẳng nương “thập bát không thì có thể gọi là Bồ Tát Chánh tánh ly sanh.

Lưu ý: Kinh ĐBN gồm tổng cộng 16 Hội. Nhưng từ Hội thứ XI cho đến hết Hội thứ XVI (tổng cộng là 6 Hội kể từ quyển 579 cho đến hết quyển thứ 600) thuyết riêng về Lục Ba la mật mà chúng ta sẽ có dịp tham cứu trước khi chấm dứt thiên khảo luận này. Phải nói thêm rằng sáu Hội cuối cùng thuyết sáu pháp môn riêng rẽ từ Bố thí Ba La mật (Hội thứ XI), Tịnh giới Ba la mật (Hội thứ XII), An nhẫn Ba la mật (Hội thứ XIII), Tinh tấn Ba La Mật (Hội thứ XIV), Thiền Ba la mật (Hội thứ XV), và Bát nhã Ba la mật (Hội thứ XVI) rất chi tiết và hết sức vi diệu. Những giải thích trên đây về lục Ba la mật chỉ là những điểm đại cương mà thôi.

Phần chiết giải của Bồ Tát Long Thọ trong Đại Trí Độ Luận được chúng tôi trích dẫn kèm thêm, sẽ bổ khuyết những gì mà chúng tôi bao che(cover)không được đầy đủ.

 

2- Bốn Ba la mật tiếp theo là:

 

7/. Phương tiện xảo (Phạm:Upàya-pàramità). (Hán âm: Âu ba da ba la mật): Cũng gọi Phương tiện Ba la mật, Phương tiện thắng trí Ba la mật. Chỉ cho Ba la mật thứ 7 trong 10 Ba la mật, được chia làm 2 loại: 1). Hồi hướng phương tiện thiện xảo: Ban phát các thiện xảo đã tích tập được do tu hành Lục Ba la mật trước cho các hữu tình để cùng nhau hồi hướng mong cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. 2). Bạt tế phương tiện thiện xảo: Phương tiện khéo léo mang lại lợi ích cứu giúp các hữu tình. Hồi hướng phương tiện thiện xảo thuộc về Bát Nhã, còn Bạt tế phương tiện thiện xảo thì thuộc về Đại bi. Tức vì Bát Nhã nên cầu Niết bàn, vì Đại bi mà không bỏ sinh tử. (Xem Kinh Kim quang minh tối thắng vương, Q.4; luận Thành duy thức, Q.9)- Từ điển Phật Quang.

 

8/. Nguyện Ba la mật (Phạm: Praịidhàna-pàramità): Cũng gọi Bát la ni đà na ba la mật. Hạnh nguyện rộng lớn của Bồ Tát trên cầu đạo Bồ đề (giác ngộ), dưới hóa độ chúng sinh, là 1 trong 10 Ba la mật. Cứ theo Kinh Hoa Nghiêm, quyển 18 (bản 80 quyển) thì Nguyện ba la mật có mười đức: 1). Thành tựu cho hết tất cả chúng sinh. 2). Trang nghiêm hết tất cả thế giới. 3). Cúng dường hết tất cả chư Phật. 4). Thông suốt hết các pháp không chướng ngại. 5). Tu hành hết các hạnh trong khắp pháp giới. 6). Thân hằng trụ trong hết các kiếp vị lai. 7). Trí biết hết tất cả tâm niệm. 8). Giác ngộ hết lưu chuyển hoàn diệt. 9). Thị hiện trong hết tất cả quốc độ. 10). Chứng hết được trí tuệ của Như Lai. [Kinh Hoa nghiêm, Q.3 (bản 60 quyển); Kinh Quán Dược vương Dược thượng nhị Bồ Tát]- Từ điển Phật Quang.

 

9/. Lực Ba la mật (C: lìbōluómì; J: rikiharamitsu; S: bala-pāramitā): Sự toàn hảo của năng lực tu hành và nhận thức, ví như có thể đạt giác ngộ một cách không lầm lạc.

 

10/. Trí Ba la mật (C: zhìbōluómì; J: chiharamitsu): Sự hoàn chỉnh của toàn trí toàn thức—có khả năng nhận rõ các hiện tượng trong pháp giới chân thật như thể tính(1) của chúng (s: jñāna-pāramitā).

Nói tóm lại, có vô lượng Ba la mật mà trong đó có 10 Ba la mật chính yếu mà Bồ Tát phải tu tập và thực hành. Các Bồ Tát cần phải học 10 Ba la mật ấy nếu muốn Giác ngộ, chứng Chánh Đẳng Chánh giác và đắc Nhất thiết trí trí. Những giải thích trên, như đã nói chỉ là những nét đại cương về Thập ba la mật, pháp tu chánh của Bồ Tát Đại thừa. Phần thứ II, Tổng luận sẽ đi sâu vào chi tiết.

Thích nghĩa:

(1). Thể tính: Sự không thay đổi thực chất của vạn hữu.

 

18. AN TRỤ THÁNH ĐẾ KHỔ, AN TRỤ THÁNH ĐẾ TẬP, DIỆT, ĐẠO:

 

Đây muốn đề cập đến “Tứ diệu đế” tức bốn sự thật chắc chắn, hoàn mỹ nhất mà đức Phật phát huy để chúng sinh dứt khổ đau, phiền muộn và được an vui, giải thoát. Bốn đế đó là khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.

1- Khổ đế: Chân đế chắc thật, trình bày rõ ràng cho ta thấy tất cả những nổi khổ đau thế gian mà chúng ta phải chịu như sống là khổ, bệnh là khổ, già là khổ v.v…

2- Tập đế: Chân lý chắc thật, trình bày những nguyên nhân khổ ải trần gian và nguyên do vì đâu mà có những nỗi khổ ấy.

3- Diệt đế: Chân lý chắc thật, không thay đổi, trình bày tường tận hoàn cảnh, quả vị tốt đẹp, an lành mà hành giả sẽ đạt đến khi đã diệt trừ được các nguyên nhân khổ đau.

4- Đạo đế: là những phương pháp đứng đắn để diệt trừ đau khổ. Đó là chân lý chắc thật chỉ rõ con đường phải đi để đạt được cảnh giới Niết bàn. Nói nôm na đó là phương pháp tu hành diệt khổ để được vui. Vì vậy, trong 37 pháp trợ đạo, Bát Chánh đạo chính là Đạo đế trong Tứ đế.

Do đó, Bát Nhã khuyên chúng sanh nên an trụ trong Tứ đế để diệt khổ mà đắc lạc! Nhưng đó chỉ là những khái niệm về pháp tu này. Muốn chứng bậc Thanh văn thì phải tu Tứ Đế. Đó là pháp duy nhất dành cho hàng Thanh văn, phải là bậc thật tu thật chứng thì mới cho thể chỉ dạy thuyết giảng pháp tu này.

Chúng ta biết Bồ Tát Long Thọ là bậc thật tu thật chứng, Ngài là Tổ thứ 14 truyền thừa từ Đức Phật -thừa kế Phật làm chủ Tăng đoàn. Nếu Ngài không đủ khả năng dĩ nhiên không làm tròn bổn phận lãnh đạo cũng như giáo hóa Tăng đoàn. Ngài là bậc học rộng hiểu sâu đã sáng tác nhiều bộ luận nổi danh trong đó có bộ Đại Trí Độ Luận, viết về Hội thứ II Đại Bát Nhã, có đề cập tất cả pháp tu Phật học mà trong đó có nói đến pháp tu chính của Thanh văn là Tứ đế. Nên được chúng tôi trích dẫn để chư vị tham cứu thêm:

 

Phẩm thứ 84, “Tứ Đế”, tập 5, quyển 93, Đại Trí Độ Luận giải thích rằng:

 “Vì muốn phá các nhân duyên quả báo sanh tử của chúng sanh, mà Bồ Tát nguyện ở trong Bát nhã Ba la mật, nhiếp hết thảy các thiện pháp, hành Bồ Tát đạo, được Vô Thượng Bồ Đề, rồi vì chúng sanh thuyết 4 thánh đế, gồm khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.

Hỏi: Phật có rất nhiều pháp vi diệu dẫn đến “vô ngại giải thoát”. Vì sao? Chỉ nói đến 4 thánh đế mà thôi?

Đáp: Vì chúng sanh khổ, nên trước hết phải trừ khổ cho chúng sanh; sau đó mới khai thị Phật đạo.

Ví như người lâm bệnh nặng, trước hết phải trừ gốc bệnh cho họ; sau đó mới cho họ bổ dưỡng để phục hồi lại.

 

--o0o--

 

Chúng sanh thọ thân 5 ấm, mà 5 ấm là gốc của hết thảy khổ. Do vậy mà phải vì chúng sanh nói về “khổ đế”.

Có vô lượng khổ; nếu nói lược thì có các khổ “sanh, già, bệnh, chết”.

Lại phải cho chúng sanh biết về các nguyên nhân sanh khổ, nên phải vì họ nói về “tập đế”. Do có “ái, thủ và hữu” mà chúng sanh phải thọ thân ở đời sau. Đã thọ thân tức là phải thọ khổ. Do vậy mà nói “ái, thủ, hữu là các nhân chính tạo ra khổ”.

Lại phải dạy cho chúng sanh biết về cách diệt khổ, nên phải vì họ nói về “diệt đế”. Chúng sanh muốn đoạn khổ thì trước phải đoạn “ái”. Đoạn ái rồi, thì thủ, hữu….dẫn đến sanh, già, chết đều đoạn cả. Do vậy mà nói “ái”  đoạn thì “khổ” tự diệt.

Lại phải cho chúng sanh biết con đường đưa đến sự diệt khổ, nên phải vì họ nói về “đạo đế”. Con đường diệt khổ tức là “đạo” vậy.

Ở đời này, chúng sanh phải quán thân 5 ấm là gốc của khổ, nên phải quán thân này là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã. Lại phải biết do “ái” mà phải thọ thân, nên phải quán “ái” như bệnh, như ung nhọt, như giặc cướp; phải hành 8 thánh đạo, tu chánh kiến và 7 pháp thánh đạo kia, để giúp cho sự phát đạo tâm, giúp đoạn sạch pháp “ái”, ví như dùng chất rượu để dẫn thuốc vậy.

Nếu ở nơi hết thảy pháp thế gian mà chẳng còn khởi tâm tham đắm nữa, thì mới ly được khổ. Khi ly được khổ rồi, thì ảnh hưởng của khổ liền tự diệt. Có như vậy mới thành tựu được diệu pháp.

Bởi vậy nên, ở đoạn kinh trên đây, Phật dạy “ bốn thánh đế nhiếp hết thảy các thiện pháp”.

Hỏi: Vì sao chẳng nói đến các pháp trợ đạo?

Đáp: Vì hết thảy các thiện pháp nhiếp bên trong bốn pháp đế. Các thiện pháp trợ đạo làm nhân duyên giúp chúng sanh tin kính ba ngôi Tam Bảo. Nếu chúng sanh chẳng tin Tam Bảo, thì chẳng thể ra khỏi 6 đường sanh tử. Bởi vậy nên trước hết phải dạy cho chúng sanh bốn thánh đế, khiến họ trừ được khổ, rồi sau đó mới dùng các thiện pháp trợ đạo để đưa họ vào đạo.

Hỏi: Vì sao ngài Tu Bồ Đề hỏi Phật “Dùng khổ đế mà được diệt độ, hay dùng khổ trí mà được diệt độ chăng?

Đáp: Hỏi như vậy chẳng phải là thô. Hỏi như vậy để cho thấy rõ về thể của bốn thánh đế. Muốn diệt độ thì phải dùng đến trí. Khi đã diệt sạch hết các phiền não rồi, thì được diệt độ, tức là được Niết Bàn vậy.

Khổ đế là do khổ trí hòa hợp mà thành tựu.

Cho nên chẳng phải dùng khổ đế mà được diệt độ, được Niết Bàn, mà phải do khổ trí mới được như vậy. Dẫn đến đạo đế và đạo trí cũng là như vậy.

Phật dạy: Chẳng phải dùng khổ đế, cũng chẳng phải dùng khổ trí mà được diệt độ… dẫn đến chẳng phải dùng đạo đế, cũng chẳng dùng đạo trí mà được diệt độ. Tất cả bốn đế đều bình đẳng; bốn đế tức là Niết Bàn. Chẳng phải dùng khổ đế hay khổ trí… dẫn đến chẳng phải dùng đạo đế hay đạo trí mà được diệt độ. Vì sao? Vì khổ, tập, diệt và đạo đều do nhân duyên sanh, là hư dối, là chẳng thật có, là chẳng có tự tánh. Nếu khổ, tập, diệt và đạo đều chẳng thật có, thì chẳng có thể dùng các pháp ấy để được diệt độ vậy.

Hỏi:  Hai pháp “khổ” và “tập” là pháp hữu lậu, hư dối, chẳng thật có. Còn “đạo đế” là pháp vô lậu, do nhân duyên sanh mà chẳng phải hư dối; “diệt đế” là pháp vô vi chẳng do nhân duyên sanh. Vì sao nói cả 4 pháp đều là hư dối, chẳng thật có?

Đáp: Khi mới vào đạo, thì chỉ mới biết có hai đế hư dối, là khổ đế và tập đế mà thôi. Khi đã vào vô dư Niết Bàn rồi, thì cũng sẽ biết đạo đế và diệt đế chính là “không tam muội”.

Do hữu lậu, hữu vi mà nói đến vô lậu, vô vi. “Khổ”  khi đã diệt rồi, ví như cây đèn đã tắt, chẳng nên hý luận, tâm cầu xứ sở làm gì nữa. Bởi vậy nên Phật dạy, “Chẳng phải dùng khổ mà được diệt độ… dẫn đến chẳng phải dùng đạo mà được diệt độ”.

 

--o0o--

 

Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Vì sao nói 4 đế bình đẳng?

Phật dạy: Chẳng có khổ cũng chẳng có khổ trí… dẫn đến chẳng có đạo cũng chẳng có đạo trí; Chẳng có chỗ chia bốn đế ra làm 8 pháp(khổ, tập, diệt, đạo + khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí), thì gọi là bình đẳng. “Đế” là như thật, chẳng hư dối, là như pháp tánh, pháp tướng, pháp vị, thật tế. Dù có Phật hay chẳng có Phật, thì pháp tướng vẫn thường trú, chẳng hư dối.

Chúng sanh chẳng biết rằng chỉ có thật tướng pháp là chẳng hư dối, là thường trú, bất diệt, mà cứ mãi vọng chấp điên đảo, tạo nên các nghiệp nhân duyên, khiến phải thọ lãnh các nghiệp quả báo; dù được quả báo phước lạc ở cõi trời hay cõi người, thì phước lạc đó lâu sau cũng sẽ bị hoại diệt.

Bởi vậy nên Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật, thông đạt “thật đế”, dùng các lực phương tiện vì chúng sanh nói ra “thật đế” vậy.

 

--o0o--

 

Ngài Tu Bồ Đề hỏi : Bồ Tát thông đạt thật đế như thế nào, mà vào thẳng Bồ Tát vị?

Phật dạy : Bồ Tát tư duy hết thảy pháp đều không; pháp nhiếp trong 4 thánh đế là không, pháp chẳng nhiếp trong 4 thánh đế cũng là không. Do quán hết thảy pháp không, mà Bồ Tát vào thẳng Bồ Tát vị.

Hỏi: Vì sao nói chẳng quán các pháp không như trên đây, thì chẳng vào được Bồ Tát vị?

Đáp: Quán hết thảy pháp không, như nói trên đây, có nghĩa là quán hết thảy pháp đều không, và ở trong “không” đó, thì “không” cũng là không. Nếu trong “không” mà còn có “bất không” thì chẳng thể gọi là hết thảy pháp không vậy.

Bồ Tát hành “không” như vậy, nên vào thẳng Bồ Tát vị. Vào Bồ Tát vị, Bồ Tát an trú trong “tánh địa”, chẳng còn bị lạc về Thanh Văn địa và Bích Chi Phật địa.

“Tánh địa” là đệ nhất pháp thế gian. Pháp này tùy thuận “vô lậu đạo” nên gọi là tánh.

Bồ Tát an trú trong “tánh địa” cầu được làm Phật, nên sanh 4 thiền, 4 vô lượng tâm, 4 vô sắc định.

Khi vào được thiền định, Bồ Tát nhiếp tâm phân biệt các pháp, thông đạt 4 đế, nghĩa là biết khổ mà chẳng duyên khổ.

Phàm phu cũng biết khổ, nhưng cứ mải miết tạo tác ra các nhân duyên nghiệp khổ, khiến mãi miết thọ thân trong các nẻo đường sanh tử.

Bồ Tát biết rõ thân là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã, là oán tặc, là giặc cướp. Biết rõ như vậy, nên gặp khổ Bồ Tát liền xả, chẳng chấp tướng khổ, cũng chẳng chấp khổ đế. Dẫn đến đạo đến cũng như vậy.

Bồ Tát chỉ nhất tâm hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề; biết 4 đế chỉ là phương thuốc để đối trị bệnh chấp của chúng sanh, nên chẳng chấp 4 đế, Bồ Tát chỉ quán thật tướng pháp, nên chẳng có phân biệt 4 pháp quán về 4 đế vậy.

Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Thế nào gọi là như thật quán các pháp?

Phật dạy : Đó là quán “không”.

Ngài Tu Bồ Đề hỏi : Nếu nói Bồ Tát quán hết thảy các pháp, từ lớn đến nhỏ đều “không”, thì như vậy dùng pháp “không” gì để quán?

Phật dạy: Dùng “tự tướng không” để quán.

Hỏi: Có đến 18 pháp không, vì sao Phật chỉ nói đến “tự tướng không” mà thôi?

Đáp: Nói “tự tướng không” là nói ở trong “không”, thì “tự tướng có” mặc nhiên bị phá rồi. Do vậy mà tâm chẳng còn bị chìm đắm, dẫn đến chẳng còn thấy một pháp “hữu tánh” nào nữa… dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề cũng là tự tướng không. Bồ Tát an trú trong “tánh không” mà được Vô Thượng Bồ  Đề. Tánh không đó chẳng phải do Phật làm ra chẳng phải do ai khác làm ra, là thường tịch diệt, chẳng có hý luận vậy.

Vì chúng sanh chẳng có thể biết được như thật tướng của các pháp, nên Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, vì chúng sanh nói ra diệu pháp đó.

Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn, đã vào Bồ Tát vị, đã thông đạt đệ nhất nghĩa đế, nên có đầy đủ các lực phương tiện. Bồ Tát quán các đạo tướng thậm thâm vi diệu, mà chẳng đắc, chẳng xả; Lại dùng trí huệ quán biết chúng sanh ở trong “không” mà phải đọa vào ba đường ác, phải thọ bao nhiêu khổ não. Quán như vậy rồi, Bồ Tát trải rộng lòng đại từ bi, thâm niệm chúng sanh, dùng mọi phương tiện cứu vớt chúng sanh ra khỏi các khổ.

Nếu Bồ Tát nói thẳng về tự tướng không của các pháp, thì chúng sanh sẽ chẳng tin, chẳng thọ, dẫn đến sẽ phá hoại pháp, khiến phải bị đọa vào địa ngục. Bởi vậy nên Bồ Tát phải thành tựu hết thảy các thiện pháp, tự trang nghiêm thân tướng của mình, để phương tiện dẫn đạo chúng sanh, tùy từng đối tượng chúng sanh mà thuyết pháp, khiến họ được giải thoát”.

 Phần đầu luận này nói về Tứ đế, phần sau cùng nói về quán không(tự tướng không). Hai pháp tu này khác nhau nhưng thật sự bổ xung cho nhau. Quán Tứ đế để không còn thấy khổ. Quán không để xả chấp được vô niệm vô tâm. Cả hai đều đưa đến sự an tịnh. Đó là chỗ rốt ráo của tu hành. Nên phẩm “Tuyên Hóa” của Hội thứ III, ĐBN:

“Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì nhờ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà các loài hữu tình chứng nhập Niết bàn, hay vì nhờ Thánh trí khổ, tập, diệt, đạo mà các loài hữu tình chứng nhập Niết bàn?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải nhờ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà các loài hữu tình chứng nhập Niết bàn; cũng chẳng phải nhờ Thánh trí khổ, tập, diệt, đạo mà các loài hữu tình chứng nhập Niết bàn.

Này Thiện Hiện! Ta nói tánh bình đẳng của bốn Thánh đế tức là Niết bàn. Như vậy, Niết bàn chẳng phải nhờ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, cũng chẳng nhờ Thánh trí khổ, tập, diệt, đạo. Chỉ nhờ chứng tánh bình đẳng của Bát nhã Ba la mật nên gọi là chứng nhập Niết bàn.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tánh bình đẳng của 4 Thánh đế là thế nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu ở nơi mà không có khổ, tập, diệt, đạo đế; không có khổ, tập, diệt, đạo trí thì gọi là tánh bình đẳng của bốn Thánh đế. Tánh bình đẳng này tức là bốn Thánh đế, là cảnh giới chơn như, nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì. Như Lai dù ra đời hoặc chẳng ra đời thì tánh tướng vẫn thường trụ không hoại diệt, không biến đổi. Như vậy, gọi là tánh bình đẳng của bốn Thánh đế.

Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã, vì muốn hiểu rõ tánh bình đẳng của bốn Thánh đế đây, nên hành Bát nhã Ba la mật. Nếu có thể hiểu rõ tánh bình đẳng của bốn Thánh đế này thì gọi là hiểu biết hoàn toàn tất cả Thánh đế, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.

Nghĩa của pháp tánh bình đẳng cũng rốt ráo không. Trong rốt ráo không, tất cả là rỗng không, không có gì. Nên nói là thanh tịnh.

 

19. AN TRỤ 18 PHÁP KHÔNG (Thập bát không):

 

Phẩm “Vấn Thừa” quyển 05, Kinh MHBNBLMĐ của Ngài La Thập liệt kê Thập bát không gồm:

Thập Bát Không là nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, đệ nhất nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô thỉ không, tán không, tánh không, tự tướng không, chư pháp không, bất khả đắc không, vô pháp không, hữu pháp không, vô pháp hữu pháp không.

Kinh chỉ ghi có 18 pháp không, nhưng khi giải thích thì kinh nêu ra tổng cộng là 22 pháp không. Xin liệt kê ra đây:

1- Những gì là nội không? Nội pháp là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý. Xét về nhãn thời nhãn rỗng không, nhẫn đến xét về ý thời ý rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tự tánh như vậy. Đây gọi là nội không.

2- Những gì là ngoại không? Ngoại pháp là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Xét về sắc thời sắc rỗng không, nhẫn đến xét về pháp thời pháp rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Đây gọi là ngoại không.

3- Những gì là nội ngoại không? Nội ngoại pháp là thập nhị nhập: Nội lục nhập tức là sáu căn và ngoại lục nhập tức là sáu trần (còn gọi là mười hai Xứ). Xét về nội pháp thời nội pháp rỗng không, xét về ngoại pháp thời ngoại pháp rỗng không, vì đều chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Đây gọi là nội ngoại không.

4- Những gì là không không? Không là tất cả pháp rỗng không. Không nầy cũng là rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tự tánh như vậy. Đây gọi là không không.

5- Những gì là đại không? Đại là nói mười phương. Xét về Đông phương thời Đông phương rỗng không, nhẫn đến Hạ phương thời Hạ phương rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Đây gọi là đại không.

6- Những gì là đệ nhất nghĩa không? Đệ nhứt nghĩa là nói Niết Bàn. Xét về về Niết Bàn thời Niết Bàn rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Đây là đệ nhất nghĩa không.

7- Những gì là hữu vi không? Hữu vi pháp là nói tam giới: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Xét về Dục giới thời Dục giới rỗng không. Sắc giới thời Sắc giới rỗng không, Vô sắc giới thời Vô sắc giới rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Đây gọi là hữu vi không.

8- Những gì là vô vi không? Vô vi pháp là nói không tướng sanh, không tướng trụ, không tướng diệt. Xét về vô vi pháp thời vô vi pháp rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Đây gọi là vô vi không.

9- Những gì là tất cánh không? Tất cánh là nói các pháp rốt ráo bất khả đắc, tức là tất cánh rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Đây gọi là tất cánh không.

10- Những gì là vô thỉ không? Xét về chỗ khởi đầu các pháp thời bất khả đắc, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Đây gọi là vô thỉ không.

11- Những gì là tán không? Tán là nói các pháp không diệt. Không diệt nầy cũng rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Đây gọi là tán không.

12- Những gì là tánh không? Hoặc hữu vi pháp tánh hoặc vô vi pháp tánh, tánh nầy chẳng phải Thanh Văn, Bích Chi Phật làm ra, chẳng phải Phật làm ra, cũng chẳng phải người khác làm ra. Xét về tánh nầy, thời tánh nầy rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Đây gọi là tánh không.

13- Những gì là tự tướng không? Tự tướng là nói sắc thời tướng biến hoại, thọ thời tướng lãnh thọ, tưởng thời tướng lấy tướng dạng, hành thời tướng tạo tác, thức thời tướng rõ biết. Tự tướng của những pháp hữu vi, pháp vô vi đều rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Đây gọi là tự tướng không.

14- Những gì là chư pháp không? Chư pháp là nói ngũ ấm, thập nhi nhập, thập bát giới. Xét về chư pháp nầy thời chư pháp nầy rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tự tánh như vậy. Đây gọi là chư pháp không.

15- Những gì là bất khả đắc không? Tìm cầu các pháp bất khả đắc đây là bất khả đắc không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Đây gọi là bất khả đắc không.

16- Những gì là vô pháp không? Nếu pháp không có thì cũng rỗng không, vì chẳng thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Đây gọi là vô pháp không.

17- Những gì là hữu pháp không? Hữu pháp là nói trong các pháp hòa hiệp có tự tánh tướng. Hữu pháp nầy rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Đây gọi là hữu pháp không.

18- Những gì là vô pháp hữu pháp không? Vô pháp và hữu pháp trong các pháp đều rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy. Đây gọi là vô pháp hữu pháp không.

Nầy Tu Bồ Đề! Lại còn pháp pháp tướng không, vô pháp vô pháp tướng không, tự pháp tự pháp tướng không, tha pháp tha pháp tướng không.

1/. Những gì gọi là pháp pháp tướng không?

Pháp nơi đây là nói ngũ ấm. Ngũ ấm rỗng không. Đây gọi là pháp pháp tướng không

2/. Những gì gọi là vô pháp vô pháp tướng không?

Vô pháp đây là nói vô vi pháp. Đây gọi là vô pháp vô pháp tướng không

3/. Những gì gọi là tự pháp tự pháp tướng không?

Xét về các pháp thời tự pháp rỗng không. Rỗng không nầy chẳng phải do biết cũng chẳng phải do thấy. Đây gọi là tự pháp tự pháp tướng không.

4/. Những gì gọi là tha pháp tha pháp tướng không?

Hoặc Phật xuất thế hoặc Phật chưa xuất thế, pháp trụ, pháp tướng, pháp vị, pháp tánh, như thật tế vượt quá những pháp không nầy. Đây gọi là tha pháp tha pháp tướng không”.

 

Để rộng đường nghiên cứu, chúng tôi ghi lại phẩm “Biện Đại Thừa” quyển 51, Hội thứ I; phẩm “Tam Ma Địa” quyển 417, Hội thứ II và phẩm “Thiện Hiện” quyển 488, Hội thứ III, ĐBN, do Ngài Huyền Trang dịch cũng có đề cập chi tiết về Thập Bát Không. Phật nói với Tu Bồ Đề về tướng Đại thừa của các Bồ Tát Ma ha tát như sau:

“- Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của đại Bồ Tát là cái không nội, cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh. Đó là tướng Đại thừa của đại Bồ Tát.

 

1. Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là nội không?

Phật dạy: Thiện Hiện! Nội nghĩa là nội pháp, tức là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Trong đó, nhãn gắn liền với cái không của nhãn. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý gắn liền với cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là nội không.

 

2- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là ngoại không?

Phật dạy: Thiện Hiện! Ngoại nghĩa là ngoại pháp, tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Trong đó, sắc gắn liền với cái không của sắc. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thanh, hương, vị, xúc, pháp gắn liền với cái không của thanh, hương, vị, xúc, pháp. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là ngoại không.

 

3- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là nội ngoại không?

Phật dạy: Thiện Hiện! Nội ngoại nghĩa là nội, ngoại pháp, tức là nội lục xứ, ngoại lục xứ. Trong đó, nội lục xứ gắn liền với cái không của ngoại lục xứ. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Ngoại lục xứ gắn liền với cái không của nội lục xứ. Vì sao? Vì chẳng phải thường chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là nội, ngoại không.

 

4- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là không không?

Phật dạy: Thiện Hiện! Không nghĩa là tất cả pháp đều không. Cái không này gắn liền với cái không của không. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là không không.

 

5- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại không?

Phật dạy: Thiện Hiện! Đại nghĩa là mười phương, tức là Đông, Nam, Tây, Bắc, tứ vi, thượng, hạ. Trong đó, phương Đông gắn liền với cái không của phương Đông. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Phương Nam, Tây, Bắc, tứ vi, thượng, hạ gắn liền với cái không của phương Nam, Tây, Bắc, tứ vi, thượng, hạ. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là đại không.

 

6- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là thắng nghĩa không?

Phật dạy: Thiện Hiện! Thắng nghĩa, nghĩa là Niết bàn. Thắng nghĩa này gắn liền với cái không của thắng nghĩa. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là thắng nghĩa không.

 

7- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là hữu vi không?

Phật dạy: Thiện Hiện! Hữu vi nghĩa là Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới. Trong đó, Dục giới gắn liền với cái không của Dục giới. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Sắc, Vô Sắc giới gắn liền với cái không của Sắc, Vô Sắc giới. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là hữu vi không.

 

8- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là vô vi không?

Phật dạy: Thiện Hiện! Vô vi nghĩa là không sanh, không trụ, không dị, không diệt. Vô vi này gắn liền với cái không của vô vi. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là vô vi không.

 

9- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là tất cánh không?

Phật dạy: Thiện Hiện! Tất cánh nghĩa là cái rốt ráo của các pháp, chẳng thể nắm bắt được. Cái rốt ráo này gắn liền với cái không rốt ráo. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là tất cánh không.

 

10- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là vô tế không?

Phật dạy: Thiện Hiện! Vô tế nghĩa là không có ranh giới giữa cái khởi đầu, ở giữa và sau cùng, có thể nắm bắt được, và không có cái ranh giới giữa đi và đến, có thể nắm bắt được. Vô tế này gắn liền với cái không của vô tế. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là vô tế không.

 

11- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là tán không?

Phật dạy: Thiện Hiện! Tán nghĩa là có buông, có bỏ, có xả, có thể nắm bắt được. Tán này gắn liền với cái không của tán. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là tán không.

 

12- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là vô biến dị không?

Phật dạy: Thiện Hiện! Vô biến dị nghĩa là không buông, không bỏ, không xả, có thể nắm bắt được. Cái vô biến dị này gắn liền với cái không của vô biến dị. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là vô biến dị không.

 

13- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là bản tánh không?

Phật dạy: Thiện Hiện! Bản tánh nghĩa là bản tánh của tất cả pháp, hoặc tánh của pháp hữu vi, hoặc tánh của pháp vô vi, đều chẳng phải Thanh văn làm ra, chẳng phải Độc giác làm ra, chẳng phải Bồ Tát làm ra, chẳng phải Như Lai làm ra, cũng chẳng phải ai khác làm ra. Bản tánh này gắn liền với cái không của bản tánh. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là bản tánh không.

 

14- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là tự tướng không?

Phật dạy: Thiện Hiện! Tự tướng nghĩa là tự tướng của tất cả pháp, như biến ngại là tự tuớng của sắc, lãnh nạp là tự tướng của thọ, thủ tượng là tự tướng của tưởng, tạo tác là tự tướng của hành, liễu biệt là tự tướng của thức; hoặc là tự tướng của pháp hữu vi, hoặc là tự tướng của pháp vô vi, cũng như vậy. Tự tướng này gắn liền với cái không của tự tướng. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là tự tướng không.

 

15- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là cộng tướng không?

Phật dạy: Thiện Hiện! Cộng tướng nghĩa là tướng chung của tất cả pháp. Như khổ là cộng tướng của pháp hữu lậu, vô thường là cộng tướng của pháp hữu vi; không, vô ngã là cộng tướng của tất cả pháp, có vô lượng cộng tướng như vậy. Cộng tướng này gắn liền với cái không của cộng tướng. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là cộng tướng không.

 

16- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là nhất thiết pháp không?

Phật dạy: Thiện Hiện! Nhất thiết pháp nghĩa là pháp năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, hoặc là pháp hữu sắc, vô sắc, hữu kiến, vô kiến, hữu đối, vô đối, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi (nói tóm lại tất cả pháp là danh từ chỉ chung cho sắc và tâm). Nhất thiết pháp này gắn liền với cái không của nhất thiết pháp. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là nhất thiết pháp không.

 

17- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là bất khả đắc không?

Phật dạy: Thiện Hiện! Bất khả đắc nghĩa là trong tất cả pháp này, chẳng thể nắm bắt được, hoặc quá khứ chẳng thể nắm bắt được, vị lai chẳng thể nắm bắt được, hiện tại chẳng thể nắm bắt được; hoặc trong quá khứ không có vị lai hiện tại, có thể nắm bắt được; hoặc trong vị lai không có quá khứ, hiện tại, có thể nắm bắt được; hoặc trong hiện tại không có quá khứ, vị lai, có thể nắm bắt được. Bất khả đắc này gắn liền với cái không của bất khả đắc. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là bất khả đắc không.

 

18- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là vô tánh không?

Phật dạy: Thiện Hiện! Vô tánh nghĩa là không có một mảy may tánh có thể nắm bắt được. Vô tánh này gắn liền với cái không của vô tánh. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là vô tánh không.

 

19- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là tự tánh không?

Phật dạy: Thiện Hiện! Tự tánh nghĩa là tánh năng hòa hợp của các pháp. Tự tánh này gắn liền với cái không của tự tánh. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là tự tánh không.

 

20- Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là vô tánh tự tánh không?

Phật dạy: Thiện Hiện! Vô tánh tự tánh nghĩa là các pháp không có tánh năng hòa hợp nhưng có tự tánh sở hòa hợp. Vô tánh tự tánh này gắn liền với cái không của vô tánh tự tánh. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là vô tánh tự tánh không.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hữu tánh gắn liền với cái không của hữu tánh; vô tánh gắn liền với cái không của vô tánh; tự tánh gắn liền với cái không của tự tánh; tha tánh gắn liền với cái không của tha tánh.

Thế nào là hữu tánh gắn liền với cái không của hữu tánh? Hữu tánh nghĩa là năm uẩn. Hữu tánh này gắn liền với cái không của hữu tánh. Vì tánh sanh của năm uẩn chẳng thể nắm bắt được. Đó là hữu tánh gắn liền với cái không của hữu tánh.

Thế nào là vô tánh gắn liền với cái không của vô tánh? Vô tánh nghĩa là vô vi. Vô tánh này gắn liền với cái không của vô tánh. Đó là vô tánh gắn liền với cái không của vô tánh.

Thế nào là tự tánh gắn liền với cái không của tự tánh? Nghĩa là tự tánh của tất cả pháp đều là không. Không này chẳng phải do trí làm ra, chẳng phải do kiến làm ra, cũng chẳng phải do cái gì khác làm ra. Đó là tự tánh gắn liền với cái không của tự tánh.

Thế nào là tha tánh gắn liền với cái không của tha tánh? Nghĩa là hoặc Phật xuất thế, hoặc chẳng xuất thế, tất cả pháp, pháp trụ, pháp định, pháp tánh, pháp giới, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, chơn như, tánh bất hư vọng, tánh bất biến dị, thật tế, đều gắn liền với tha tánh nên là không. Đó là tha tánh gắn liền với cái không của tha tánh”.

 

Toàn thể thiên Tổng luận này phần lớn là thuyết về 18 pháp không hay Bát Nhã Tánh Không với những nguyên lý chỉ đạo của nó, chúng ta sẽ trở lại vấn đề này ở trong phần thứ III Tổng luận nhất là LUẬN #3 nói về “Cái Thấy Từ Bờ Kia”, sẽ giải thích nghĩa chi tiết hơn. Vì hiểu và thông đạt là xong hết.

Ở đây, chúng ta có thể nói người nào chứng được 18 pháp không này thì có thể xem như thông đạt hay thành tựu Bát nhã Ba la mật.

 

20. KHUYÊN AN TRỤ CHƠN NHƯ HOẶC KHUYÊN AN TRỤ PHÁP GIỚI, PHÁP TÁNH, TÁNH CHẲNG HƯ VỌNG V.V... CHO ĐẾN BẤT TƯ NGHÌ GIỚI:

 

Đây ý nói đến thập nhị Chân như: Cũng gọi Thập nhị vô vi, Thập nhị không. Chỉ cho 12 tên gọi của Chân như. 1- Chân như: Chân là chân thực, như là thường như. Thể tính của các pháp chân thực thường như. 2- Pháp giới: Giới nghĩa là chỗ nương. Chân như là chỗ nương của các pháp. 3- Pháp tính: Tức là thể tính của các pháp. 4- Bất hư vọng tính: Pháp tính chân thực, xa lìa hư vọng. 5- Bất biến dị tính: Tức pháp thể không biến đổi. 6- Bình đẳng tính: Lìa tướng sai biệt của các pháp, bình đẳng không hai. 7- Ly sanh tính: Tức lìa sinh diệt. 8- Pháp định: Tức pháp tính thường trụ. 9- Pháp trụ: Trụ trong pháp vị Chân như. 10- Thật tế: Thực lý Chân như rất mực, đến mé cùng cực. 11- Hư không giới: Tức lý thể của Chân như cùng khắp. 12- Bất tư nghị giới (chẳng thể nghĩ bàn): Lý thể Chân như dứt bặt mọi suy tư nói năng, không thể nghĩ bàn. (Từ điển Phật Quang).

Đây có thể coi là một thực chứng quan trọng trong Đại thừa giáo. Chân như, pháp giới, pháp tánh… chỉ cái thể tánh chân thật của vũ trụ mà chỉ có chư Phật mới thấu hiểu được. Văn tự, ngôn ngữ không thể vươn tới chỗ này. Người hiểu biết các pháp như như đó được gọi là Như Lai. Vì vậy, dầu cho lý giải thật sâu, thật hay cũng không thể đạt được cái chân nghĩa cuối cùng của những từ Chân như, pháp giới, pháp tánh… Vậy, khi Bát nhã Ba la mật khuyên an trụ Chân như, hoặc khuyên an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới thì phải làm sao? Mặc dầu không chỉ nổi thật tướng của các pháp nhưng bằng những phương tiện gián tiếp ít nhất cũng có thể giúp ta có một ý niệm tương tự về thật tướng của nó. Ta không biết trăng rằm như thế nào, nhưng nói nó giống như một cái dĩa, người nghe có thể hình dung được trăng rằm như thế nào rồi. Từ điển Phật Quang cố gắng giải thích Chân như cũng như pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ… trong kinh điển Phật giáo Đại thừa như sau:

Chân như (Phạm: Bhùta-tathatà hoặc tathatà): Chỉ bản thể chân thực tràn khắp vũ trụ - là nguồn gốc của hết thảy muôn vật. Còn gọi Như như, Như thực, Pháp giới, Pháp tính, Thực tế, Thực tướng, Như Lai tạng, Pháp thân, Phật tính, Tự tính thanh tịnh thân, Nhất tâm, Bất tư nghị giới. Trong sách Phật, Hán dịch ở thời kỳ đầu dịch là Bản vô. Chân: Chân thật không hư dối – Như: tính của sự chân thật ấy không thay đổi. Tức là cái mà Phật giáo Đại thừa gọi là Bản thể của muôn vật. Nhưng luận cứu một cách tường tận, thì mỗi tông, mỗi nhà giải thích danh từ Chân như đều có khác, tổng kết có thể đưa ra mấy định nghĩa như sau đây. Cứ theo các kinh điển A hàm chép, thì lý pháp duyên khởi là chân lý vĩnh viễn bất biến, cho nên gọi là Chân như. Lại cứ theo luận Dị bộ tông luận, thì trong chín vô vi mà Hóa địa bộ liệt kê, có Thiện pháp Chân như, Bất thiện pháp Chân như, Vô kí pháp Chân như, Đạo chí Chân như, Duyên khởi Chân như. Trong đây, ba tính Thiện, Bất thiện, Vô ký, tám chính đạo và lý pháp sinh tử duyên khởi, đều là chân thực và vĩnh viễn bất biến, cho nên gọi là Chân như. Phật giáo Đại thừa chủ trương: Bản tính của hết thảy sự tồn tại là Nhân vô ngã, Pháp vô ngã, bản tính ấy siêu việt các tính sai biệt, cho nên gọi là Chân như - như tự tính Pháp thân của Như Lai chẳng hạn. Cứ theo Phật địa kinh luận quyển 7, thì Chân như là thực tính của hết thảy hiện tượng (chư pháp), hình tướng tuy sai biệt, nhưng bản thể thì là một, lời nói, suy tư không thể lường được. Để phân biệt với quan điểm sai lầm, hư dối mà tạm gọi là Chân như thôi. Nếu cho đó là chỗ nương tựa của hết thảy pháp lành, thì gọi là Pháp giới - để tránh quan niệm cho là không, thì gọi Thực hữu - để tránh quan niệm nhận là có, thì gọi Không vô - là chân thực, thì gọi Thực tế - vì là trí không phân biệt nên tạm gọi là Thắng nghĩa. Kinh Đại Bát Nhã quyển 360, nêu mười hai tên gọi: Pháp giới, Pháp tính, Tính không hư dối, Tính không đổi khác, Tính bình đẳng, Tính lìa sống, Pháp định, Pháp trụ, Thực tế, Hư không giới và Bất tư nghị giới. Luận Đại thừa A tì đạt ma tạp tập, quyển 2 thì nêu ra sáu tên: Chân như, Tính không, Vô tướng, Thực tế, Thắng nghĩa và Pháp giới. Pháp hoa huyền nghĩa, quyển 8 phần dưới thì nêu ra mười bốn tên: Thực tướng, Diệu hữu, Chân thiện diệu sắc, Thực tế, Tất kính không, Như như, Niết bàn, Hư không, Phật tính, Như Lai tạng, Trung thực ly tâm, Phi hữu phi vô trung đạo, Đệ nhất nghĩa đế và Vi diệu tịch diệt. Ngoài ra còn gọi là Nhất như thực tướng, Chân như nhất thực, Chân thực tế, Chân thắng nghĩa đế v.v... Vì tướng Chân như bình đẳng tuyệt đối nên cũng gọi là Nhất tướng. Kinh Giải thâm mật, quyển 3, có nói bảy Chân như: 1- Lưu chuyển Chân như (lý pháp duyên khởi). 2- Thực tướng Chân như (thực tính của các pháp). 3- Liễu biệt Chân như (lý pháp vạn pháp duy thức). Từ 4- đến 7- phối hợp với bốn đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo theo thứ tự là: An lập Chân như, Tà hành Chân như, Thanh tịnh Chân như và Chính hành Chân như. Trong bảy Chân như kể trên, ngoài Thực tướng Chân như ra, sáu thứ còn lại cũng gọi là sáu Chân như, vì tự thể của các lý pháp vĩnh viễn bất biến, cho nên gọi là Chân như, đó là do các tướng trạng được hiển hiện bởi Chân như thực tướng mà đặt tên là Chân như. Thuyết của tông Pháp tướng, cứ theo luận Thành duy thức, quyển 9 chép, thì Chân như là pháp xa lìa sự phân biệt hư dối, là tính Nhân vô ngã, Pháp vô ngã, tương đương với tính Viên thành thực trong ba tính. Tông này chủ truơng hết thảy hiện tượng đều từ thức A lại da sinh ra, cho nên bản thân Chân như là cái thể vắng lặng tuyệt đối, siêu việt hết thảy hiện tượng, tự thể của nó không trở thành hiện tượng, cho nên nói Chân như vắng lặng, không tạo các pháp. Cứ theo luận Thành duy thức quyển 10 chép, thì Bồ Tát phải đến Sơ địa mới ngộ lý Chân như. Theo thứ tự sâu, cạn của nội dung giác ngộ mà lập mười Chân như khác nhau: 1- Biến hành Chân như, tức lý nhân không, pháp không tràn khắp muôn vật. 2- Tối thắng Chân như, Chân như do thân hoàn toàn trụ trì giới Cụ túc mà ngộ được, vì nó có vô lượng công đức, nên gọi Tối thắng. 3- Thắng lưu Chân như, giáo pháp từ Chân như lưu xuất, có phần hơn các giáo khác, mà căn bản của giáo ấy tức là Chân như. 4- Vô nhiếp thụ Chân như, ý là không trở thành đối tượng của sự chấp trước. 5- Loại vô biệt Chân như, nghĩa là sinh tử và Niết bàn chẳng phải hai, mê ngộ nhất như. 6- Vô nhiễm tịnh Chân như, Chân như siêu việt nhơ và sạch. 7- Pháp vô biệt Chân như, nghĩa là Chân như đã lìa tướng sai biệt, cho nên bất luận bàn về pháp nào thì thể của nó vẫn là một. 8- Bất tăng giảm Chân như, nghĩa là đoạn diệt các phiền não ô nhiễm nó chẳng giảm, mà tu các pháp thanh tịnh nó cũng chẳng vì thế mà tăng, tức lìa sự chấp trước tăng giảm. Một khi ngộ được Chân như này, có thể biến hiện các loại hình trạng và quốc độ một cách tự tại, cho nên cũng gọi là Tướng độ tự tại sở y Chân như. 9- Trí tự tại sở y Chân như, ý là được tự tại đối với bốn trí vô ngại. 10-. Nghiệp tự tại đẳng sở y Chân như, tất cả tác dụng của thân khẩu ý, như thần thông, tổng trì, thiền định v.v... đều được tự tại. Lấy mười Chân như trên đây làm thuận tự, từ Sơ địa đến Thập địa, tu hành mười Ba la mật, đoạn trừ mười trọng chướng mà đến Bồ đề. Ngoài ra, Chân như của nhân vô ngã (Nhân không Chân như) và Chân như của pháp vô ngã (Pháp không Chân như) gộp lại gọi là Nhị không Chân như - trong đó, Nhị thừa chỉ ngộ được Nhân không Chân như, Bồ Tát thì có thể ngộ Nhị không Chân như. Tông Địa luận chủ trương, tự thể của thức A lại da thứ tám (tông Nhiếp luận gọi là thức A ma la thứ chín) là tâm tự tính thanh tịnh, tâm tự tính thanh tịnh ấy tức là Chân như. Thức của nó, vì chịu sự huân tập của vô minh, cho nên mới hiển hiện ra các hiện tượng nhơ và sạch. Luận Đại thừa khởi tín chủ trương, Chân như là bản thể của tâm chúng sinh, vì nó dứt tuyệt nói năng, suy tưởng nên gọi là Ly ngôn Chân như - nhưng nếu phải miễn cưỡng dùng lời nói mà biểu hiện, thì gọi là Y ngôn Chân như, cả hai Chân như này gộp lại, gọi là Nhị Chân như. Đứng về phương diện Y ngôn Chân như mà nói thì thể của nó xa lìa tâm mê mà không, cho nên là Như thực không (Không Chân như) - vả lại, thể của nó đầy đủ công đức thanh tịnh vô lậu rất mực trong sạch, cho nên là chân thực bất không (Bất không Chân như). Đồng thời tâm chúng sinh (tức Chân như) có đủ cả Tâm Chân như môn tuyệt đối bất động, và duyên với vô minh mà khởi động sinh diệt, rồi hình thành Tâm sinh diệt môn của các hiện tượng nhơ và sạch, là Tùy duyên Chân như, gộp cả hai lại, cũng gọi là Nhị Chân như. Thông thường, đối với pháp sinh khởi vạn hữu, nếu thuyết minh theo Chân như bất biến hoặc tùy duyên, thì gọi là Chân như duyên khởi (Như Lai tạng duyên khởi). Còn hai Chân như sau đây đều là tiếng đồng loại: Thanh tịnh Chân như và Nhiễm tịnh Chân như, hoặc Phi an lập Chân như và An lập Chân như (An lập, hàm ý là khiến vạn hữu sinh khởi đều đúng vị trí). Tông Hoa nghiêm y theo thuyết Tính khởi, chủ trương Bản thể tức hiện tượng, hàm ý Chân như vốn là muôn pháp, muôn pháp vốn là Chân như. Đồng thời, chia Chân như thành Nhất thừa Chân như và Tam thừa Chân như - Nhất thừa Chân như lại chia làm Biệt giáo Chân như, Đồng giáo Chân như - Tam thừa Chân như lại chia làm Đốn giáo Chân như, Tiệm giáo Chân như, đều do lý giải Chân như một cách bất đồng mà có sự khác nhau như thế. Tông Thiên thai y theo thuyết Tính cụ, chủ trương bản thân Chân như xưa nay vốn có đủ các pháp sạch nhơ thiện ác. Lại tự tính (Chân như) của chư Phật, gọi là Vô cấu Chân như, hoặc Xuất triền Chân như - còn thể tính Chân như của chúng sinh, vì bị phiền não làm cho nhơ bẩn, cho nên gọi là Hữu cấu Chân như, hoặc Tại triền Chân như. Gộp cả hai lại, tức là Lưỡng cấu Chân như (hai Chân như cáu bẩn). Cứ theo luận Ma ha diễn, quyển 3 chép, thì Chân như là ngộ được lý của hai trí Thủy giác và Bản giác, cho nên lập hai nghĩa Tính Chân như và Lý hư không. Lý hư không thanh tịnh có mười nghĩa: Nghĩa vô ngại, nghĩa chu biến, nghĩa bình đẳng, nghĩa quảng đại, nghĩa vô tướng, nghĩa thanh tịnh, nghĩa bất động, nghĩa hữu không, nghĩa không không và nghĩa vô đắc.

Tư tưởng là phần trừu tượng, siêu hình rất khó din đạt, không dễ gì chỉ thẳng nên nói phải đi vòng vòng phải đi vòng quanh. Vả lại thể tính của vạn hữu dù có Phật hay không có Phật ra đời vẫn thế, nên kinh thường nói  “chỉ có Phật hiểu các pháp như thế là như thế và người hiểu như vậy thì được gọi là Như Lai”.

Xin tạm dừng thảo luận ở đây, phần thứ II và thứ III Tổng luận chúng tôi sẽ có dịp trở lại vấn đề Chân như và Chân như quan Bát Nhã.

 

21. TU HÀNH TẤT CẢ PHÁP MÔN ĐÀ LA NI HOẶC TU HÀNH TẤT CẢ PHÁP MÔN TAM MA ĐỊA:

 

1- Tu hành tất cả pháp môn Đà la ni(1):

Phẩm “Biện Đại Thừa”, quyển 52, Hội thứ I và phẩm “Tam Ma Địa”, quyển 413, Hội thứ II, Đại Bát Nhã, Ngài Huyền Trang dịch:

“Những gì là môn Đà la ni? Nghĩa là tánh chữ bình đẳng, tánh ngôn ngữ bình đẳng, vào môn các chữ. Thế nào là tánh chữ bình đẳng, tánh ngôn ngữ bình đẳng, vào môn các chữ?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào khi tu hành Bát nhã Ba la mật- đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, vào môn chữ Ả, ngộ tất cả pháp vốn không sanh; vào môn chữ Lạc, ngộ tất cả pháp xa lìa trần cấu; vào môn chữ Bả, ngộ giáo lý thắng nghĩa của tất cả pháp; vào môn chữ Giả, ngộ tất cả pháp không có tử sanh; vào môn chữ Na, ngộ tất cả pháp, xa lìa danh tướng không có được mất; vào môn chữ Lã, ngộ tất cả pháp xuất thế gian, ưa thích duyên cành nhánh nên vĩnh viễn bị hại; vào môn chữ Đà, ngộ tất cả pháp, điều phục tịch tịnh, chơn như bình đẳng không phân biệt; vào môn chữ Bà, ngộ tất cả pháp, xa lìa ràng buộc giải thoát; vào môn chữ Trà, ngộ tất cả pháp, xa lìa nóng nảy, giả dối, ô uế được thanh tịnh; vào môn chữ Sa, ngộ tất cả pháp, không chướng ngại; vào môn chữ Phược, ngộ tất cả pháp, bặt dứt ngôn ngữ; vào môn chữ Đả, ngộ tất cả pháp, chơn như bất động; vào môn chữ Dã, ngộ tất cả pháp, như thật không sanh; vào môn chữ Sắc tra, ngộ tất cả pháp, chế phục giữ gìn tướng bất khả đắc; vào môn chữ Ca, ngộ tất cả pháp, người làm bất khả đắc; vào môn chữ Bà, ngộ tất cả pháp, thời tánh bình đẳng bất khả đắc; vào môn chữ Ma, ngộ tất cả pháp, tánh chấp ngã sở bất khả đắc; vào môn chữ Già, ngộ tất cả pháp, tánh chấp hành động bất khả đắc; vào môn chữ Tha, ngộ tất cả pháp, tánh chỗ nương tựa bất khả đắc; vào môn chữ Xà (Đồ), ngộ tất cả pháp, năng sở sanh khởi bất khả đắc; vào môn chữ Thấp phược, ngộ tất cả pháp, tánh an ổn bất khả đắc; vào môn chữ Đạt, ngộ tất cả pháp, tánh hay chấp các cõi bất khả đắc; vào môn chữ Xả, ngộ tất cả pháp, tánh tịch tịnh bất khả đắc; vào môn chữ Khư, ngộ tất cả pháp, tánh như hư không bất khả đắc; vào môn chữ Sằn, ngộ tất cả pháp, tánh cùng tận bất khả đắc; vào môn chữ Đả, ngộ tất cả pháp, nhậm trì xứ phi xứ làm cho tánh không động chuyển bất khả đắc; vào môn chữ Nhã, ngộ tất cả pháp chỗ tánh biết rõ bất khả đắc; vào môn chữ Thứ tha, ngộ tất cả pháp, tánh nghĩa chấp trước nghĩa bất khả đắc; vào môn chữ A, ngộ tất cả pháp, tánh hay làm nhân bất khả đắc; vào môn chữ Bạt, ngộ tất cả pháp, tánh có thể phá hoại bất khả đắc; vào môn chữ Phược, ngộ tất cả pháp, tánh ưa muốn che đậy bất khả đắc; vào môn chữ Tạp ma địa, ngộ tất cả pháp, tánh có thể nhớ nghĩ bất khả đắc; vào môn chữ Hạp-phược, ngộ tất cả pháp, tánh có thể gọi tên bất khả đắc; vào môn chữ Tha, ngộ tất cả pháp, tánh mạnh mẽ bất khả đắc; vào môn chữ Sải, ngộ tất cả pháp, tánh rất bình đẳng bất khả đắc; vào môn chữ Noa, ngộ tất cả pháp, tánh chứa nhóm bất khả đắc; vào môn chữ Nã, ngộ tất cả pháp, xa lìa tranh cãi, huyên náo không đến không lại, đi, đứng, ngồi, nằm bất khả đắc; vào môn chữ Phả, ngộ tất cả pháp, quả báo đầy khắp bất khả đắc; vào môn chữ Tắc ca, ngộ tất cả pháp, tánh tích tụ chứa nhóm bất khả đắc; vào môn chữ Dật sa, ngộ tất cả pháp, tánh tướng già suy bất khả đắc; vào môn chữ Chước, ngộ tất cả pháp, chứa nhóm dấu vết bất khả đắc; vào môn chữ Tra, ngộ tất cả pháp, tánh xô đuổi nhau bất khả đắc; vào môn chữ Trạch, ngộ tất cả pháp, xứ sở rốt ráo bất khả đắc”.

 

2- Tu hành tất cả pháp môn Tam ma địa(2):

Phẩm “Bát Nhã Hành Tướng” quyển 40, Hội thứ I; phẩm “Biện Đại Thừa” quyển 51, Hội thứ I và phẩm “Tam Ma Địa” quyển 413, Hội thứ II, ĐBN Ngài Huyền Trang dịch:

“Tam ma địa Kiện hành, Tam ma địa Bảo ấn, Tam ma địa Sư tử du hý, Tam ma địa Diệu nguyệt, Tam ma địa Nguyệt tràng tướng, Tam ma địa Nhất thiết pháp dũng, Tam ma địa Quán đảnh, Tam ma địa Pháp giới quyết định, Tam ma địa Quyết định tràng tướng, Tam ma địa Kim cương dụ, Tam ma địa Nhập pháp ấn, Tam ma địa Phóng quang vô vong thất, Tam ma địa Thiện lập định vương, Tam ma địa Phóng quang, Tam ma địa Tinh tấn lực, Tam ma địa Đẳng dũng, Tam ma địa Nhập nhất thiết ngôn từ quyết định, Tam ma địa Đẳng nhập tăng ngữ, Tam ma địa Quán phương, Tam ma địa Tổng trì ấn, Tam ma địa Vô vong thất, Tam ma địa Chư pháp đẳng thú hải ấn, Tam ma địa Biến phú hư không, Tam ma địa Kim cương luân, Tam ma địa Ly trần, Tam ma địa Biến chiếu, Tam ma địa Bất thuấn, Tam ma địa Vô tướng trụ, Tam ma địa Bất tư duy, Tam ma địa Vô cấu đăng, Tam ma địa Vô biên quang, Tam ma địa Phát quang, Tam ma địa Phổ chiếu, Tam ma địa Tịnh kiên định, Tam ma địa Vô cấu quang, Tam ma địa Phát diệu lạc, Tam ma địa Điển đăng, Tam ma địa Vô tận, Tam ma địa Cụ oai quang, Tam ma địa Ly tận, Tam ma địa Vô động, Tam ma địa Vô hà khích, Tam ma địa Nhật đăng, Tam ma địa Tịnh nguyệt, Tam ma địa Tịnh quang, Tam ma địa Phát minh, Tam ma địa Tác sở ưng tác, Tam ma địa Trí tràng tướng, Tam ma địa Kim cương man, Tam ma địa Trụ tâm, Tam ma địa Phổ minh, Tam ma địa Thiện trụ, Tam ma địa Bảo tích, Tam ma địa Diệu pháp ấn, Tam ma địa Nhất thiết pháp bình đẳng tánh, Tam ma địa Xả ái lạc, Tam ma địa Nhập pháp đảnh, Tam ma địa Phiêu tán, Tam ma địa Phân biệt pháp cú, Tam ma địa Bình đẳng tự tướng, Tam ma địa Ly văn tự tướng, Tam ma địa Đoạn sở duyên, Tam ma địa Vô biến dị, Tam ma địa Vô phẩm loại, Tam ma địa Vô tướng hành, Tam ma địa Ly ế ám, Tam ma địa Cụ hành, Tam ma địa Bất biến động, Tam ma địa Độ cảnh giới, Tam ma địa Tập nhất thiết công đức, Tam ma địa Quyết định trụ, Tam ma địa Vô tâm trụ, Tam ma địa Tịnh diệu hoa, Tam ma địa Cụ giác chi, Tam ma địa Vô biên đăng, Tam ma địa Vô biên biện, Tam ma địa Vô đẳng đẳng, Tam ma địa Siêu nhất thiết pháp, Tam ma địa Quyết phán chư pháp, Tam ma địa Tán nghi võng, Tam ma địa Vô sở trụ, Tam ma địa Nhất tướng trang nghiêm, Tam ma địa Dẫn phát hành tướng, Tam ma địa Nhất hành tướng, Tam ma địa Ly hành tướng, Tam ma địa Diệu hành tướng, Tam ma địa Đạt chư hữu để tán hoại, Tam ma địa Nhập thi thiết ngữ ngôn, Tam ma địa Giải thoát âm thanh văn tự, Tam ma địa Cự xí nhiên, Tam ma địa Nghiêm tịnh tướng, Tam ma địa Vô tiêu xí, Tam ma địa Cụ nhất thiết diệu tướng, Tam ma địa Bất hý nhất thiết khổ lạc, Tam ma địa Vô tận hành tướng, Tam ma địa Cụ Đà la ni, Tam ma địa Nhiếp phục nhất thiết chánh tánh tà tánh, Tam ma địa Tịnh tức nhất thiết vi thuận, Tam ma địa Ly tắng ái, Tam ma địa Vô cấu minh, Tam ma địa Cụ kiên cố, Tam ma địa Mãn nguyệt tịnh quang, Tam ma địa Đại trang nghiêm, Tam ma địa Chiếu nhất thiết thế gian, Tam ma địa Định bình đẳng tánh, Tam ma địa Hữu tránh vô tránh bình đẳng lý thú, Tam ma địa Vô sào huyệt vô tiêu xí vô ái lạc, Tam ma địa Quyết định an trụ chơn như, Tam ma địa Ly thân uế ác, Tam ma địa Ly ngữ uế ác, Tam ma địa Ly ý uế ác, Tam ma địa Như hư không, Tam ma địa Vô nhiễm trước như hư không. Các Tam ma địa như vậy có vô lượng trăm ngàn”.

Đại Bát Nhã có giải thích cặn kẽ các Đà la ni và Tam ma địa nêu trên. Chỉ những bậc có công phu tu tập sâu dầy về các Thiền định, các Đà la ni, Tam ma địa… mới có thể phân biệt, giảng nói về các pháp môn nầy. Chúng tôi chỉ biết ghi lại theo sách vở! Tuy nhiên, sách vở về phương diện này cũng rất hiếm hoi!

Thích nghĩa:

(1). Đà la ni: (Phạm: Dhàranì): Cũng gọi Đà lân ni. Dịch là Tổng trì, Năng trì, Năng già. Tức là sức trí tuệ có thể tóm thu, gìn giữ vô lượng Phật pháp không để quên mất. Nói cách khác, Đà la ni là một thuật ghi nhớ. Luận Đại trí độ quyển 5 và Phật địa kinh luận quyển 5 cho rằng, Đà la ni là một phương pháp ghi nhớ, tức là trong một pháp nắm giữ tất cả pháp, trong một lời nắm giữ tất cả lời, trong một nghĩa nắm giữ tất cả nghĩa; do đó, từ sự ghi nhớ một pháp, một lời, một nghĩa ấy mà có thể liên tưởng đến hết thảy pháp, tóm thu nắm giữ vô lượng Phật pháp không để mất mát. Đà la ni còn có năng lực giữ gìn các pháp lành, ngăn ngừa các pháp ác. Vì Bồ Tát lấy việc lợi tha làm gốc, cần giáo hóa người khác nên phải chứng được Đà la ni, chứng được Đà la ni mới không quên mất vô lượng Phật pháp, nhờ thế, khi ở giữa chỗ đông người mà không sợ hãi, vẫn có thể nói pháp một cách tự do tự tại. Các luận của các tông phái đưa ra nhiều loại Đà la ni khác nhau như luận Đại trí độ quyển 5, quyển 28, thì Đà la ni có bốn loại: 1- Văn trì đà la ni: Người được Đà la ni đã nghe các pháp thì không quên nữa. 2- Phân biệt tri đà la ni: Có năng lực phân biệt tất cả việc tà, chính, tốt, xấu. 3- Nhập âm thanh đà la ni: Nghe tất cả âm thanh ngôn ngữ đều vui vẻ, không tức giận. 4- Tự nhập môn đà la ni: Nghe 42 chữ cái như a, la, ba, giá, na v.v... có thể thấu suốt thực tướng các pháp, bởi vì 42 chữ cái Tất đàm tóm thu tất cả ngôn ngữ; Luận Du già sư địa quyển 45 nêu ra bốn loại Đà la ni: 1- Pháp đà la ni: Có khả năng ghi nhớ các câu kinh không quên. 2- Nghĩa đà la ni: Có thể hiểu nghĩa kinh không quên. 3- Chú đà la ni: Nương vào sức thiền định mà phát khởi chú thuật để tiêu trừ tai ách cho chúng sinh. 4- Nhẫn đà la ni: Thông suốt thực tướng các pháp vốn lìa nói năng, an trụ nơi pháp tính không quên mất. Có rất nhiều Đà la ni, tuy nhiên đừng lẫn lộn Đà la ni với chú. (Tóm lược Từ điển Phật Quang).

(2). Tam ma địa: (Phạm,Pàli: Samàdhi): Cũng gọi Tam muội, Tam ma đề, Tam ma đế. Hán dịch: Đẳng trì, Định, Chính định, Định ý, Điều trực định, Chính tâm hành xứ. Chỉ cho trạng thái thiền định, an trú tâm ở 1 chỗ, 1 cảnh. Trong kinh Phật, từ Samàdhi được dịch là Đẳng trì thời, đẳng là giữ cho tâm được bình đẳng an lành, không để cho lao xao, lay động; trì là chuyên tâm ở 1 cảnh, không tán loạn, gọi là Tâm nhất cảnh tính. Tông Câu xá coi Tam muội là 1 trong 10 Đại địa pháp, tông Duy thức thì cho là 1 trong 5 Biệt cảnh, cả 2 tông đều cho Tam muội thuộc 1 trong các tâm sở, nhưng Kinh Lượng bộ và tông Thành thực đều cho tâm sở không có tính riêng biệt. Nói chung, việc tu hành cốt yếu là chuyên tâm chú ý ở một chỗ, không để tán loạn mà phải giữ cho tâm an tĩnh, trạng thái này gọi là Tam muội. Khi đạt đến trạng thái Tam muội thì liền phát khởi trí tuệ mà khai ngộ chân lý, vì thế khi dùng Tam muội nầy tu hành mà đạt được cảnh giới Phật thì gọi là Tam muội phát đắc hoặc phát định. Các dịch giả cũ thường lầm 3 từ: Tam ma địa (Phạm: Samàdhi, Tam muội; Đẳng trì), Tam ma bát để (Phạm: Samàpatti, Đẳng chí, Chính thụ, Chính định, Hiện tiền) và Tam ma hi đa (Phạm: Samàhita, Đẳng dẫn, Thắng định) là giống nhau và đều dịch là Tam muội. Nhưng trên thực tế, Tam muội chỉ là Tam ma địa mà thôi. Hữu bộ cho rằng phàm là tác dụng tinh thần chung cho tất cả tâm (tức Đại địa pháp) thì đều có định, tán và 3 tính thiện, ác, vô ký, nhưng chỉ giới hạn ở tâm không tán loạn của tất cả định Hữu tâm (không có trong định Vô tâm) và có tác dụng tập trung trong 1 cảnh thì gọi là Tam ma địa. Ngược lại, Tam ma bát để và Tam ma hi đa thì thông cả Hữu tâm, Vô tâm, nhưng chỉ giới hạn ở định (bao gồm định Hữu tâm, định Vô tâm chứ không chung cho định, tán). (Viết theo phần đầu của Từ điển Phật Quang)

Vì Đà la ni và Tam ma địa quá thần bí với các uy lực cũng như diệu dụng của nó đối với những người sơ phát tâm kể cả tác giả của tập luận nầy. Nên xin miễn không dám đi sâu vào chi tiết!

 

22. TU HÀNH BỒ TÁT THẬP ĐỊA:

 

“Này Thiện Hiện! Cực hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm tuệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa”. Đó là Thập địa.

Phẩm “Biện Đại Thừa” quyển 52 và kế tiếp, ĐBN, Ngài Huyền Trang dịch, giải thích tường tận các bậc Bồ Tát thập địa như sau:

 

- “Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ ở bậc ban đầu là Cực hỷ, nên khéo léo tu sửa mười thứ nghiệp thù thắng. Những gì là mười? Một là lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu sửa nghiệp ý lạc thù thắng thanh tịnh, vì việc ý lạc thù thắng chẳng thể nắm bắt được; hai là lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu sửa nghiệp tâm bình đẳng đối với tất cả hữu tình, vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được; ba là lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu sửa nghiệp bố thí vì người cho, kẻ nhận và vật được cho chẳng thể nắm bắt được; bốn là lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu sửa nghiệp thân cận thiện hữu, vì thiện hữu, ác hữu không có hai tướng; năm là lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu sửa nghiệp cầu pháp, vì các pháp được cầu chẳng thể nắm bắt được; sáu là lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu sửa nghiệp thường ưa xuất gia, vì việc xả bỏ nhà cửa chẳng thể nắm bắt được; bảy là lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu sửa nghiệp mến thích thân Phật, vì các tướng tốt và vẻ đẹp kèm theo chẳng thể nắm bắt được; tám là lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu sửa nghiệp khai xiển giáo pháp, vì pháp được phân biệt chẳng thể nắm bắt được; chín là lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu sửa nghiệp phá trừ kiêu mạn, vì các pháp hưng thịnh chẳng thể nắm bắt được; mười là lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu sửa nghiệp ngôn ngữ chắc thật, thường hằng vì tánh của tất cả ngôn ngữ chẳng thể nắm bắt được.

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi an trú bậc ban đầu là Cực hỷ, nên khéo tu sửa mười nghiệp thù thắng như vậy.

 

- Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ bậc thứ hai là Ly cấu, nên đối với tám pháp, tư duy, tu tập, khiến mau viên mãn. Những gì là tám? Một là cấm giới thanh tịnh; hai là tri ân báo ân; ba là trụ sức an nhẫn; bốn là thọ hoan hỷ thù thắng; năm là không bỏ hữu tình; sáu là hằng khởi đại bi; bảy là đối với các Sư trưởng đem tâm kính tin để thăm hỏi, thừa sự, cúng dường, tưởng như phụng sự Phật; tám là khuyên cầu tu tập Ba la mật.

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ bậc thứ hai là Ly cấu, nên đối với tám pháp như vậy, tư duy, tu tập, khiến mau viên mãn.

 

- Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ bậc thứ ba là Phát quang, nên trụ năm pháp. Những gì là năm? Một là cần cầu đa văn, thường không nhàm chán và không cho là đủ, đối với pháp đã nghe chẳng chấp trước văn tự; hai là lấy tâm vô nhiễm, thường hành pháp thí, tuy mở rộng giáo hóa mà không tự cao; ba là vì nghiêm tịnh cõi nước mà trồng các căn lành, tuy là để hồi hướng mà chẳng tự đề cao; bốn là vì giáo hóa hữu tình, tuy chẳng mệt mỏi chán nản với việc sanh tử vô biên mà chẳng tự cao; năm là tuy trụ tàm quí mà không chấp trước.

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ bậc thứ ba là Phát quang, nên thường an trú năm pháp như vậy.

 

- Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ bậc thứ tư là Diệm tuệ, nên trụ mười pháp thường tu chẳng bỏ. Những gì là mười? Một là ở chỗ thanh vắng, thường chẳng xa lìa; hai là thiểu dục; ba là hỷ túc; bốn là thường chẳng lìa bỏ công đức đầu đà; năm là đối với các học xứ chưa từng xả bỏ; sáu là đối với dục lạc hết sức sanh nhàm chán, xa lìa; bảy là thường ưa phát khởi tâm vắng lặng; tám là bỏ các sở hữu; chín là tâm chẳng ngưng trệ chìm đắm; mười là đối với các sở hữu không có gì luyến tiếc đoái hoài.

- Thiện Hiện! Bồ Tát khi trụ bậc thứ tư là Diệm tuệ, nên an trú 10 pháp như vậy, thường hành chẳng bỏ.

 

- Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ bậc thứ năm là Cực nan thắng, phải xa lìa mười pháp. Những gì là mười? Một là phải xa lìa nhà ở; hai là phải xa lìa Bí sô ni; ba là phải xa lìa nhà keo kiệt; bốn là phải xa lìa chúng hội tranh cãi; năm là phải xa lìa sự khen mình chê người; sáu là phải xa lìa mười nghiệp đạo bất thiện; bảy là phải xa lìa sự tăng thượng kiêu mạn ngạo nghễ, tám là phải xa lìa điên đảo; chín là phải xa lìa do dự; mười là phải xa lìa tham, sân, si.

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ bậc thứ năm là Cực nan thắng, phải thường xa lìa mười pháp như vậy.

 

- Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ bậc thứ sáu là Hiện tiền, phải viên mãn sáu pháp. Những gì là sáu? Một là phải viên mãn bố thí Ba la mật; hai là phải viên mãn tịnh giới Ba la mật; ba là phải viên mãn an nhẫn Ba la mật; bốn là phải viên mãn tinh tấn Ba la mật; năm là phải viên mãn tịnh lự Ba la mật; sáu là phải viên mãn Bát nhã Ba la mật. Lại phải xa lìa sáu pháp. Những gì là sáu? Một là phải xa lìa tâm Thanh văn; hai là phải xa lìa tâm Độc giác; ba là phải xa lìa tâm nhiệt não; bốn là thấy kẻ hành khất đến tâm chẳng bực bội lo lắng; năm là bỏ vật sở hữu tâm không lo buồn hối tiếc; sáu là đối với kẻ đến cầu xin, hoàn toàn chẳng kiêu ngạo dối gạt.

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ bậc thứ sáu là Hiện tiền, phải viên mãn sáu pháp như vậy và phải xa lìa sáu pháp như vậy.

 

- Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ ở bậc thứ bảy là Viễn hành, phải xa lìa hai mươi pháp. Những gì là hai mươi? Một là phải xa lìa chấp ngã, chấp hữu tình cho đến chấp cái biết, chấp cái thấy; hai là phải xa lìa chấp đoạn; ba là phải xa lìa chấp thường; bốn là phải xa lìa chấp tướng; năm là phải xa lìa chấp nhơn kiến; sáu là phải xa lìa chấp danh sắc; bảy là phải xa lìa chấp uẩn; tám là phải xa lìa chấp xứ; chín là phải xa lìa chấp giới; mười là phải xa lìa chấp Thánh đế; mười một là phải xa lìa chấp duyên khởi; mười hai là phải xa lìa chấp trụ trước ba cõi; mười ba là phải xa lìa chấp tất cả pháp; mười bốn là phải xa lìa chấp như lý và chẳng như lý của tất cả pháp; mười lăm là phải xa lìa kiến chấp nương vào Phật; mười sáu là phải xa lìa kiến chấp nương vào Pháp; mười bảy là phải xa lìa kiến chấp nương vào Tăng; mười tám là phải xa lìa kiến chấp nương vào giới; mười chín là phải xa lìa sự sợ hãi pháp không; hai mươi là phải xa lìa sự trái chống tánh không.

 

- Lại phải viên mãn hai mươi pháp. Những gì là hai mươi? Một là phải viên mãn sự thông đạt cái không; hai là phải chứng đắc sự viên mãn vô tướng; ba là phải viên mãn sự hiểu biết vô nguyện; bốn là phải viên mãn ba luân thanh tịnh; năm là phải viên mãn tâm bi mẫn hữu tình và đối với hữu tình không có sự chấp trước; sáu là phải viên mãn cái thấy bình đẳng về tất cả các pháp và ở trong đó không có sự chấp trước; bảy là phải viên mãn cái thấy bình đẳng về tất cả hữu tình và ở trong đó không có sự chấp trước; tám là phải viên mãn sự thông đạt lý thú chơn thật và ở trong đó không có sự chấp trước; chín là phải viên mãn cái trí Vô sanh nhẫn; mười là phải viên mãn cái thuyết tất cả pháp đều qui lý nhất tướng mười một là phải viên mãn sự diệt trừ phân biệt; mười hai là phải viên mãn sự xa lìa các tưởng; mười ba là phải viên mãn sự xa lìa các kiến chấp; mười bốn là phải viên mãn sự xa lìa phiền não; mười lăm là phải viên mãn Sa ma tha, Tỳ bát xá na (chỉ quán); mười sáu là phải viên mãn sự điều phục tâm tánh; mười bảy là phải viên mãn sự tịch tịnh tâm tánh; mười tám là phải viên mãn tánh vô ngại trí; mười chín là phải viên mãn sự không ái nhiễm; hai mươi là phải viên mãn sự tùy theo ý muốn đến các cõi Phật, tự hiện thân trong chúng hội của Phật.

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ bậc thứ bảy là Viễn hành, phải xa lìa hai mươi pháp như vậy và phải viên mãn hai mươi pháp như vậy.

 

- Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ ở bậc thứ tám là Bất động, phải viên mãn bốn pháp. Những gì là bốn? Một là phải viên mãn sự ngộ nhập tâm hạnh của tất cả hữu tình; hai là phải viên mãn các thần thông du hý; ba là phải viên mãn cái thấy các cõi Phật, và như cái thấy ấy mà tự trang nghiêm các cõi Phật; bốn là phải viên mãn sự cúng dường, thừa sự chư Phật Thế Tôn, đối với thân Như Lai, quán sát như thật.

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ ở bậc thứ tám là Bất động, phải viên mãn bốn pháp như vậy.

 

- Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ ở bậc thứ chín là Thiện tuệ, phải viên mãn bốn pháp. Những gì là bốn? Một là phải viên mãn về cái trí căn cơ thắng, liệt của các hữu tình; hai là phải viên mãn sự nghiêm tịnh cõi Phật; ba là phải viên mãn đẳng trì như huyễn, thường nhập vào các định; bốn là phải viên mãn sự tùy theo thiện căn thuần thục của các hữu tình mà nhập vào các cõi, tự hiện hóa sanh.

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ ở bậc thứ chín là Thiện tuệ, phải viên mãn bốn pháp như vậy.

 

- Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ ở bậc thứ mười là Pháp vân, phải viên mãn mười hai pháp. Những gì là mười hai? Một là phải viên mãn đại nguyện nhiếp thọ vô biên xứ sở, tùy theo sở nguyện đều được viên mãn; hai là phải viên mãn cái trí biết âm thanh của các loài khác nhau như là chư thiên, long, dược xoa, Kiền đạt phược, A tu la, Yết lộ trà, Khẩn nại lạc, Mạc hô lạc già, nhơn, phi nhơn v.v...; ba là phải viên mãn trí biện thuyết vô ngại; bốn là phải viên mãn sự nhập thai hoàn hảo; năm là phải viên mãn sự đản sanh hoàn hảo; sáu là phải viên mãn gia tộc hoàn hảo; bảy là phải viên mãn chủng tánh hoàn hảo; tám là phải viên mãn quyến thuộc hoàn hảo, chín là phải viên mãn sanh thân hoàn hảo; mười là phải viên mãn xuất gia hoàn hảo; mười một là phải viên mãn trang nghiêm cây Bồ đề hoàn hảo; mười hai là là phải viên mãn sự hoàn thành tất cả công đức hoàn hảo.

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ ở bậc thứ mười là Pháp vân, phải viên mãn mười hai pháp như vậy.

- Thiện Hiện! Nên biết đã viên mãn bậc thứ mười là Pháp vân, đại Bồ Tát cùng các Như Lai phát ra lời nói không khác”.

 

Để nắm vững vấn đề chúng ta có thể tóm tắt Bồ Tát thập địa như sau(1):

1- Hoan hỷ địa: Đạt địa vị này, Bồ Tát hoan hỷ trên đường tu học, phát tâm cứu độ tất cả chúng sanh thoát khỏi luân hồi, không còn nghĩ đến bản thân mình nữa. Bồ Tát vì thế thực hiện hạnh bố thí không cầu phước đức, chứng được thực tính vô ngã của tất cả các pháp.

2- Ly cấu địa: Đạt địa vị này, Bồ Tát nghiêm trì giới luật và thực hành thiền định, lìa xa cấu nhiễm.

3- Phát quang địa: Đạt địa vị này, Bồ Tát chứng được luật vô thường, tu trì tâm mình, thực hành nhẫn nhục khi gặp chướng ngại trên đường hóa độ chúng sanh. Ở địa vị này, Bồ Tát trừ được ba độc là tham, sân, si và được bốn cấp định an chỉ của bốn xứ, chứng đạt năm phần trong lục thông.

4- Diệm huệ địa: Đạt địa vị này, Bồ Tát trừ dứt mọi quan niệm sai lầm, tu tập trí tuệ và 37 pháp Bồ đề phần, cũng gọi là 37 phẩm trợ đạo.

5- Cực nan thắng địa: Đạt địa vị này, Bồ Tát nhập định, đạt được trí tuệ, từ đó liễu ngộ được Tứ diệu đế và Chân như, diệt hết các mối nghi ngờ và phân biệt, lại tiếp tục hành trì 37 giác chi.

6- Hiện tiền địa: Đạt địa vị này, Bồ Tát liễu ngộ tất cả pháp là vô ngã, chứng được lý Mười hai nhân duyên và chuyển hóa trí phân biệt thành trí Bát Nhã, nhận thức được tánh Không. Bồ Tát ở địa vị này đã đạt trí tuệ Bồ đề, nhờ đó có thể nhập Niết bàn thường trụ, vì lòng từ bi thương xót chúng sanh mà trụ lại thế gian, nhưng không bị sanh tử ràng buộc. Cảnh giới này gọi là Niết bàn vô trụ.

7- Viễn hành địa: Đạt địa vị này, Bồ Tát có đầy đủ mọi khả năng, phương tiện để giáo hóa chúng sanh. Ở địa vị này, Bồ Tát có thể tùy nguyện lực hóa thân ở bất kỳ hình tướng nào.

8- Bất động địa: Đạt địa vị này, Bồ Tát không còn bị dao động bởi bất kỳ một cảnh ngộ nào, và biết chắc khi nào mình sẽ đạt quả vị Phật.

9- Thiện huệ địa: Đạt địa vị này, Bồ Tát đạt trí tuệ viên mãn, có đủ Thập lực, Lục thông, Bốn tự tín và Tám giải thoát, thông đạt mọi giáo pháp và giảng dạy cho chúng sanh.

10- Pháp vân địa: Đạt địa vị này, Bồ Tát chứng đạt Nhất thiết trí, đại hạnh. Ở địa vị này, Bồ Tát có Pháp thân viên mãn, ngự trên tòa sen với vô số Bồ Tát chung quanh trên cung trời Đâu suất. Quả vị Phật lúc này đã được chư Phật ấn chứng. Kinh điển có nói đến các vị Bồ Tát đã đạt đến địa vị này là Bồ Tát Di Lặc, Bồ Tát Quán Thế Âm và Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi.

Thích nghĩa:

(1). Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến chú giải kinh Đại bát Niết Bàn đã tóm lược và nêu lên ý nghĩa của Bồ Tát Thập địa như trên.

 

23. TU HÀNH 5 LOẠI MẮT HOẶC KHUYÊN TU HÀNH 6 PHÁP THẦN THÔNG:

 

1- Tu hành năm loại mắt:

Những gì là năm loại mắt? 1/. Mắt thịt (nhục nhãn), 2/. Mắt trời (thiên nhãn), 3/. Mắt tuệ của Thánh (huệ nhãn), 4/. Mắt pháp (pháp nhãn), 5/. Mắt Phật (Phật nhãn).

Phẩm “Chuyển Sanh” quyển 08, Hội thứ I, ĐBN nói về ngũ nhãn thanh tịnh như sau:

 

“Xá Lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát đắc nhục nhãn thanh tịnh?

Phật bảo cụ thọ Xá Lợi Tử: Xá Lợi Tử! Có đại Bồ Tát đắc nhục nhãn thanh tịnh, có thể thấy suốt một trăm do tuần(1); có đại Bồ Tát đắc nhục nhãn thanh tịnh, có thể thấy suốt hai trăm do tuần; có đại Bồ Tát đắc nhục nhãn thanh tịnh, có thể thấy suốt ba trăm do tuần; có đại Bồ Tát đắc nhục nhãn thanh tịnh, có thể thấy suốt bốn trăm, năm trăm, sáu trăm cho đến ngàn do tuần; có đại Bồ Tát đắc nhục nhãn thanh tịnh, có thể thấy suốt một châu Thiệm bộ(2); có đại Bồ Tát đắc nhục nhãn thanh tịnh, có thể thấy suốt hai cõi Đại châu; có đại Bồ Tát đắc nhục nhãn thanh tịnh, có thể thấy suốt ba cõi Đại châu; có đại Bồ Tát đắc nhục nhãn thanh tịnh, có thể thấy suốt bốn cõi Đại châu; có đại Bồ Tát đắc nhục nhãn thanh tịnh, có thể thấy suốt Tiểu thiên thế giới(3); có đại Bồ Tát đắc nhục nhãn thanh tịnh, có thể thấy suốt Trung thiên thế giới; có đại Bồ-tát đắc nhục nhãn thanh tịnh, có thể thấy suốt Đại thiên thế giới.

Xá Lợi Tử! Như vậy là đại Bồ Tát đắc nhục nhãn thanh tịnh.

 

Lúc bấy giờ, Xá Lợi Tử lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát đắc thiên nhãn thanh tịnh?

Phật bảo cụ thọ Xá Lợi Tử: Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát đắc thiên nhãn thanh tịnh, có thể thấy cũng như thật biết tất cả chúng trời trong cõi Tứ đại thiên vương, trời Ba mươi ba, trời Dạ ma, trời Đỗ sử đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại(4). Trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm(5).

Các đại Bồ Tát đắc thiên nhãn thanh tịnh có thể thấy cũng như thật biết tất cả trời Quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh(6).

Các đại Bồ Tát đắc thiên nhãn thanh tịnh, có thể thấy cũng như thật biết tất cả trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh(7).

Các đại Bồ Tát đắc thiên nhãn thanh tịnh, có thể thấy cũng như thật biết tất cả trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả(8).

Các đại Bồ Tát đắc thiên nhãn thanh tịnh, có thể thấy cũng như thật biết tất cả trời Vô tưởng hữu tình.

Các đại Bồ Tát đắc thiên nhãn thanh tịnh, có thể thấy cũng như thật biết tất cả trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh(9).

Xá Lợi Tử! Có cái mà đại Bồ Tát chứng thiên nhãn đã thấy, nhưng tất cả chúng trời Tứ đại thiên vương, cho đến trời Sắc cứu cánh, dù đã đắc thiên nhãn, vẫn chẳng thể thấy được, cũng chẳng biết được.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát đắc thiên nhãn thanh tịnh, có thể thấy, cũng như thật biết, các loại hữu tình chết nơi này, sinh nơi kia, trong vô số thế giới ở mười phương.

Xá Lợi Tử! Như vậy là đại Bồ Tát đắc thiên nhãn thanh tịnh.

 

Lúc bấy giờ, Xá Lợi Tử lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát đắc tuệ nhãn thanh tịnh?

Phật bảo cụ thọ Xá Lợi Tử: Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát đắc tuệ nhãn thanh tịnh, chẳng thấy có pháp hữu vi, hoặc vô vi; chẳng thấy có pháp hữu lậu, hoặc vô lậu; chẳng thấy có pháp thế gian, hoặc xuất thế gian; chẳng thấy có pháp hữu tội, hoặc vô tội; chẳng thấy có pháp tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; chẳng thấy có pháp hữu sắc, hoặc vô sắc; chẳng thấy có pháp hữu đối, hoặc vô đối; chẳng thấy có pháp quá khứ, vị lai, hoặc hiện tại; chẳng thấy có pháp trói buộc trong cõi Dục, trói buộc trong cõi Sắc, hoặc trói buộc trong cõi Vô sắc; chẳng thấy có pháp thiện, chẳng thiện, hoặc vô ký; chẳng thấy có pháp kiến sở đoạn, tu sở đoạn, hoặc phi sở đoạn; chẳng thấy có pháp học, vô học, hoặc phi học phi vô học, cho đến tất cả pháp tự tánh, hoặc sai biệt, đều chẳng thấy.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này đắc tuệ nhãn thanh tịnh, đối với tất cả pháp, chẳng phải thấy, chẳng phải chẳng thấy, chẳng phải nghe, chẳng phải chẳng nghe; chẳng phải biết, chẳng phải chẳng biết; chẳng phải hiểu rõ, chẳng phải chẳng hiểu rõ.

Xá Lợi Tử! Như vậy là đại Bồ Tát đắc tuệ nhãn thanh tịnh.

 

Lúc bấy giờ, Xá Lợi Tử lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát đắc pháp nhãn thanh tịnh?

Phật bảo cụ thọ Xá Lợi Tử: Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát đắc pháp nhãn thanh tịnh, có thể biết như thật về các loại Bổ đặc già la(10) sai khác, gọi là biết như thật. Đây là tùy tín hành, đây là tùy pháp hành, đây là vô tướng hành, đây là trụ không, đây là trụ vô tướng, đây là trụ vô nguyện. Lại biết như thật, đây là do pháp môn giải thoát không khởi năm căn, do năm căn khởi định vô gián, do định vô gián khởi giải thoát tri kiến, do giải thoát tri kiến vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết, đắc quả Dự lưu. Thân kiến, giới cấm thủ, nghi, gọi là ba kiết. Lại do mới đắc tu đạo, làm mỏng tham sân cõi Dục, đắc quả Nhất-lai; lại do thượng phẩm tu đạo, diệt hết tham sân cõi Dục, đắc quả Bất hoàn; lại do tăng thượng tu đạo, diệt hết năm kiết thuận thượng phần, đắc quả A la hán. Tham của cõi sắc, tham của cõi vô sắc, vô minh, mạn, trạo cử, đó là năm kiết thuận thượng phần.

Lại biết như thật: Đây là do pháp môn giải thoát vô tướng khởi năm căn; do năm căn khởi định vô gián, do định vô gián khởi giải thoát tri kiến; do giải thoát tri kiến vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết, đắc quả Dự lưu; lại do mới đắc tu đạo, làm mỏng tham sân cõi Dục, đắc quả Nhất lai; lại do thượng phẩm tu đạo, diệt hết tham sân cõi Dục, đắc quả Bất hoàn; lại do tăng thượng tu đạo, diệt hết năm kiết thuận thượng phần, đắc quả A la hán.

Lại biết như thật: Đây là do pháp môn giải thoát vô nguyện khởi năm căn; do năm căn khởi định vô gián; do định vô gián khởi giải thoát tri kiến; do giải thoát tri kiến vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết, đắc quả Dự lưu; lại do mới đắc tu đạo, làm mỏng tham sân cõi Dục, đắc quả Nhất lai; lại do thượng phẩm tu đạo, diệt hết tham sân cõi Dục, đắc quả Bất hoàn; lại do tăng thượng tu đạo, diệt hết năm kiết thuận thượng phần, đắc quả A la hán.

Lại biết như thật: Đây là do pháp môn giải thoát không, vô tướng khởi năm căn; do năm căn khởi định vô gián; do định vô gián khởi giải thoát tri kiến; do giải thoát tri kiến vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết, đắc quả Dự lưu; lại do mới đắc tu đạo, làm mỏng tham sân cõi Dục, đắc quả Nhất lai; lại do thượng phẩm tu đạo, diệt hết tham sân cõi Dục, đắc quả Bất hoàn; lại do tăng thượng tu đạo, diệt hết năm kiết thuận thượng phần, đắc quả A la hán.

Lại biết như thật: Đây là do pháp môn giải thoát không, vô nguyện khởi năm căn; do năm căn khởi định vô gián; do định vô gián khởi giải thoát tri kiến; do giải thoát tri kiến vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết, đắc quả Dự lưu; lại do mới đắc tu đạo, làm mỏng tham sân cõi Dục, đắc quả Nhất lai; lại do thượng phẩm tu đạo, diệt hết tham sân cõi Dục, đắc quả Bất hoàn; lại do tăng thượng tu đạo, diệt hết năm kiết thuận thượng phần, đắc quả A la hán.

Lại biết như thật: Đây là do pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện khởi năm căn; do năm căn khởi định vô gián; do định vô gián khởi giải thoát tri kiến; do giải thoát tri kiến vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết, đắc quả Dự lưu; lại do mới đắc tu đạo, làm mỏng tham sân cõi Dục, đắc quả Nhất lai; lại do thượng phẩm tu đạo, diệt hết tham sân cõi Dục, đắc quả Bất-hoàn; lại do tăng thượng tu đạo, diệt hết năm kiết thuận thượng phần, đắc quả A la hán.

Lại biết như thật: Đây là do pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện khởi năm căn; do năm căn khởi định vô gián; do định vô gián khởi giải thoát tri kiến; do giải thoát tri kiến vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết, đắc quả Dự lưu; lại do mới đắc tu đạo, làm mỏng tham sân cõi Dục, đắc quả Nhất lai; lại do thượng phẩm tu đạo, diệt hết tham sân cõi Dục, đắc quả Bất hoàn; lại do tăng thượng tu đạo, diệt hết năm kiết thuận thượng phần, đắc quả A la hán.

Xá Lợi Tử! Như vậy là đại Bồ Tát đắc pháp nhãn thanh tịnh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát đắc pháp nhãn thanh tịnh, có thể biết như thật: Đây là một loại Bổ đặc già la; do pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện khởi năm căn; do năm căn khởi định vô gián; do định vô gián khởi giải thoát tri kiến; do giải thoát tri kiến, có thể biết như thật: Các pháp do sự tập hợp mà có, đều là pháp hoại diệt. Vì do biết như vậy, đắc năm căn thù thắng, đoạn trừ các phiền não, lần lượt chứng đắc quả vị Độc giác.

Xá Lợi Tử! Như vậy là đại Bồ Tát đắc pháp nhãn thanh tịnh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát đắc pháp nhãn thanh tịnh, có thể biết như thật: Đại Bồ Tát này, mới vừa phát tâm tu hành bố thí Ba la mật đa; tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật đa, thành tựu tín căn, tinh tấn căn và phương tiện thiện xảo, nên mới suy nghĩ việc thọ thân, để tăng trưởng thiện pháp. Vị đại Bồ Tát này, hoặc sanh vào dòng dõi lớn Sát đế lợi(11), hoặc sanh vào dòng dõi lớn Bà la môn, hoặc sanh vào dòng dõi lớn Trưởng giả, hoặc sanh vào dòng dõi lớn Cư sĩ; hoặc sanh vào các trời trong cõi Tứ đại thiên vương, hoặc sanh vào cõi trời Ba mươi ba, hoặc sanh vào cõi trời Dạ ma, hoặc sanh vào cõi trời Đỗ sử đa, hoặc sanh vào cõi trời Lạc biến hóa, hoặc sanh vào cõi trời Tha hóa tự tại; ở các nơi này, thành thục hữu tình, tùy theo tâm ưa thích của các hữu tình, có thể ban cho các loại đồ dùng hảo hạng theo ý thích, cũng có thể nghiêm tịnh các cõi Phật, cũng dùng các thứ đồ dùng hảo hạng cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn; không đọa xuống các bậc Thanh văn, Độc giác; cho đến quả vị Giác ngộ cao tột, trọn chẳng thối chuyển.

Xá Lợi Tử! Như vậy là đại Bồ Tát đắc pháp nhãn thanh tịnh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát đắc pháp nhãn thanh tịnh, có thể thấy biết như thật: Đại Bồ Tát này, đối với quả vị Giác ngộ tối cao, đã được thọ ký; đại Bồ Tát này, đối với quả vị Giác ngộ tối cao, đang được thọ ký; đại Bồ Tát này, đối với quả vị Giác ngộ tối cao, sẽ được thọ ký; đại Bồ Tát này, đối với quả vị Giác ngộ tối cao, được Bất thối chuyển(12); đại Bồ Tát này, đối với quả vị Giác ngộ tối cao, còn có thể bị thối chuyển; đại Bồ Tát này, đã trụ bậc Bất thối chuyển; đại Bồ Tát này, chưa trụ bậc Bất thối chuyển; đại Bồ Tát này, thần thông đã được viên mãn; đại Bồ Tát này, thần thông chưa được viên mãn; đại Bồ Tát này, vì thần thông đã được viên mãn, nên có thể đến vô số thế giới chư Phật ở mười phương, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng đại Bồ Tát; đại Bồ Tát này, vì thần thông chưa được viên mãn, nên chẳng có thể đến vô số thế giới chư Phật ở mười phương, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng đại Bồ Tát; đại Bồ Tát này, đã được thần thông; đại Bồ Tát này, chưa được thần thông; đại Bồ Tát này, đã được Vô sanh pháp nhẫn(13); đại Bồ Tát này, chưa được Vô sanh pháp nhẫn; đại Bồ Tát này, đã được căn thù thắng; đại Bồ Tát này, chưa được căn thù thắng; đại Bồ Tát này, đã nghiêm tịnh cõi Phật; đại Bồ Tát này, chưa nghiêm tịnh cõi Phật; đại Bồ Tát này, đã thành thục hữu tình; đại Bồ Tát này, chưa thành thục hữu tình; đại Bồ Tát này, đã được đại nguyện; đại Bồ Tát này, chưa được đại nguyện; đại Bồ Tát này, đã được chư Phật cùng khen ngợi; đại Bồ Tát này, chưa được chư Phật cùng khen ngợi; đại Bồ Tát này, đã thân cận chư Phật; đại Bồ Tát này, chưa thân cận chư Phật; đại Bồ Tát này, thọ mạng vô lượng; đại Bồ Tát này, thọ mạng hữu lượng; đại Bồ Tát này, khi chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, Bí sô tăng(14) vô lượng; đại Bồ Tát này, khi chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, Bí sô-tăng hữu lượng; đại Bồ Tát này, khi chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, có Bồ Tát Tăng; đại Bồ Tát này, khi chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, không có Bồ Tát Tăng; đại Bồ Tát này, chuyên tu hạnh lợi tha; đại Bồ-tát này, chuyên tu hạnh tự lợi; đại Bồ Tát này, có khó khăn trong việc tu hành khổ hạnh; đại Bồ Tát này, không khó khăn trong việc tu hành khổ hạnh; đại Bồ Tát này, một đời bị trói buộc; đại Bồ Tát này, nhiều đời bị trói buộc; đại Bồ Tát này, đã trụ thân sau cùng; đại Bồ Tát này, chưa trụ thân sau cùng; đại Bồ Tát này, đã ngồi tòa Bồ đề nhiệm mầu; đại Bồ Tát này, chưa ngồi tòa Bồ đề nhiệm mầu; đại Bồ Tát này, không có ma đến quấy nhiễu; đại Bồ Tát này, có ma đến quấy nhiễu.

Xá Lợi Tử! Như vậy là đại Bồ Tát đắc pháp nhãn thanh tịnh.

 

Lúc bấy giờ, Xá Lợi Tử lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát đắc Phật nhãn thanh tịnh?

Phật bảo cụ thọ Xá Lợi Tử: Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát, tâm Bồ đề không gián đoạn, vào định Kim cương dụ, đắc Nhất thiết tướng trí, thành tựu mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, vô lượng, vô biên công đức thù thắng, chẳng thể nghĩ bàn. Lúc ấy, thành tựu Phật nhãn giải thoát, không chướng, không ngại. Các đại Bồ Tát, do đắc Phật nhãn thanh tịnh như vậy, vượt qua cảnh giới trí tuệ của tất cả Thanh văn, Độc giác, không gì chẳng thấy, không gì chẳng nghe, không gì chẳng biết, không gì chẳng hiểu rõ; đối với tất cả pháp, thấy tất cả tướng.

Xá Lợi Tử! Như vậy là đại Bồ Tát đắc Phật nhãn thanh tịnh.

Xá Lợi Tử! Bồ Tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, thì phải đắc Phật nhãn thanh tịnh”.

Thích nghĩa:

(1). Do tuần: Đơn vị đo lường thời xưa của Ấn độ. Đọc theo tiếng Phạn là Do diên, Du thiện na, Du xà na (Yojana). Một Do tuần bằng 16 dặm bên Tàu, một dặm Tàu bằng 576 thước Tây. Vậy một Do tuần bằng 9.216 thước Tây.

(2). Bốn cõi thiên hạ (Tứ thiên hạ): Mỗi thế giới được chia theo bốn phương của núi Tu di, gọi là Bốn châu hay Bốn cõi thiên hạ, gồm có: 1/.Phương Bắc là Câu lô châu hay Uất đan việt châu; 2/. Phương Nam là Thiệm bộ châu hay Diêm phù đề châu; 3/. Phương Tây là Ngưu hóa châu hay Cồ da ni châu; 4/. Phương Đông là Thắng thần châu hay Phất bà đề châu. Thiệm bộ châu hay Diêm phù đề châu là nơi Phật Thích Ca giáng sinh.

(3). Tam thiên đại thiên thế giới: Cũng gọi Nhất đại tam thiên thế giới, Tam thiên thế giới hay thế giới ba nghìn lần. Xin xem lại thích nghĩa trong phần thứ I Tổng luân.

(4). đến (9). Nói về 25 cảnh giới hiện hữu của ba cõi: Dục, Sắc và Vô sắc, gồm: Cõi Dục có 14 cách hiện hữu, cõi Sắc có 7, cõi Vô Sắc có 4 trong thích nghĩa chung cho các pháp tu thế gian.

(10). Bổ đặc già la (Phạm: pudgala):

1- Theo Phật Quang từ điển: Bổ đặc già la có hai nghĩa:

1/. Bổ đặc già la. Cũng gọi Phú đặc già la, Phất già la, Phúc già la. Dịch là người, chúng sinh, sổ thủ thú, chúng số giả. Chỉ cho chủ thể của sự luân hồi tái sinh. Sổ thủ thú hàm ý là nhiều lần đi lại vòng quanh trong năm đường. Một trong 16 tri kiến của ngoại đạo. Tức là tên khác của ngã, hoặc chỉ riêng cho người. Phật giáo chủ trương thuyết Vô ngã nên không thừa nhận Bổ đặc già la chân thực (Bổ đặc già la thắng nghĩa) là chủ thể của sự sống chết, nhưng vì phương tiện giải nói nên tạm gọi người là Bổ đặc già la (Bổ đặc già la thế tục). Tuy nhiên, trong các bộ phái Phật giáo, thì Độc tử bộ, Chính lượng bộ và Kinh lượng bộ lại thừa nhận Bổ đặc già la là có thực. Lại có phái cho Bổ đặc già la đồng nghĩa với người, như luận Pháp uẩn túc quyển 2 gọi quả vị tu hành Tứ song bát bối (bốn đôi tám bậc) là Tứ song bát chích bổ đặc già la.

2/. Bổ đặc già la. Kì na giáo giải nghĩa Bổ đặc già la là vật chất, gồm đủ sắc, hương, vị, xúc, nhưng không có ý thức. Vật chất này được chia làm hai loại: Một loại là các nguyên tử đất, nước, gió, lửa vĩnh viễn không thể phân chia; loại kia là thể phức tạp do các nguyên tử cấu thành.

2- Theo Du Già Luận có tám loại chấp ngã mà loại thứ sáu gọi là “Bổ đặc già la” nghĩa là “sở thủ chi thú”(thường nắm giữ các thú) hoặc sinh nơi đây hoặc sinh nơi kia. Chính cái sinh đó gọi là chấp ngã. Trong Đại Bát Nhã do Ngài Huyền Trang dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán có nhiều đoạn nói về ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng dục giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả… HT Thích trí Nghiêm dịch chữ bổ đặt già la (từ Hán ra Việt) là “chủ thể luân hồi”; trong quyển thứ 313, phẩm “Các Dụ” lại dịch bổ đặc già la là “chúng sanh”. Chúng tôi không rõ chữ Việt có danh từ nào tương đương với từ bổ đặc già la hay không? Trong Đại Bát Nhã nhiều đoạn có dùng từ “bổ đặc già la Bồ Tát thừa”, có thể tạm dịch “chúng sinh Bồ Tát thừa”, nên có thể hiểu đó là hạng người có chủng tính Bồ tá, như Thanh văn có chủng tính Thanh văn, Độc giác có chủng tính Độc giác, chúng sinh có chủng tính chúng sinh nghĩa là sinh ra đã là chúng sinh? Và nếu dựa vào cái sinh mà tự hào thì đó chính là chấp ngã.

(11). Sát đế lợi (hay Sát lỵ) là giai cấp đứng thứ nhì trong xã hội Ấn độ khi xưa. Bà la môn, Sát đế lợi, Trưởng giả (hay phệ xá), Cư sĩ (hay thủ đà la) là bốn giai cấp của xã hội Ấn Độ thời xưa. Sự phân chia giai cấp này được xếp theo thứ tự như sau:

1- Bà la môn (Brahmanes): Giai cấp số một gồm những vị giáo sĩ, những người giữ quyền thống trị tinh thần, có quyền thực hiện các nghi lễ, cúng bái. Họ tự nhận là hạng người cao thượng, sinh từ lỗ miệng của Phạm thiên, có quyền ăn trên ngồi trước.

2- Sát đế lợi (Kastryas): Giai cấp số hai cầm quyền gồm vua chúa, các quan văn võ. Họ tự cho mình sanh ra từ cánh tay của Phạm thiên, thay thế cho Phạm thiên nắm giữ quyền thống trị dân chúng

3- Trưởng giả hay Vệ xá (Vaiyaas): Giai cấp số ba thương gia, hay điền chủ, tin mình sanh ra từ bắp vế Phạm thiên có nhiệm vụ đảm đương về kinh tế trong nước.

4- Cư sĩ hay Thủ đà la (Soundras): Giai cấp số bốn nông dân hay những người làm nghề thủ công nghệ. Họ tin mình sanh ra từ gót chân của Phạm thiên.

Còn một “hạng người” rất đáng thương, không được coi là một giai cấp, gọi là Chiên đà la, giống người hạ tiện Ba-ri-a (Pariahs) thuộc dân tộc mọi rợ, có thân phận thấp hèn nhất trong xã hội Ấn Độ khi xưa. Chiên đà la hay Chiên đồ la, dịch âm từ tiếng Phạm (Caịđàla). Dịch ý là lửa hừng, dữ tợn, người hiểm độc, người bạo ác, người chủ mưu giết chóc. Trong xã hội Ấn độ, Chiên đà la bị coi là hạng người thấp hèn nhất, dưới giai cấp Thủ đà la. Hạng người này chuyên làm các nghề như coi nhà tù, đồ tể, khiêng xác chết v.v… Cứ theo pháp điển Ma nô chép, thì Chiên đà la là chỉ cho giống người pha trộn, cha là Thủ đà la, mẹ là Bà la môn. Kinh Tăng nhất A hàm quyển 18 (Đại 2, 636 thượng), nói: Hoặc có người sinh vào nhà ti tiện hoặc giống Chiên đà la, hoặc giống ăn thịt người… (Từ điển Phật quang).

(12). và (13). Bồ Tát Bất thối chuyển, Bồ Tát Vô sanh pháp nhẫn và Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, được Kinh Đại Bát Nhã, phẩm “Tướng Bất Thối” quyển 514 định nghĩa như sau:Bồ Tát Bất thối chuyển dùng tự tướng không quán tất cả pháp, rồi vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh cho đến chẳng thấy chút pháp khá được. Vì chẳng khá được nên không sở tạo tác. Vì không tạo tác nên gọi rốt ráo chẳng sanh. Vì rốt ráo chẳng sanh nên gọi Vô sanh pháp nhẫn. Bởi vì được Vô sanh pháp nhẫn như thế nên gọi Bồ Tát Bất thối chuyển. Nếu Bồ Tát Ma ha tát trọn nên các hành tướng trạng như thế, biết đấy là Bồ Tát Bất thối chuyển”.

(14). Bí sô tăng, Sa môn hay Tỳ kheo (âm chữ Phạn bhiksu): Thầy tu nam thọ giới Cụ túc 250 giới.

 

2- Lục thần thông:

Phẩm “Chuyển Sanh”, quyển 09, Hội thứ I, ĐBN, nói rằng:

“Lại nữa, Xá Lợi Tử! Có đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật-đa, có thể dẫn phát sáu thần thông Ba la mật đa. Sáu thần thông đó là gì? Một là Thần cảnh trí chứng thông Ba la mật đa, hai là Thiên nhĩ trí chứng thông Ba la mật đa, ba là Tha tâm trí chứng thông Ba la mật đa, bốn là Túc trụ tùy niệm trí chứng thông Ba la mật đa, năm là Thiên nhãn trí chứng thông Ba la mật đa và sáu là Lậu tận trí chứng thông Ba la mật đa.

Lúc bấy giờ, Xá Lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đã dẫn phát Thần cảnh trí chứng thông Ba la mật đa như thế nào?

- Phật bảo cụ thọ Xá Lợi Tử: Xá Lợi Tử! Có đại Bồ Tát, dùng Thần cảnh trí chứng thông, khởi vô lượng các việc đại thần biến. Đó là làm chấn động mọi vật trên đại địa, ở vô số thế giới trong mười phương: Biến một thành nhiều, biến nhiều thành một, hoặc hiện hoặc ẩn, nhanh chóng không trở ngại; xuyên qua vách núi, bờ tường như đi trong khoảng không; vọt lên cao, qua lại như chim bay; ra vào trong đất như lặn hụp trong nước; lướt đi trên nước như đi trên đất; thân phát khói lửa như cao nguyên cháy; mình tuôn ra nước như núi tuyết; oai lực của thần đức nhật nguyệt khó sánh; dùng tay đưa lên, ánh sáng ẩn mất; chuyển thân tự tại cho đến cõi Tịnh cư, hiện vô lượng vô biên thần biến như vậy.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát ấy, tuy dùng đủ Thần cảnh trí như vậy, nhưng ở trong đó, chẳng tự đề cao, chẳng đắm tánh Thần cảnh trí chứng thông, chẳng đắm việc Thần cảnh trí chứng thông, chẳng đắm khả năng chứng đắc Thần cảnh trí chứng thông ấy; đối với việc đắm, chẳng đắm đều không đắm. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì đại Bồ Tát ấy, đã đạt được tánh không của tất cả các pháp, tánh ly của tự tánh, tánh vốn chẳng nắm bắt được của tự  tánh.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát ấy, chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Ta nay dẫn phát Thần cảnh trí thông, để làm vui cho mình, làm vui cho người, mà chỉ khởi lên ý nghĩ là để chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Xá Lợi Tử! Như vậy là đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đã dẫn phát Thần cảnh trí chứng thông Ba la mật đa.

Lúc bấy giờ, Xá Lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đã dẫn phát Thiên nhĩ trí chứng thông Ba la mật đa như thế nào?

- Phật bảo cụ thọ Xá Lợi Tử: Xá Lợi Tử! Có đại Bồ Tát, dùng Thiên nhĩ trí chứng thông, hết sức thanh tịnh, hơn hẳn tai của trời, người, có thể nghe như thật đủ các thứ âm thanh, của các loại tình, phi tình trong vô số thế giới ở mười phương. Đó là nghe khắp tất cả tiếng địa ngục, tiếng bàng sanh, tiếng quỷ giới, tiếng người, tiếng trời, tiếng Thanh văn, tiếng Độc giác, tiếng Bồ Tát, tiếng Như Lai, tiếng chê mắng sanh tử, tiếng ngợi khen Niết bàn, tiếng vứt bỏ hữu vi, tiếng hướng đến Bồ đề, tiếng nhàm ghét hữu lậu, tiếng vui thích vô lậu, tiếng xưng dương Tam bảo, tiếng hàng phục dị đạo, tiếng bàn luận quyết trạch, tiếng phúng tụng kinh điển, tiếng khuyên đoạn ác, tiếng dạy tu thiện, tiếng cứu giúp khổ nạn, tiếng vui vẻ an ủi, chúc mừng. Các thứ tiếng như vậy, hoặc lớn, hoặc nhỏ, đều có thể nghe khắp, không bị chướng ngại.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát ấy, tuy tác dụng đầy đủ thiên nhĩ như vậy,  nhưng ở trong đó, chẳng tự đề cao, chẳng đắm tánh thiên nhĩ trí chứng thông, chẳng đắm việc thiên nhĩ trí chứng thông, chẳng đắm khả năng chứng đắc thiên nhĩ trí chứng thông ấy; đối với việc đắm, chẳng đắm, đều không đắm. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì đại Bồ Tát ấy, đã đạt được tánh không của tất cả các pháp, tánh ly của tự tánh, tánh vốn chẳng nắm bắt được của tự  tánh.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát ấy, chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Ta nay dẫn phát thiên nhĩ trí thông, để làm vui cho mình, làm vui cho người, mà chỉ khởi lên ý nghĩ là để chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Xá Lợi Tử! Như vậy là đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đã dẫn phát thiên nhĩ trí chứng thông Ba la mật đa.

Lúc bấy giờ, Xá Lợi Tử lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật- đa, đã dẫn phát Tha tâm trí chứng thông Ba la mật đa như thế nào?

- Phật bảo cụ thọ Xá Lợi Tử: Xá Lợi Tử! Có đại Bồ Tát, dùng Tha tâm trí chứng thông, có thể biết như thật tâm và tâm sở pháp của các loại hữu tình khác, trong vô số thế giới ở mười phương. Đó là biết khắp các loại hữu tình khác, nếu có tâm tham, thì biết như thật là có tâm tham; nếu lìa tâm tham, thì biết như thật là lìa tâm tham; nếu có tâm sân, thì biết như thật là có tâm sân; nếu lìa tâm sân, thì biết như thật là lìa tâm sân; nếu có tâm nghi, thì biết như thật là có tâm nghi; nếu lìa tâm nghi, thì biết như thật là lìa tâm nghi; nếu có tâm ái, thì biết như thật là có tâm ái; nếu lìa tâm ái, thì biết như thật là lìa tâm ái; nếu có tâm thủ, thì biết như thật là có tâm thủ; nếu lìa tâm thủ, thì biết như thật là lìa tâm thủ; nếu tâm tập trung, thì biết như thật là tâm tập trung; nếu tâm phân tán, thì biết như thật là tâm phân tán; nếu tâm hẹp hòi, thì biết như thật là tâm hẹp hòi; nếu tâm rộng rãi, thì biết như thật là tâm rộng rãi; nếu tâm khởi, thì biết như thật là tâm khởi; nếu tâm móng khởi, thì biết như thật là tâm móng khởi; nếu tâm lắng xuống, thì biết như thật là tâm lắng xuống; nếu tâm tịch tịnh, thì biết như thật là tâm tịch tịnh; nếu tâm chẳng tịch tịnh, thì biết như thật là tâm chẳng tịch tịnh; nếu tâm dấy động, thì biết như thật là tâm dấy động; nếu tâm chẳng dấy động, thì biết như thật là tâm chẳng dấy động; nếu tâm định, thì biết như thật là tâm định; nếu tâm chẳng định, thì biết như thật là tâm chẳng định; nếu tâm giải thoát, thì biết như thật là tâm giải thoát; nếu tâm chẳng giải thoát, thì biết như thật là tâm chẳng giải thoát; nếu tâm hữu lậu, thì biết như thật là tâm hữu lậu; nếu tâm vô lậu, thì biết như thật là tâm vô lậu; nếu tâm có chấn động, thì biết như thật là tâm có chấn động; nếu tâm không chấn động, thì biết như thật là tâm không chấn động; nếu có tâm cao thượng, thì biết như thật là tâm cao thượng; nếu không có tâm cao thượng, thì biết như thật là không có tâm cao thượng.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát ấy, tuy dùng đầy đủ Tha tâm trí như vậy, nhưng ở trong đó, chẳng tự đề cao, chẳng đắm tánh Tha tâm trí chứng thông, chẳng đắm việc Tha tâm trí chứng thông, chẳng đắm khả năng chứng đắc Tha tâm trí chứng thông ấy; đối với việc đắm, chẳng đắm, đều không đắm. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì đại Bồ Tát ấy, đã đạt được tánh không của tất cả các pháp, tánh ly của tự tánh, tánh vốn chẳng nắm bắt được của tự  tánh. Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát ấy, chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Ta nay đã dẫn phát Tha tâm trí thông, để làm vui cho mình, làm vui cho người, mà chỉ khởi lên ý nghĩ là để chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Xá Lợi Tử! Như vậy là đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đã dẫn phát Tha tâm trí chứng thông Ba la mật đa.

Bấy giờ, Xá Lợi Tử lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đã dẫn phát Túc trụ tùy niệm trí chứng thông Ba la mật đa như thế nào?

- Phật bảo cụ thọ Xá Lợi Tử: Xá Lợi Tử! Có đại Bồ Tát, dùng Túc trụ tùy niệm trí chứng thông, có thể biết như thật, các việc làm đời trước, của tất cả hữu tình trong vô số thế giới ở mười phương. Đó là theo ý nghĩ nhớ lại các việc đời trước, hoặc của mình hoặc của người, một tâm, mười tâm, trăm tâm, ngàn tâm, nhiều ngàn tâm; hoặc lại theo ý nghĩ nhớ lại các việc đời trước, một ngày, mười ngày, trăm ngày, ngàn ngày, nhiều trăm ngàn ngày; hoặc lại theo ý nghĩ nhớ các việc đời trước, một tháng, mười tháng, trăm tháng, ngàn tháng, nhiều trăm ngàn tháng; hoặc lại theo ý nghĩ nhớ các việc đời trước, một năm, mười năm, trăm năm, ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm; hoặc lại theo ý nghĩ nhớ các việc đời trước, một kiếp, mười kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, nhiều trăm ngàn kiếp, cho đến vô lượng, vô số trăm ngàn muôn ức kiếp; hoặc lại theo ý nghĩ nhớ các việc đời trước, đó là thời gian như vậy, xứ sở như vậy, tên như vậy, họ như vậy, cuộc sống như vậy, chủng loại như vậy, thức ăn như vậy, ở lâu như vậy, hạn tuổi như vậy, sống lâu như vậy, hưởng lạc như vậy, chịu khổ như vậy; chết từ nơi kia đến sanh nơi này, chết từ nơi này, đến sanh nơi kia; tướng mạo như vậy, tiếng nói như vậy; các việc đời trước, hoặc sơ lược, hoặc dài dòng, hoặc của mình, hoặc của người, đều có thể theo ý nghĩ nhớ lại.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát ấy, tuy dùng đầy đủ Túc trụ trí như vậy, nhưng ở trong đó, chẳng tự đề cao, chẳng đắm tánh Túc trụ tùy niệm trí chứng thông, chẳng đắm sự Túc trụ tùy niệm trí chứng thông, chẳng đắm khả năng chứng đắc Túc trụ tùy niệm trí chứng thông ấy; đối với việc đắm, chẳng đắm, đều không đắm. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì đại Bồ Tát ấy, đã đạt được tánh Không của tất cả các pháp, tánh ly của tự tánh, tánh vốn chẳng nắm bắt được của tự  tánh.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát ấy, chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Ta nay dẫn phát Túc trụ trí thông, để làm vui cho mình, làm vui cho người, mà chỉ khởi lên ý nghĩ là để chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Xá Lợi Tử! Như vậy là đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đã dẫn phát Túc trụ tùy niệm trí chứng thông Ba la mật đa.

Lúc bấy giờ, Xá Lợi Tử lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đã dẫn phát Thiên nhãn trí chứng thông Ba la mật đa như thế nào?

- Phật bảo cụ thọ Xá Lợi Tử: Xá Lợi Tử! Có đại Bồ Tát, dùng Thiên nhãn trí chứng thông, hết sức thanh tịnh, vượt hơn mắt trời, người, có thể thấy như thật, các loại màu sắc, hình tượng của các loại hữu tình, phi tình trong vô số thế giới ở mười phương. Đó là thấy khắp các loại sắc tượng lúc sanh, lúc chết, sắc đẹp, sắc thô, hoặc hơn, hoặc kém, đường thiện, đường ác, của các loại hữu tình. Nhân đây, lại biết các loại hữu tình, tùy theo nghiệp lực vận dụng mà thọ sanh sai khác; có loại hữu tình thành tựu thân diệu hạnh, thành tựu ngữ diệu hạnh, thành tựu ý diệu hạnh, ngợi khen Hiền Thánh, thấy đúng nhân duyên, khi thân hoại, mạng chung, sẽ sanh vào đường thiện, hoặc sanh cõi trời, hoặc sanh cõi người, hưởng các niềm vui thanh thoát; có loại hữu tình, thành tựu thân ác hạnh, thành tựu ngữ ác hạnh, thành tựu ý ác hạnh, chê bai Hiền Thánh, thấy sai nhân duyên, khi thân hoại, mạng chung, sẽ đọa xuống đường ác, hoặc sanh vào địa ngục, hoặc sanh vào bàng sanh, hoặc sanh vào quỷ giới, hoặc sanh nơi biên địa hạ tiện dơ bẩn, xấu ác; ở trong loại hữu tình, chịu các khổ cùng cực.

Tùy theo các loại nghiệp của hữu tình, mà thọ quả sai khác như vậy, đều biết như thật.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát ấy, tuy dùng đầy đủ Thiên nhãn như vậy, nhưng ở trong đó, chẳng tự đề cao, chẳng đắm tánh Thiên nhãn trí chứng thông, chẳng đắm sự Thiên nhãn trí chứng thông, chẳng đắm khả năng chứng đắc Thiên nhãn trí chứng thông ấy; đối với việc đắm, chẳng đắm, đều không đắm. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì đại Bồ Tát ấy, đã đạt được tánh không của tất cả các pháp, tánh ly của tự tánh, tánh vốn chẳng nắm bắt được của tự  tánh.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát ấy, chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Ta nay đã dẫn phát Thiên nhãn trí chứng thông, để làm vui cho mình, làm vui cho người, mà chỉ khởi lên ý nghĩ là để chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Xá Lợi Tử! Như vậy là đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đã dẫn phát Thiên nhãn trí chứng thông Ba la mật đa.

Lúc bấy giờ, Xá Lợi Tử lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật-đa, đã dẫn phát Lậu tận trí chứng thông Ba la mật đa như thế nào?

- Phật bảo cụ thọ Xá Lợi Tử: Xá Lợi Tử! Có đại Bồ Tát, dùng Lậu tận trí chứng thông, có thể biết như thật, tất cả hữu tình trong vô số thế giới ở trong mười phương, hoặc mình, hoặc người, lậu hết hay chẳng hết. Loại thần thông này, nương vào định Kim cương dụ, đoạn các chướng tập, mới được viên mãn. Khi chứng đắc bậc Bất thối chuyển Bồ Tát, thì đối với tất cả lậu được gọi là hết, vì rốt ráo không còn hiện khởi nữa. Bồ Tát chứng đắc Lậu tận thông này, chẳng đọa vào bậc Thanh văn, Độc giác, chỉ hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, vì chẳng còn mong cầu các nghĩa lợi khác.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát ấy, tuy dùng đầy đủ Lậu tận trí như vậy, nhưng ở trong đó, chẳng tự đề cao, chẳng đắm tánh Lậu tận trí chứng thông, chẳng đắm sự Lậu tận trí chứng thông, chẳng đắm khả năng chứng đắc Lậu tận trí chứng thông ấy; đối với việc đắm, chẳng đắm, đều không đắm. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì đại Bồ Tát ấy, đã đạt được tánh Không của tất cả các pháp, tánh ly của tự tánh, tánh vốn chẳng nắm bắt được của tự  tánh. Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát ấy, chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Ta nay dẫn phát Lậu tận trí chứng thông, để làm vui cho mình, hay làm vui cho người, mà chỉ khởi lên ý nghĩ là để chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Xá Lợi Tử! Như vậy là đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật-đa, đã dẫn phát Lậu tận trí chứng thông Ba la mật đa.

Như vậy Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, có thể viên mãn thanh tịnh sáu thần thông Ba la mật đa. Do sáu thần thông này viên mãn thanh tịnh, nên liền được viên mãn Nhất thiết trí trí, đó là Nhất thiết trí và Nhất thiết tướng trí”.

 

24. TU HÀNH NHƯ LAI 10 LỰC, TU HÀNH 4 ĐIỀU KHÔNG SỢ, 4 SỰ HIỂU BIẾT THÔNG SUỐT, 18 PHÁP PHẬT BẤT CỘNG:

 

1- Như Lai mười lực(1):

Cũng ở Phẩm “Quảng Thừa” quyển 6, Kinh MHBNBLMĐ do La Thập dịch, ghi Thập lực như sau:

Những gì là mười? Một: Tri thị xứ phi xứ trí lực là Phật biết như thật những tướng thị xứ, bất thị xứ của tất cả pháp. Hai: Tri tam thế nghiệp báo trí lực là Phật biết như thật những nghiệp, những thọ pháp của chúng sanh khác, biết chỗ tạo nghiệp, biết nhơn duyên, biết báo của chúng sanh khác. Ba: Tri chư thiên giải thoát tam muội trí lực là Phật biết như thật những tướng cấu tịnh sai khác của các thiền giải thoát, các tam muội và các định. Bốn: Tri chúng sanh tâm tánh trí lực là Phật biết như thật những tướng căn tánh thượng hạ của chúng sanh khác. Năm: Tri chủng chủng giải trí lực là Phật như thật biết những loại dục giải của chúng sanh khác. Sáu: Tri chủng chủng giới trí lực là Phật như thật biết vô số tánh loại sai khác của thế gian. Bảy: Tri nhất thiết sở đạo trí lực là Phật như thật biết chỗ đến của tất cả đạo hạnh. Tám: Tri thiên nhãn vô ngại trí lực là Phật như thật biết túc mạng của mình và của chúng sanh khác từ một đời đến vô lượng đời trong vô lượng kiếp có tướng như vậy, có nhơn duyên như vậy. Chín: Tri túc mạng vô lậu trí lực là Phật thiên nhãn thanh tịnh hơn chư Thiên, như thật thấy biết chúng sanh chết đây sanh kia, hoặc thiện đạo hoặc ác đạo. Mười: Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực là Phật biết như thật các lậu tận nên vô lậu tâm giải thoát, vô lậu huệ giải thoát, trong pháp hiện tại tự chứng biết nhập vào pháp ấy, nghĩa là chứng biết như thật ta đã hết sanh tử, phạm hạnh đã thành, còn đời nầy chẳng còn đời sau nữa”.

Phẩm “Biện Đại Thừa”, quyển 53, Hội thứ I hay phẩm “Các Tướng Công Đức”, quyển 380, Hội thứ I; phẩm “Thiện Hiện” quyển 489, Hội thứ III, có ghi Như Lai mười trí lực(1) như sau:

“Thiện Hiện! Sao gọi là Như Lai mười lực? Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thị xứ như thật biết thị xứ, phi xứ như thật biết phi xứ. đấy là thứ nhất. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối các hữu tình các nghiệp quá khứ vị lai hiện tại và các pháp thọ xứ nhân dị thục đều như thật biết, đấy là thứ hai. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối các thế gian chẳng những một cõi mà tất cả cõi đều như thật biết, đấy là thứ ba. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối các thế gian chẳng những một thắng giải mà tất cả thắng giải đều như thật, biết, đấy là thứ tư. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều như thật biết đối các hữu tình, bổ đặc già la, các căn thắng liệt đều như thật biết, đấy là thứ năm. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối tất cả biến thú hành đều như thật biết, đấy là thứ sáu. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối tất cả các căn lực nhánh giác, nhánh đạo, tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, tạp nhiễm, thanh tịnh đều như thật biết, đấy là thứ bảy. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng tịnh thiên nhãn vượt quá hơn người, thấy các hữu tình khi chết khi sanh các việc thiện ác, hữu tình như thế bởi thân ngữ ý ba món ác hành, bớt các tà kiến, bởi các việc phỉ báng Hiền thánh đọa các ác thú. Hữu tình như thế nhờ ba món diệu hạnh thân ngữ ý, nhờ các chánh kiến, nhờ khen Hiền thánh thăng các thiện thú, sanh trong các trời. Lại dùng thiên nhãn thanh tịnh hơn người, thấy các hữu tình khi chết khi sanh, sắc tốt sắc xấu, từ đây sanh lại thiện thú ác thú. Đối các hữu tình theo nghiệp thế lực sanh thú thiện ác đều như thật biết, đấy là thứ tám. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối các hữu tình quá khứ vô lượng các việc đời trước, hoặc một đời, hoặc trăm đời, hoặc ngàn đời, hoặc trăm ngàn đời, hoặc một trăm ức đời, hoặc trăm trăm ức đời, hoặc ngàn trăm ức đời, hoặc trăm ngàn ức trăm ức muôn ức đời; hoặc một kiếp, hoặc trăm kiếp, hoặc ngàn kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp; hoặc ức kiếp, hoặc trăm ức kiếp, hoặc ngàn ức kiếp, hoặc trăm ngàn ức kiếp, hoặc trăm ngàn trăm ức kiếp, hoặc trăm ngàn trăm muôn ức kiếp, cho đến ngằn mé đời trước có bao nhiêu các hành, các thuyết, các tướng đều như thật biết, đấy là thứ chín. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối các lậu tận, vô lậu tâm giải thoát, vô lậu huệ giải thoát đều như thật biết. Đối tự lậu tận pháp chơn giải thoát đều như thật biết. Đối tự lậu tận pháp chơn giải thoát tự chứng thông huệ, đầy đủ mà trụ, như thật giác thọ. Ta sanh đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã làm xong, chẳng thọ thân sau, đấy là thứ mười. Thiện Hiện! Đấy gọi là Như Lai thập lực”.

Thích nghĩa:

(1). Thập lực: Danh Từ Thiền Học ghi vắn tắt 10 lực như sau: 1/. Trí lực biết sự hợp lý, bất hợp lý, 2/. Trí lực biết nghiệp báo của tam thế, 3/. Trí lực biết thiền định, giải thoát, 4/. Trí lực biết các căn hay, dở, 5/. Trí lực biết về kiến giải, 6/. Trí lực biết về cảnh giới, 7/. Trí lực biết về nhân quả hành đạo, 8/. Trí lực thiên nhãn thông, 9/. Trí lực túc mạng thông và 10/. Trí lực biết tất cả sự vật đúng như thật tế.

 

2- Bốn điều không sợ (Tứ vô sở úy):

Phẩm “Quảng Thừa”, quyển 06, Kinh MHBNBLMĐ do La Thập dịch, ghi tứ vô sở úy như sau:

Thế nào là bốn? Phật nói lời thành thật rằng ta là bực nhất thiết chánh trí (Chánh Đẳng Giác). Đối với những điều như thật gạn hỏi về các pháp của tất cả đại chúng, Phật không tự thấy có mảy may e sợ. Vì thế nên Phật được rất an ổn, được vô sở úy an trụ ngôi thánh chúa, ở giữa đại chúng như sư tử hống chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả hàng Sa Môn, Bà La Môn, chư Thiên Vương, Phạm Vương, Ma Vương, cùng chúng sanh khác đều không chuyển được. Đây là vô sở úy thứ nhất.

Phật nói lời thành thật rằng ta là bực tất cả lậu đã dứt diệt. Đối với chỗ gạn hỏi như thật về lậu phiền não đây của tất cả đại chúng, Phật không tự thấy có mảy may e sợ. Vì thế nên Phật được rất an ổn, được vô sở úy, an trụ ngôi thánh chúa, ở giữa đại chúng như sư tử hống chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả Trời, Người cùng chúng sanh khác không chuyển được. Đây là vô sở úy thứ hai.

Phật nói lời thành thật rằng ta đây biết những pháp chướng ngại chánh đạo giải thoát. Đối với những lời gạn hỏi như thật về pháp chướng đạo đây của tất cả đại chúng, Phật không tự thấy có mảy may e sợ. Vì thế nên Phật được rất an ổn, được vô sở úy, an trụ bực thánh chúa, ở giữa đại chúng như sư tử hống chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả Nhơn, Thiên cùng chúng sanh khác đều không chuyển được. Đây là vô sở úy thứ ba.

Phật nói lời thành thật rằng những thánh đạo mà ta đã dạy quyết định có thể ra khỏi thế gian, theo đây thực hành thời có thể hết khổ. Đối với những lời gạn hỏi như thật về thánh đạo đây của tất cả đại chúng, Phật không tự thấy có mảy may e sợ. Vì thế nên Phật được rất an ổn, được vô sở úy, an trụ bực thánh chúa, ở giữa đại chúng như sư tử hống chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả Nhơn, Thiên cùng chúng sanh khác đều không chuyển được. Đây là vô sở úy thứ tư”.

(Nói ngắn gọn, bốn điều không sợ của Như Lai là: 1. Nhất thiết trí vô sở úy; 2. Lậu tận vô sở úy; 3. Thuyết chướng đạo vô sở úy; 4. Thuyết tận khổ đạo vô sở úy. Phẩm “Biện Đại Thừa”, quyển 53, Hội thứ I; phẩm “Các Tướng Công Đức”, quyển 381, Hội thứ I; phẩm Thiện Hiện”, quyển 489, Hội thứ III, ĐBN Ngài Huyền Trang dịch cũng có đoạn kinh giải thích về Tứ vô sở úy như trên).

 

3- Bốn sự hiểu biết thông suốt (Tứ vô ngại trí còn gọi là Tứ vô ngại giải hay tứ vô ngại biện):

Cũng ở phẩm “Quảng Thừa” thuộc Kinh MHBNBLMĐ do La Thập dịch, nói về bốn điều vô ngại, gồm: “Những gì là bốn? Pháp vô ngại trí, nghĩa vô ngại trí, từ vô ngại trí và lạc thuyết vô ngại trí”.

Phẩm “Các Tướng Công Đức”, quyển 381, Hội thứ I, ghi tứ vô ngại giải như sau:

“Thiện Hiện! Vì sao gọi là bốn vô ngại giải? Thiện Hiện! Hiểu nghĩa vô ngại, hiểu pháp vô ngại, hiểu lời vô ngại, hiểu biện vô ngại. Thiện Hiện! Đấy là bốn vô ngại giải. Thiện Hiện! Sao là hiểu Pháp vô ngại? Nghĩa là trí duyên pháp vô ngại. Thiện Hiện! Sao là hiểu Nghĩa vô ngại? Nghĩa là trí duyên Nghĩa vô ngại. Thiện Hiện! Sao là hiểu Lời vô ngại? Nghĩa là trí duyên lời vô ngại. Thiện Hiện! Sao là hiểu Biện vô ngại? Nghĩa là trí duyên biện vô ngại”.

Bốn sự hiểu biết thông suốt (Tứ vô ngại trí) tức bốn năng lực lý giải và diễn đạt vô ngại: 1). Pháp vô ngại, 2). Nghĩa vô ngại, 3). Từ vô ngại, 4). Nhạo thuyết vô ngại. Bốn trí không ngăn ngại này cũng chính là Bốn biện tài vô ngại (Tứ vô ngại biện), Bồ Tát khi đạt được bốn trí này thì có thể vì tất cả chúng sinh mà biện thuyết Chánh pháp không ngăn ngại.

Đừng lẫn lộn bốn điều hiểu biết thông suốt (Tứ vô ngại trí hay Tứ vô ngại giải) với bốn điều không sợ (Tứ vô sở úy). Phẩm “Thiện Hiện”, quyển 489, và quyển 490 cùng phẩm, Hội thứ III, Kinh ĐBN do Ngài Huyền Trang dịch có giải thích rõ ràng về Tứ vô sở úy và Tứ vô ngại giải. Tuy nhiên, để tránh sự nhầm lẫn hai pháp này, một lần nữa chúng tôi ghi rõ nguyên văn hai pháp tu này ở phẩm “Niệm Trụ Đẳng” quyển 414 và 415, ĐBN, Hội thứ II như sau:

Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện:

- Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa Bồ Tát ấy là bốn vô sở úy.  Những gì là bốn? 1. Chính đẳng giác vô uý, 2. Lậu vĩnh tận vô uý, 3. Thuyết chướng pháp vô uý, 4. Thuyết xuất đạo vô uý:

Thiện Hiện! Đem vô sở đắc làm phương tiện, tự xưng ta là bậc Chánh Đẳng Giác. Dù có Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc Thiên ma phạm, hoặc người trong thế gian nương vào pháp đặt ra câu hỏi, làm cho ta nhnghĩ: “Pháp này chẳng phải Chánh Đẳng Giác”. Ta đối với lời gạn hỏi như thế thấy không có căn cớ, vì biết không có căn cớ, nên được yên ổn trụ vào chỗ không lo, không sợ, tự xưng ta ở ngôi vị của bậc Đại tiên, ở giữa đại chúng rống tiếng Sư tử, chuyển bánh xe diệu pháp. Bánh xe pháp ấy thanh tịnh, chánh chơn, vô thượng mà tất cả Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc Thiên, ma, phạm vương, hoặc người trong thế gian đều không có thể chuyển được. Đó là thứ nhất.

Thiện Hiện! Đem vô sở đắc làm phương tiện, tự xưng ta đã dứt hẳn các lậu. Nếu có Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc Thiên ma phạm, hoặc người trong thế gian nương vào pháp đặt ra câu hỏi, làm cho ta nhnghĩ: “Lậu như thế chưa được dứt hẳn”. Ta đối với lời gạn hỏi như thế thấy không có căn cớ, vì biết không có căn cớ, nên được yên ổn trụ vào chỗ không lo, không sợ, tự xưng ta ở ngôi vị của bậc Đại tiên, ở giữa đại chúng rống tiếng Sư tử, chuyển bánh xe diệu pháp. Bánh xe pháp ấy thanh tịnh, chánh chơn, vô thượng mà tất cả Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc Thiên, ma, phạm vương, hoặc người trong thế gian đều không có thể chuyển được. Đó là thứ hai.

Thiện Hiện! Đem vô sở đắc mà làm phương tiện, vì các đệ tử thuyết pháp chướng đạo.  Dù có Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc Thiên ma phạm, hoặc người trong thế gian nương vào pháp đặt ra câu hỏi, làm cho ta nhnghĩ: “Hoặc pháp này chẳng năng chướng đạo”. Ta đối với lời gạn hỏi như thế thấy không có căn cớ, vì biết không có căn cớ, nên được yên ổn trụ vào chỗ không lo, không sợ, tự xưng ta ở ngôi vị của bậc Đại tiên, ở giữa đại chúng rống tiếng Sư tử, chuyển bánh xe diệu pháp. Bánh xe pháp ấy thanh tịnh, chánh chơn, vô thượng mà tất cả Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc Thiên, ma, phạm vương, hoặc người trong thế gian đều không có thể chuyển được. Đó là thứ ba.

Thiện Hiện! Đem vô sở đắc mà làm phương tiện, vì các đệ tử thuyết đạo hết khổ.  Dù có Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc Thiên ma phạm, hoặc người trong thế gian nương vào pháp đặt ra câu hỏi, làm cho ta nhnghĩ: “Tu đạo này chẳng năng hết khổ”.  Ta đối với lời gạn hỏi như thế thấy không có căn cớ, vì biết không có căn cớ, nên được yên ổn trụ vào chỗ không lo, không sợ, tự xưng ta ở ngôi vị của bậc Đại tiên, ở giữa đại chúng rống tiếng Sư tử, chuyển bánh xe diệu pháp. Bánh xe pháp ấy thanh tịnh, chánh chơn, vô thượng mà tất cả Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc Thiên, ma, phạm vương, hoặc người trong thế gian đều không có thể chuyển được. Đó là thứ tư”.

 

4- Mười tám pháp Phật bất cộng (còn gọi Thập bát bất cộng pháp)(1):

“Những gì là mười tám bất cộng pháp? 1. là thân của chư Phật không đổi, 2.  là khẩu của chư Phật không lỗi, 3.  là ý niệm của chư Phật không lỗi, 4. là chư Phật không có dị tướng, 5. là chư Phật không có tâm bất định, 6. là chư Phật không có tâm chẳng biết rồi mà xả, 7. là nguyện dục không diệt, 8. là tinh tấn không diệt, 9. là chánh niệm không diệt, 10. là huệ không diệt, 11. là giải thoát không diệt, 12. là giải thoát tri kiến không diệt, 13. là tất cả thân nghiệp của chư Phật đều theo nghiệp trí huệ mà hiện hành, 14. là tất cả khẩu nghiệp đều theo trí huệ mà hiện hành, 15. là tất cả ý nghiệp đều theo trí huệ mà hiện hành, 16. là trí huệ của chư Phật thấy biết thuở quá khứ không ngại, không chướng, 17. là trí huệ thấy biết thuở vị lai không ngại, không chướng, 18. là trí huệ thấy biết thuở hiện tại không ngại, không chướng”.

Phẩm “Biện Đại Thừa”, quyển 53, Hội thứ I; phẩm “Các Tướng Công Đức” quyển 381, Hội thứ I và kế tiếp; phẩm “Thiện Hiện” quyển 490, Hội thứ III, Kinh ĐBN do Ngài Huyền Trang dịch cũng có ghi đầy đủ Thập bát bất cộng pháp như trên.

Để rõ nghĩa của đoạn kinh vừa kể trên chúng tôi ghi thêm phần thích nghĩa của Đoàn trung Còn và Nguyễn minh Tiến (trong phần chú giải Kinh Đại Bát Niết Bàn) về Thập bát bất cộng pháp như sau:

Mười tám pháp không cùng chung với hai thừa (thập bát bất cộng pháp) là mười tám pháp chỉ đấng Như Lai mới có, A la hán và Duyên giác không có, cũng gọi là Thập bát bất cụ pháp, gồm: 1/. Thân vô thất (Thân không có lỗi); 2/. Khẩu vô thất (Lời nói không có lỗi); 3/. Niệm vô thất (Ý tưởng không có lỗi); 4/. Vô dị tưởng (Không có tư tưởng khác biệt, tâm luôn bình đẳng không phân biệt); 5/. Vô bất định tâm (Tâm thường an định); 6/. Vô bất tri dĩ xả (Rõ biết tất cả mọi chuyện nhưng đều buông bỏ); 7/. Dục vô diệt (Lòng mong muốn cứu độ chúng sanh không dứt mất); 8/. Tinh tấn vô diệt (Sự tinh tấn cứu độ chúng sanh không dứt mất); 9/. Niệm vô diệt (Đối với Chánh pháp của ba đời chư Phật, tất cả trí tuệ đều đầy đủ, không có sự thối chuyển); 10/. Huệ vô diệt (Trí tuệ đầy đủ không cùng tận); 11/. Giải thoát vô diệt (Có đủ hai loại giải thoát là giải thoát hữu vi và giải thoát vô vi, dứt trừ hoàn toàn mọi phiền não); 12/. Giải thoát tri kiến vô diệt (Đối với Giải thoát tri kiến trí tuệ sáng suốt, phân biệt vô ngại); 13/. Nhất thiết thân nghiệp tùy trí tuệ hành (Hết thảy nghiệp của thân được thực hành theo trí tuệ); 14/. Nhất thiết khẩu nghiệp tùy Trí tuệ hành (Hết thảy nghiệp của lời nói được thực hành theo trí tuệ); 15/. Nhất thiết ý nghiệp tùy trí tuệ hành (Hết thảy nghiệp của ý được thực hành theo trí tuệ); 16/. Trí tuệ tri quá khứ thế vô ngại (Trí tuệ rõ biết đời quá khứ không ngăn ngại); 17/. Trí tuệ tri vị lai thế vô ngại (Trí tuệ rõ biết đời vị lai không ngăn ngại); 18/. Trí tuệ tri hiện tại thế vô ngại (Trí tuệ rõ biết đời hiện tại không ngăn ngại).

Thích nghĩa:

(1). Pháp chung cùng (cộng pháp) và pháp chẳng chung cùng (bất cộng pháp): Chung cùng ở đây là chung cùng với hàng Nhị thừa, chỉ những pháp mà các vị Thanh văn, Duyên giác cùng tu tập. Không chung cùng là những pháp mà chỉ có hàng Bồ Tát tu tập, còn Thanh văn, Duyên giác thì hoàn toàn không có được.

 

25. TU HÀNH ĐẠI TỪ HOẶC KHUYÊN TU HÀNH ĐẠI BI, ĐẠI HỶ, ĐẠI XẢ:

 

Từ, Bi, Hỷ, Xả là tứ vô lượng tâm nói trên: Từ tâm, Bi tâm, Hỷ tâm và Xả tâm là bốn tâm rộng lớn phổ cập cho vô lượng chúng sanh. Bốn đức ấy của Bồ Tát và Phật thì gọi là Đại từ, Đại bi, Đại hỷ, Đại Xả. Đại từ là lòng lành rộng lớn muốn giúp ích chúng sanh. Đại bi lòng thương xót muốn cứu khổ chúng sanh. Khi thấy chúng sinh hết khổ, được vui thì Bồ Tát vui theo, đó là Đại hỷ. Xả là bỏ, không chấp gì cả, quên hết những gì mình làm phước điền cho người khác, gọi là Đại xả.

 

26. TU HÀNH PHÁP KHÔNG QUÊN MẤT HOẶC TU HÀNH TÁNH LUÔN LUÔN XẢ:

 

1- Pháp không quên mất (Pháp vô vong thất):

Đó là một trong Bát thập nhất khoa(Tám mươi mốt khoa): Chỉ 81 khoa danh tướng Bát Nhã được chép trong Đại tạng nhất lãm tập, quyển 3. Nhưng căn cứ theo Kinh Đại bảo tích, quyển 92 thì chúng sinh nào phát 10 thứ tâm, rồi tùy theo bất cứ một tâm nào, nếu chuyên tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà thì lúc lâm chung liền được sinh về thế giới Cực lạc. Mười tâm ấy là: 1). Vô tổn hại tâm: Tâm không gây tổn hại. Nghĩa là người niệm Phật khởi tâm đại từ đối với chúng sinh, không gây tổn hại cho họ, khiến được yên vui. 2). Vô bức não tâm: Tâm không bức não. Nghĩa là người niệm Phật thân tâm yên tĩnh, đối với chúng sinh thường khởi tâm đại bi, thương xót cứu giúp, khiến họ được thoát khổ. 3). Lạc thủ hộ tâm: Tâm vui giữ gìn. Nghĩa là người niệm Phật không tiếc thân mệnh giữ gìn chính pháp của đức Phật. 4). Vô chấp trước tâm: Tâm không dính mắc. Nghĩa là người niệm Phật thường dùng trí tuệ quán xét, đối với tất cả pháp, tâm không bám níu. 5). Khởi tịnh ý tâm: Sinh khởi tâm ý thanh tịnh. Nghĩa là người niệm Phật thường lìa các pháp tạp nhiễm của thế gian, đối với việc lợi dưỡng, thường sinh tâm biết đủ. 6). Vô vong thất tâm: Tâm không quên mất. Nghĩa là người niệm Phật cầu sinh Tịnh độ, thành chủng trí Phật, trong tất cả các thời, niệm niệm không bỏ. 7). Vô hạ liệt tâm: Không sinh tâm chê bai hèn kém. Nghĩa là người niệm Phật thường có tâm bình đẳng, đối với các chúng sinh tôn trọng cung kính, không sinh tâm khinh mạn. 8). Sinh quyết định tâm: Sinh tâm quyết định. Nghĩa là người niệm Phật, không chấp trước ngôn luận của thế gian, đối với Bồ đề vô thượng, chính tín sâu xa, rốt ráo không nghi hoặc. 9). Vô tạp nhiễm tâm: Không sinh tâm tạp nhiễm. Nghĩa là người niệm Phật tu tập công hạnh, vun bồi căn lành, tâm thường xa lìa tất cả phiền não tạp nhiễm. 10). Khởi tùy niệm tâm: Khởi tâm tùy niệm. Nghĩa là người niệm Phật tuy quán tưởng các tướng tốt đẹp của Như Lai, nhưng tâm không đắm trước, trong vô niệm vẫn thường niệm Phật. (Từ điển Phật Quang).

Giải thích trên không đủ! Học Phật mà không quên (tất cả các pháp môn) là một điều khó. Chỉ nhớ khi hiểu. Không hiểu thì theo thời gian dù có trí nhớ phi thường đến đâu cũng phai mờ. Trong Phật sử, người có trí nhớ siêu việt phải nói là Ngài A Nan, thị giả Phật cũng là người nối ngôi (thứ hai) làm chủ Tăng đoàn kế vị Ngài Ca Diếp, sau khi Phật nhập diệt. Dĩ nhiên, Ngài A Nan phải có gì đặc biệt mới có thể lên đến ngôi vị ấy. Trong Phật học có một pháp môn gọi là Đà la ni, có khả năng tóm thu, gìn giữ vô lượng Phật pháp không để quên mất. Nói cách khác, nó là một thuật ghi nhớ. Luận Đại trí độ, quyển 5 và Phật địa kinh luận, quyển 5 cho rằng, Đà la ni là một phương pháp ghi nhớ, tức là “trong một pháp nắm giữ tất cả pháp, trong một lời nắm giữ tất cả lời, trong một nghĩa nắm giữ tất cả nghĩa”. Do đó, từ sự ghi nhớ một pháp, một lời, một nghĩa ấy mà có thể liên tưởng đến hết thảy pháp, tóm thu nắm giữ vô lượng Phật pháp không để quên mất. (Xem lại thích nghĩa Đà la ni kể trên).

 

2- Tánh luôn luôn xả (Tánh hằng trụ xả):

Chúng tôi không tìm thấy pháp môn này trong sách vở kinh điển Phật học hiện hành. Nên không dám thích nghĩa ở đây.

 

27. TU HÀNH NHẤT THIẾT TRÍ, ĐẠO TƯỚNG TRÍ VÀ NHẤT THIẾT TƯỚNG TRÍ:

 

Ba trí thường được nhắc nhở nhiều nhất trong các kinh là Nhất thiết trí, Đạo tướng trí (còn gọi là Đạo chủng trí) và Nhất thiết tướng trí (còn gọi là Nhất thiết chủng trí hay Nhất thiết trí trí). Nhất thiết trí là trí của Thanh văn, Bích Chi Phật. Đạo tướng trí là trí của Bồ Tát. Nhất thiết chủng trí là trí tuệ biết được tất cả mọi sự việc, trí tuệ bao trùm tất cả, được dùng để chỉ trí tuệ giác ngộ hoàn hảo của Phật cũng gọi là Phật trí, Phật huệ.

Nói chung, Nhất thiết trí là trí chung cùng (cộng trí) của Thanh văn và Độc giác; Đạo tướng trí là trí chung cùng của các đại Bồ Tát; Nhất thiết tướng trí là diệu trí riêng có (bất cộng trí) của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Nhiều tác giả khi đề cập về trí của bậc tu thành đạo như Phật chỉ dùng một danh từ chung là Nhất thiết trí. Kinh Đại Bát Nhã hay dùng danh từ Nhất thiết trí trí, đây có thể coi là trí tuệ tối cao, viên mãn nhất của chư Phật.

 

Phẩm “Hỏi Nhiều Chẳng hai”, quyển 363, Hội thứ nhất, ĐBN giải thích như sau:

- “Nhất thiết trí: Là cộng trí của Thanh văn và Độc giác, trí nầy có thể biết rõ năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới v.v... nhưng không có thể biết tất cả đạo tướng, tất cả các loại tướng và tất cả pháp.

- Đạo tướng trí: Là cộng trí của đại Bồ Tát. Đại Bồ Tát nên học tất cả đạo tướng, đó là đạo tướng Thanh văn, đạo tướng Độc giác, đạo tướng Bồ Tát, đạo tướng Như Lai. Các đại Bồ Tát đối với các đạo này thường nên tu học khiến mau viên mãn; tuy khiến đạo này làm việc nên làm, nhưng không khiến chứng thật tế.

- Nhất thiết tướng trí: Là diệu trí bất cộng của các Như Lai Ứng Chánh Đẳng giác. Trí này biết tất cả pháp đều đồng một tướng, đó là tướng tịch diệt. Vì vậy, gọi là Nhất thiết tướng trí. Các hành trạng tướng là biểu tượng các pháp, Như Lai như năng khắp giác biết, vậy nên gọi tên Nhất thiết tướng trí.

 

Phẩm “Phương tiện Thiện Xảo”, quyển 525, Hội thứ III, ĐBN giải thích 3 trí này như sau:

“Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế Tôn thường nói Nhất thiết trí trí tóm lược có ba, đó là Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Ba loại trí này tướng của nó có khác nhau không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nhất thiết trí nghĩa là trí chung của Thanh văn và Độc giác. Đạo tướng trí là trí chung của đại Bồ Tát. Nhất thiết tướng trí là diệu trí riêng của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng giác.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Nhất thiết trí là trí chung của Thanh văn và Độc giác?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nhất thiết trí là pháp môn sai biệt của pháp nội, ngoại. Thanh văn, Độc giác cũng có thể biết rõ pháp môn sai biệt của pháp nội, ngoại nhưng không thể biết tướng của Nhất thiết trí và tất cả loại tướng của tất cả pháp. Nên Nhất thiết trí là trí chung của Thanh văn và Độc giác.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Đạo tướng trí là trí chung của đại Bồ Tát?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nên học biết khắp tướng của tất cả đạo. Nghĩa là tướng của đạo Thanh văn, tướng của đạo Độc giác, tướng của đạo Bồ Tát, tướng của đạo Như Lai. Đối với các đạo này, các đại Bồ Tát luôn tu học để được viên mãn, mặc dù làm cho các đạo này làm việc cần phải làm nhưng không thể làm cho họ chứng thật tế, nên Đạo tướng trí là trí chung của đại Bồ Tát.

(…)Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Nhất thiết tướng trí?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vì biết tất cả pháp đồng một tướng, đó là tướng tịch diệt, cho nên gọi là Nhất thiết tướng trí. Lại nữa, này Thiện Hiện! Các hành tướng trạng có thể tiêu biểu các pháp. Như Lai như thật năng khắp giác biết được, vậy nên gọi là Nhất thiết tướng trí”.

Hai đoạn kinh trên có thể cho chúng ta biết đại cương ba trí này, tự điển Phật Quang chú giải ba trí này trong phẩm Thích tam tuệ trong luận Đại trí độ, quyển 84 như sau: 1- Nhất thiết trí: Trí biết rõ cái tướng chung của tất cả các pháp. Cái tướng chung ấy chính là Không tướng. Trí này là trí của hàng Thanh văn, Duyên giác. 2- Đạo chủng trí (cũng gọi Đạo chủng tuệ, Đạo tướng trí): Trí biết rõ tướng riêng của tất cả các pháp. Cái tướng riêng ấy tức là các thứ đạo pháp sai biệt. Trí này là trí của hàng Bồ Tát. 3- Nhất thiết chủng trí (cũng gọi Nhất thiết tướng trí, Nhất thiết trí trí): Tức trí biết rõ suốt tướng chung và tướng riêng, đó là Phật trí.

Nhất thiết trí trí (chữ Phạm: Sarvajĩa-jĩàna, Hán âm: Tát bà nhã na): Chỉ cho trí tuệ của đức Phật. Nhất thiết trí là trí chung của Thanh văn, Duyên giác và Phật. Nhưng trí của Phật là trí thù thắng nhất trong tất cả trí. Nên ở đây, nhằm phân biệt với trí của Thanh văn, Duyên giác mà gọi trí của Phật là Nhất thiết trí trí.

 

28. TU HÀNH 32 TƯỚNG ĐẠI SĨ, TU HÀNH 80 VẺ ĐẸP:

 

Phẩm “Các Tướng Công Đức”, quyển 380, Hội thứ I, ĐBN Ngài Huyền Trang, ghi:

 

1- Tu hành ba mươi hai tướng đại sĩ:

 

“Những gì là 32 tướng Đại sĩ của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác?

Này Thiện Hiện! Dưới bàn chân Thế Tôn có tướng bằng thẳng, đầy đặn, đẹp đẽ, vững vàng, giống như đáy hộp, đất tuy cao thấp, tùy theo chỗ bước chân đạp xuống đều bằng phẳng, không có chỗ nào chẳng tiếp xúc, đó là tướng thứ nhất. Dưới bàn chân Thế Tôn có các tướng xoáy tròn như bánh xe có ngàn nan hoa, cái nào cũng tròn đầy, đó là tướng thứ hai. Tay chân Thế Tôn đều mềm mại như tơ lụa, đẹp hơn tất cả, đó là tướng thứ ba. Tay chân Thế Tôn ở giữa mỗi ngón, giống như nhạn vương, đều có màng màu vàng dính liền nhau, vằn như thêu họa, đó là tướng thứ tư. Tay chân Thế Tôn có các ngón tròn đầy đặn thon dài rất khả ái, đó là tướng thứ năm. Gót chân Thế Tôn dài rộng tròn đầy tương xứng với mu bàn chân, hơn các hữu tình khác, đó là tướng thứ sáu. Mu bàn chân Thế Tôn cao dày đầy đặn, mềm mại đẹp đẽ, tương xứng với gót chân, đó là tướng thứ bảy. Hai đùi Thế Tôn thon tròn dần như đùi nai chúa Ế nê tà tiên, đó là tướng thứ tám. Đôi cánh tay Thế Tôn dài thẳng tròn đều như vòi voi chúa, đứng thẳng chấm gối, đó là tướng thứ chín. Âm tướng ẩn tàng, giống như của long mã, cũng như tượng vương, đó là tướng thứ mười. Lỗ chân lông Thế Tôn mỗi lỗ mọc một sợi lông, mềm mại xanh biếc, xoay về bên phải, đó là tướng thứ mười một. Tóc lông Thế Tôn đều thẳng vươn lên, xoay về phía mặt, mềm mại xanh biếc, rất dễ mến, đó là tướng thứ mười hai. Da trên thân Thế Tôn mịn màng, trơn láng, bụi nước v.v… đều chẳng thể bám được, đó là tướng thứ mười ba. Da trên thân Thế Tôn màu chơn kim, chói sáng rực rỡ, như đài vàng đẹp đẽ trang nghiêm bằng các thứ báu ai cũng ưa nhìn, đó là tướng thứ mười bốn. Trong lòng hai bàn chân, hai bàn tay, cổ và hai vai của Thế Tôn bảy chỗ đều đầy đặn, đó là tướng thứ mười lăm. Vai ót Thế Tôn tròn đầy đẹp đẽ, đó là tướng thứ mười sáu. Hai nách Thế Tôn đều đầy đặn, đó là tướng thứ mười bảy. Dung nghi Thế Tôn trang nghiêm viên mãn, đó là tướng thứ mười tám. Thân tướng Thế Tôn cao lớn đoan nghiêm, đó là tướng thứ mười chín. Thể tướng Thế Tôn cân đối, chung quanh tròn đầy như Nặc cù đà, đó là tướng thứ hai mươi. Cằm ngực và nửa thân trên của Thế Tôn oai dung rộng lớn, như sư tử chúa, đó là tướng thứ hai mươi mốt. Thường quang Thế Tôn mỗi phía một tầm, đó là tướng thứ hai mươi hai. Tướng răng Thế Tôn bốn mươi chiếc, bằng đều, sạch khít, chân sâu, trắng như tuyết du kha, đó là tướng thứ hai mươi ba. Bốn răng của Thế Tôn trắng trong nhọn sắc, đó là tướng thứ hai mươi bốn. Thế Tôn thường được thượng vị trong các vị, vì mạch hầu thẳng nên có thể dẫn thượng vị có ở các mạch chi tiết trong thân, bệnh phong, đàm, nhiệt chẳng thể xen vào, do bệnh kia chẳng xen tạp nên mạch lìa các chứng trầm phù, hoãn, gấp, tổn, hoại, ung, khúc v.v... có thể nuốt thẳng xuống họng, dịch vị lưu thông cho nên thân tâm sảng khoái, thường được thượng vị, đó là tướng thứ hai mươi lăm. Tướng lưỡi Thế Tôn mỏng sạch rộng dài, có thể che cả khuôn mặt, đến mé tai, đuôi tóc, đó là tướng thứ hai mươi sáu. Phạm âm Thế Tôn phát lời êm ái, phong nhã, lan rộng, tùy chúng nhiều, ít, không ai mà chẳng nghe tiếng ấy rền lớn giống như trống trời, phát lời uyển chuyển ngắn gọn như tiếng chim Tần già, đó là tướng thứ hai mươi bảy. Lông mi Thế Tôn giống như mi trâu chúa, xanh biếc, bằng thẳng chẳng rối, đó là tướng thứ hai mươi tám. Tròng mắt Thế Tôn xanh biếc trong trắng, có vòng hồng xen lẫn, trong sáng phân minh, đó là tướng thứ hai mươi chín. Khuôn mặt Thế Tôn giống như mặt trăng tròn đầy, tướng mày sáng sạch, như cái cung Thiên đế, đó là tướng thứ ba mươi. Giữa chặng mày Thế Tôn có tướng lông trắng, mềm mại như tơ lụa uốn về phía phải, trong sáng trắng đẹp như tuyết du kha, đó là tướng thứ ba mươi mốt. Trên đỉnh Thế Tôn có cục thịt nổi cao tròn trịa giống như lọng trời, đó là tướng thứ ba mươi hai”.

 

2- Tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc:

 

“Này Thiện Hiện! Móng tay Thế Tôn hẹp dài mỏng mềm, sáng trong sạch đẹp như hoa đồng đỏ, đó là vẻ đẹp thứ nhất. Các ngón tay, chân Thế Tôn tròn, nhọn, dài, ngay thẳng mềm mại, chẳng thấy đốt lóng, đó là vẻ đẹp thứ hai. Tay chân Thế Tôn ở giữa các ngón đều đầy khít, như nhau không khác, đó là vẻ đẹp thứ ba. Tay chân Thế Tôn tròn đầy như ý, mềm sạch sáng mịn, sắc như hoa sen, đó là vẻ đẹp thứ tư. Gân mạch Thế Tôn kết cấu chắc chắn, ẩn sâu chẳng thấy, đó là vẻ đẹp thứ năm. Hai mắt cá Thế Tôn đều ẩn chẳng hiện, đó là vẻ đẹp thứ sáu. Thế Tôn bước đi thẳng tới thong thả như long, tượng chúa, đó là vẻ đẹp thứ bảy. Thế Tôn bước đi, oai dung nghiêm chỉnh, như sư tử chúa, đó là vẻ đẹp thứ tám. Thế Tôn bước đi thong thả, bình an, chẳng dài chẳng ngắn giống như trâu chúa, đó là vẻ đẹp thứ chín. Thế Tôn bước đi, tới dừng đúng phép, giống như ngỗng chúa, đó là vẻ đẹp thứ mười. Thế Tôn ngó lại luôn quay sang hữu, giống như long, tượng chúa, toàn thân chuyển theo, đó là vẻ đẹp thứ mười một. Lóng đốt Thế Tôn, thứ lớp tròn trịa, xếp đặt khéo léo, đó là vẻ đẹp thứ mười hai. Lóng xương Thế Tôn giao kết không hở, giống như long bàng, đó là vẻ đẹp thứ muời ba. Bánh xe đầu gối Thế Tôn xếp đặt khéo léo, chắc chắn đầy đủ, đó là vẻ đẹp thứ mười bốn. Chỗ kín của Thế Tôn vân vẻ đẹp đẽ, oai thế đầy đủ, viên mãn thanh tịnh, đó là vẻ đẹp thứ mười lăm. Thân Thế Tôn nhuận trơn, mềm mại, sáng láng sạch đẹp, bụi bậm chẳng dính, đó là vẻ đẹp thứ mười sáu. Dung mạo Thế Tôn đôn hậu nghiêm túc không sợ, thường chẳng khiếp nhược, đó là vẻ đẹp thứ mười bảy. Thân Thế Tôn chắc chắn dày, nặng, thiện tướng hòa nhau, đó là vẻ đẹp thứ mười tám. Thân Thế Tôn an định, đầy đặn, chẳng từng lay động, viên mãn không hoại, đó là vẻ đẹp thứ mười chín. Thân tướng Thế Tôn giống như chúa tiên, toàn thân đoan nghiêm, sáng sạch, không u ám, đó là vẻ đẹp thứ hai mươi. Thân Thế Tôn có có vầng sáng chung quanh, khi đi lại thường tự chiếu sáng, đó là vẻ đẹp thứ hai mươi mốt. Bụng Thế Tôn vuông vắn, không thiếu, mềm mại chẳng lộ, các tướng trang nghiêm, đó là vẻ đẹp thứ hai mươi hai. Rốn Thế Tôn sâu, xoắn về phía hữu, tròn đẹp, sạch sẽ, sáng láng, đó là vẻ đẹp thứ hai mươi ba. Rốn Thế Tôn dày, chẳng lõm chẳng lồi, chung quanh đẹp đẽ, đó là vẻ đẹp thứ hai mươi bốn. Da Thế Tôn không có ghẻ ngứa, cũng không ghẻ ruồi, bướu v.v... các bệnh, đó là vẻ đẹp thứ hai mươi lăm. Bàn tay Thế Tôn đầy đặn mềm mại, lòng bàn chân bằng phẳng, đó là vẻ đẹp thứ hai mươi sáu. Vân tay Thế Tôn sâu, dài, rõ, thẳng, tươi nhuận, chẳng đứt đoạn, đó là vẻ đẹp thứ hai mươi bảy. Sắc môi Thế Tôn sáng nhuận đỏ tươi như quả tần bà, trên dưới tương xứng, đó là vẻ đẹp thứ hai mươi tám. Diện môn Thế Tôn chẳng dài chẳng ngắn, chẳng lớn chẳng nhỏ, vừa vặn trang nghiêm, đó là vẻ đẹp thứ hai mươi chín. Tướng lưỡi Thế Tôn mềm mại, rộng dài, màu như đồng đỏ, đó là vẻ đẹp thứ ba mươi. Thế Tôn phát tiếng oai lực rền vang, sâu xa, như voi chúa rống, rõ ràng, trong suốt, đó là vẻ đẹp thứ ba mươi mốt. Âm vận Thế Tôn êm dịu, tròn đầy, như tiếng vang trong hang sâu, đó là vẻ đẹp thứ ba mươi hai. Mũi Thế Tôn cao, dài mà ngay thẳng, lỗ mũi không lộ, đó là vẻ đẹp thứ ba mươi ba.  Các răng Thế Tôn đều đặn, ngay ngắn trắng đẹp, đó là vẻ đẹp thứ ba mươi bốn. Các răng cửa Thế Tôn tròn trắng sáng sạch, nhọn bén, đó là vẻ đẹp thứ ba mươi lăm. Mắt Thế Tôn sạch sẽ, trong sáng rõ ràng, đó là vẻ đẹp thứ ba mươi sáu. Nhãn tướng Thế Tôn dài rộng giống như lá hoa sen xanh, rất khả ái, đó là vẻ đẹp thứ ba mươi bảy. Mi mắt Thế Tôn trên dưới ngay ngắn, dày rậm chẳng trắng, đó là vẻ đẹp thứ ba mươi tám. Hai mày Thế Tôn dài, chẳng trắng, nhỏ, mềm mại, đó là vẻ đẹp thứ ba mươi chín. Đôi mày Thế Tôn đẹp đẽ thuận chiều, xanh biếc, màu lưu ly, đó là vẻ đẹp thứ bốn mươi. Đôi mày Thế Tôn cao rõ, sáng nhuận, hình như vầng trăng đầu tháng, đó là vẻ đẹp thứ bốn mươi mốt. Tai Thế Tôn dày, rộng, lớn, dài, trái tai tròn trịa, đó là vẻ đẹp thứ bốn mươi hai. Hai tai Thế Tôn tươi đẹp bằng thẳng, không có khuyết tật, đó là vẻ đẹp thứ bốn mươi ba. Dung nghi Thế Tôn có thể khiến người thấy đều sanh kính mến, không tổn, không giảm, đó là vẻ đẹp thứ bốn mươi bốn. Trán Thế Tôn rộng, tròn đầy, bằng phẳng, hình tướng đẹp đẽ, đó là vẻ đẹp thứ bốn mươi lăm. Thân Thế Tôn nửa trên viên mãn, như sư tử chúa, oai nghiêm không ai sánh kịp, đó là vẻ đẹp thứ bốn mươi sáu. Tóc Thế Tôn dài xanh biếc, dày rậm chẳng bạc, đó là vẻ đẹp thứ bốn mươi bảy. Tóc Thế Tôn thơm sạch nhỏ mềm, nhuận mướt, xoắn quanh, đó là vẻ đẹp thứ bốn mươi tám. Tóc Thế Tôn bằng thẳng, không rối, cũng không dính chùm, đó là vẻ đẹp thứ bốn mươi chín. Tóc Thế Tôn bền chắc không đứt, vĩnh viễn không rụng, đó là vẻ đẹp thứ năm mươi. Tóc Thế Tôn trơn mướt đẹp đẽ, bụi bặm chẳng bám, đó là vẻ đẹp thứ năm mươi mốt. Thân Thế Tôn vững vàng đầy đặn hơn thân Na la diên, đó là vẻ đẹp thứ năm mươi hai. Thân Thế Tôn dài lớn ngay ngắn, đó là vẻ đẹp thứ năm mươi ba. Các khiếu Thế Tôn sạch sẽ tròn đẹp, đó là vẻ đẹp thứ năm mươi bốn. Thân chi Thế Tôn thế lực thù thắng, không ai sánh bằng, đó là vẻ đẹp thứ năm mươi lăm. Thân tướng Thế Tôn mọi người ưa nhìn, thường không nhàm chán đó là vẻ đẹp thứ năm mươi sáu. Khuôn mặt Thế Tôn dài rộng đúng chỗ, trong trẻo sáng láng, như ánh trăng tròn mùa thu, đó là vẻ đẹp thứ năm mươi bảy. Nhan mạo Thế Tôn thư thái sáng tỏ, mỉm cười trước khi nói, chỉ hướng thẳng không quay lui, đó là vẻ đẹp thứ năm mươi tám. Diện mạo Thế Tôn sáng láng vui vẻ, không có các khuyết tật như nhăn nheo, xanh, đỏ v.v... đó là vẻ đẹp thứ năm mươi chín. Da Thế Tôn sạch sẽ không bẩn, thường không hôi hám, đó là vẻ đẹp thứ sáu mươi. Các lỗ chân lông trong thân Thế Tôn thường xuất ra mùi hương như ý vi diệu, đó là vẻ đẹp thứ sáu mươi mốt. Diện môn Thế Tôn thường tỏa ra mùi hương tối thượng thù thắng, đó là vẻ đẹp thứ sáu mươi hai. Tướng đầu Thế Tôn tròn trịa đẹp đẽ như quả Mạc đạt na, cũng như lọng trời, đó là vẻ đẹp thứ sáu mươi ba. Lông thân Thế Tôn xanh biếc, sáng sạch như cổ chim công, vẻ đẹp như màu đồng đỏ, đó là vẻ đẹp thứ sáu mươi bốn. Pháp âm Thế Tôn tùy theo chúng lớn nhỏ, chẳng tăng, chẳng giảm, đúng lý không sai, đó là vẻ đẹp thứ sáu mươi lăm. Tướng đỉnh Thế Tôn không thể thấy được, đó là vẻ đẹp thứ sáu mươi sáu. Tay chân Thế Tôn ngón màng phân minh, trang nghiêm đẹp đẽ như màu đồng đỏ, đó là vẻ đẹp thứ sáu mươi bảy. Thế Tôn khi đi, chân cách đất chừng bốn ngón tay mà hiện in dấu, đó là vẻ đẹp thứ sáu mươi tám. Thế Tôn tự giữ vững, không cần người đỡ, thân không chao động, cũng chẳng xiêu ngã, đó là vẻ đẹp thứ sáu mươi chín. Oai đức Thế Tôn chấn động tất cả, kẻ ác tâm thấy thì mừng, người sợ sệt thấy an ổn, đó là vẻ đẹp thứ bảy mươi. Âm thanh Thế Tôn chẳng cao, chẳng thấp, tùy theo chúng sanh, hòa vui ban lời, đó là vẻ đẹp thứ bảy mươi  mốt. Thế Tôn thường tùy theo các loài hữu tình, dùng âm thanh vừa ý, mà vì họ thuyết pháp, đó là vẻ đẹp thứ bảy mươi  hai. Thế Tôn diễn thuyết chánh pháp bằng một âm, tùy theo loài hữu tình khiến đều hiểu rõ, đó là vẻ đẹp thứ bảy mươi ba. Thế Tôn thuyết pháp đều y cứ vào thứ lớp, chắc chắn có nhân duyên, lời nói đều thiện, đó là vẻ đẹp thứ bảy mươi bốn. Thế Tôn quán khắp các loại hữu tình khen ngợi điều thiện, chê bai việc ác, mà không thương ghét, đó là vẻ đẹp thứ bảy mươi  lăm. Thế Tôn làm việc gì, trước quán xét, sau mới làm, đầy đủ khuôn phép, khiến biết thiện tịnh, đó là vẻ đẹp thứ bảy mươi sáu. Tướng tốt Thế Tôn, tất cả hữu tình không có thể thấy hết, đó là vẻ đẹp thứ bảy mươi bảy. Xương ót Thế Tôn cứng chắc tròn đầy, đó là vẻ đẹp thứ bảy mươi tám. Dung nhan Thế Tôn thường trẻ chẳng già, ưa dạo chỗ cũ, đó là vẻ đẹp thứ bảy mươi chín. Tay chân và trước ngực Thế Tôn đều có đức tướng cát tường xoay quanh, vân như thêu họa, sắc giống đá đỏ, đó là vẻ đẹp thứ tám mươi”.

 

29. TU HÀNH QUẢ DỰ LƯU, TU HÀNH QUẢ NHẤT LAI, BẤT HOÀN, A LA HÁN VÀ VÀ QUẢ VỊ ĐỘC GIÁC BỒ ĐỀ:

 

1- Tu hành quả Dự lưu còn gọi là Tu đà hoàn: Dịch nghĩa Dự lưu (hay Nhập lưu, bậc tu hành mới nhập dòng Thánh quả) hay Thất lai: Vị này đã đoạn được kiến hoặc, ý thức sáng suốt không còn mắc phải tà kiến, nhưng thất thức còn chấp ngã nên phải trở lại Dục giới ít nhất bảy lần để đoạn dứt các tư hoặc thầm kín. Dự lưu, Tu đà hoàn hay Thất lai chỉ là một.

 

2- Nhất lai còn gọi là Tu đà hàm: Bậc tu này đã đoạn được hết các kiến hoặc nhưng phải lộn lại Dục giới ít nhất một lần nữa để đoạn trừ sáu phẩm tư hoặc đầu. Bậc này lại chia làm hai bậc nữa là Nhất lai hướng, tức bậc mới chứng nhập và Nhất lai quả, là bậc chứng nhập trọn vẹn.

 

3- Bất hoàn còn gọi là Bất lai hay A na hàm: Sau khi đoạn được 6 phẩm tư hoặc đầu tiên nghĩa là mới đoạn được sáu phẩm thô thiển bên ngoài, còn ba phẩm vi tế bên trong chưa đoạn hết, nhưng không phải trở lại Dục giới mà ở cõi Trời Ngũ tịnh cư thuộc Sắc giới để tu nốt ba phẩm còn lại.

 

4- A la hán, dịch nghĩa Bất sanh còn gọi là Ứng cúng, Phá ác hay Vô sinh: Vị này đã đoạn trừ hết các kiến hoặc của bậc Dự lưu, đọan trừ hết sáu phẩm tư hoặc thô thiển của bậc Nhất lai và ba phẩm tư hoặc vi tế của bậc Bất lai mới trở thành A la hán. Vị nầy không những phá hết các mê lầm nông cạn mà chính những chủng tử thầm kín cũng phá sạch. Trong A lại gia thức không còn những chủng tử chấp ngã, nguồn gốc của những phiền não tập khí nối nhau, nguồn gốc luân hồi sanh tử nữa. Theo Thanh văn thừa thì quả vị này là cao nhất, là Niết bàn giải thoát.

A la hán lại chia thành sáu bậc:

1/. Thối pháp A la hán: Khi gặp nghịch duyên có thể sanh phiền não, thối chuyển đạo tâm, đánh mất chỗ sở đắc;

2/. Tư pháp A la hán: Tuy được giải thoát nhưng thường lo sợ sự thối chuyển, thường nghĩ cách tự đoạn dứt mạng sống;

3/. Hộ pháp A la hán: Được giải thoát rồi thì hoan hỷ phòng hộ chỗ chứng đắc của mình;

4/. An trụ pháp A la hán: Đạt được giải thoát và trụ yên vững vàng, không cần phòng hộ cũng không có thối chuyển, nhưng không được tăng tiến;

5/. Kham đạt pháp A la hán: Đạt được giải thoát và đủ sức nhận lãnh giáo pháp cao siêu, tu tập tinh tấn để đạt đến quả vị rốt ráo;

6/. Bất động pháp A la hán: Đạt được giải thoát rốt ráo và vững vàng không thể xao động, không thể lay chuyển, hay thối thất.

Lưu ý: Kinh Đại Bát Nhã hay Kinh Ma Ha Bát nhã Ba la mật thường đề cập đến hướng và quả của các giai vị tu hành của Tiểu Thừa, nên chúng tôi có ghi thêm vào đây ý nghĩa của chúng theo phần V, mục XXVI, “Chú Giải Các Thuật Ngữ Trong Trung Luận”(Lịch sử tư tưởng và triết học Tánh Không của TT. Thích Tâm Thiện):

 

- Tứ quả: Là bốn địa vị tâm chứng của hàng Thanh Văn, bao gồm:

1/. Tu Đà Hoàn: còn gọi là Nhập lưu, Nghịch lưu, Dự lưu, Thất lai…tất cả đều có cùng nghĩa là tham dự vào dòng Thánh (đi ngược dòng sinh tử), đoạn trừ kiến hoặc.

2/. Tư Đà Hàm: Nhất lai, một lần nữa trở lại dòng sinh tử, đoạn trừ một phần tư hoặc.

3/. A Na Hàm: Bất lai, không còn trở lại sinh tử nữa.

4/. A La Hán: Vô sinh, vĩnh viễn không còn trôi lăn trong sinh tử vì đã đoạn tuyệt kiến hoặc và tư hoặc, vượt khỏi tam giới.

 

- Tứ hướng: Con đường dẫn vào bốn quả vị trên gọi là tứ hướng(bốn hướng); sự vượt qua bốn quả vị này gọi là vượt dòng (vượt bộc lưu), gồm có 4 dòng:

1/. Dục bộc lưu: Vượt qua dòng tham sân si (ở cõi Dục).

2/. Hữu bộc lưu: Vượt qua dòng tham, mạn (ở cõi Sắc và Vô Sắc).

3/. Kiến bộc lưu: Vượt qua dòng “tà kiến” trong ba cõi (Dục, Sắc, Vô Sắc).

4/. Vô minh bộc lưu: Vượt qua dòng vô minh, đạt đến cứu cánh Niết bàn.

 

5- Tu hành quả vị Độc giác Bồ đề hay còn gọi là:

Phật Bích chi, cũng gọi là Bích chi ca, dịch nghĩa là Duyên giác, Độc giác. Phật Bích chi là vị sanh ra nhằm lúc không có Phật ra đời, nhờ quán xét mười hai nhân duyên mà được giác ngộ, nên cũng được gọi là Duyên giác. Vì tự mình tu học vào thời không có Phật, đạt được giải thoát và nhập Niết bàn nên còn gọi là Độc giác.

Đoạn kinh ở phẩm “Các Tướng Công Đức”, quyển 380 nói trên không liệt kê đầy đủ pháp quán mười hai nhân duyên, tuy nhiên pháp tu này thường xuyên được nhắc đến hầu hết ở 24 tập Đại Bát Nhã. Đây là pháp tu chánh của Bích Chi Phật, Độc Giác hay Duyên Giác thuộc Trung Thừa. Không liệt kê 12 nhân duyên trong các pháp môn Phật học là một điều thiếu sót to lớn.

Vậy mười hai nhân duyên là gì?

Mười hai nhân duyên cũng gọi Thập nhị chi duyên khởi, Thập nhị nhân duyên khởi, Thập nhị duyên khởi, Thập nhị duyên sinh, Thập nhị duyên môn, Thập nhị nhân sinh. Chỉ cho 12 điều kiện (tức 12 Hữu chi) cấu thành sự sinh tồn của loài hữu tình. Giáo nghĩa căn bản này, gồm các thành tố: 1. Vô Minh, 2. Hành, 3. Thức, 4. Danh sắc, 5. Lục nhập, 6. Xúc, 7. Thọ, 8. Ái, 9. Thủ, 10. Hữu, 11. Sanh, 12. Lão Tử.

Phẩm thứ nhất, tập 1, quyển 5, “Khéo Thuyết Các Pháp Nhân Duyên”. Đại Trí Độ Luận thuyết về 12 Nhân duyên như sau:

“Hết thảy các phiền não gọi là Vô minh. Từ vô minh sanh ra nghiệp và nghiệp quả, có thể tạo thành quả cho một thế giới nên gọi là Hành. Từ hành sanh ra tâm cấu hay tịnh, rồi hình thánh các thân đầu tiên như trâu nghé biết trâu mẹ là mẹ của mình, chúng sanh biết được tự tướng của chính mình, đó là nhờ Thức. Mặc dù trong 5 ấm, Thức cùng với Thọ, Tưởng, Hành đều là vô sắc, nhưng thức lại trú nới sắc, nên mới có Danh sắc. Ở nơi Danh và Sắc sẽ sanh ra 6 tình là Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và Ý. 6 tình còn gọi là 6 Nhập.  Khi Căn, Trần và Thức hòa hợp, thì sanh ra Xúc. Từ Xúc sanh ra Thọ. Ở nơi Thọ mà có đắm trước, thì gọi là khác Ái. Do nhân duyên khác Ái mà có mong cầu, nên mới sanh ra Thủ. Do có Thủ nên mà tạo nghiệp cho nhân đời sau, nên gọi là Hữu. Do Hữu mà thọ 5 ấm cho đời sau, nên có Sanh. Đã có thân 5 ấm Sanh ra, thì sẽ có già, có chết tức là có Lão Tử vậy. Do sợ già sợ chết mà sanh khởi ưu sầu, khổ não. Thế rồi, các khổ não lại hòa hợp, triển chuyển, mãi mãi.

Nếu nhất tâm quán thật tướng các pháp thì được thanh tịnh, sẽ dứt được Vô minh.  Khi Vô minh dứt thì các Hành cũng dứt theo, dẫn đến các thứ khổ đều tận dứt”.

 

Bên cạnh đó, xưa nay Thập Nhị Nhân Duyên được thuyết với tính cách nhân quả lưỡng trùng nên có tên là Nghiệp Cảm Duyên Khởi (業感). Trong đó, thực chất Vô Minh, Hành —2 nhân của quá khứ —không khác gì với Ái, Thủ, Hữu —3 nhân của hiện tại; Thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ —5 quả của hiện tại —cũng chẳng khác gì Sanh, Lão tử —2 quả của tương lai; chỉ khác nhau qua tên gọi mà thôi, và tất cả đều sanh khởi trong một tâm. Hơn nữa, trong Đại Thừa có lập ra Ba Thừa, Thanh Văn Thừa thì ngộ nhờ lý Tứ Đế, Bát Chánh Đạo; Duyên Giác Thừa thì quán Thập Nhị Nhân Duyên để khai ngộ; Bồ Tát Thừa thì thực hành Lục Độ Ba La Mật để thành Bồ Tát, Phật. Thuyết Duyên Khởi thông cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa, là tư tưởng căn bản của Phật Giáo. Tuy nhiên, thuyết này không những được xem như là mối quan hệ nhân quả về mặt thời gian như Nghiệp Cảm Duyên Khởi, mà còn là mối quan hệ luận lý tương quan tương duyên lẫn nhau. - Phỏng theo Phật học Tinh tuyển.

Các bậc tu hành khi quan sát sự tuần hoàn của vũ trụ, thấy vạn hữu sinh diệt trong một chu kỳ từ vô minh, hành, thức, danh sắc… cho tới sanh, lão tử. Sự sanh diệt đó tuân theo một chu kỳ nhất định. Vô minh sanh hành, hành sanh thức, thức sanh lục nhập… cho tới lão tử. Đó là vòng luân hồi tạo nên bởi những nhân và duyên gây đau khổ bất tận cho chúng sanh. Quán theo chiều sinh khởi là quán theo Lưu chuyển môn. Nếu vô minh sanh thì hành sanh, nếu hành sanh thì thức sanh, nếu thức sanh thì danh sắc sanh... cho đến nếu sanh sanh thì lão tử sanh. Muốn chấm dứt những mắc xích nối nhau của vòng nhân duyên này để đạt được khai ngộ, thì người ta phải chặt đứt một trong mười hai mắc xích của nó. Trong 12 mắc xích này, mắc xích trước là nhân sanh khởi của mắc sau, nếu mắc trước diệt thì mắc sau cũng diệt, bởi thế kinh nói: Do đây có nên kia có, đây sanh nên kia sanh; (...) do đây không nên kia không, đây diệt nên kia diệt... Nếu vô minh diệt thì hành diệt, nếu hành diệt thì thức diệt, nếu thức diệt thì danh sắc diệt… cho đến sanh diệt thì lão tử diệt. Đấy là quán theo Hoàn diệt môn.

Bậc tu hành quán tưởng như thế theo hai chiều thuận nghịch cho đến thuần thục, chặt đứt được vòng luân hồi này thì coi như giải thoát. Đó chính là các bậc Độc Giác, còn gọi là Duyên giác hay Bích Chi Phật.

 

30. TU HÀNH BỒ TÁT HẠNH:

 

- Phẩm “Bồ Tát Hạnh”, quyển 464, Hội thứ II, ĐBN, nói về Bồ Tát hạnh như sau:

Huệ mạng Tu Bồ Đề lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bồ Tát thường hành hạnh Bồ Tát, vậy pháp nào gọi là hạnh Bồ Tát?

Phật bảo: Tu Bồ Đề! Bồ Tát hành hạnh Bồ Tát là vì trên cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề dưới nguyện độ tất cả chúng sanh.

Huệ mạng Tu Bồ Đề thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát Ma ha tát phải đối chỗ nào hành hạnh Bồ Tát?

Phật nói: Tu Bồ Đề! Các Bồ Tát Ma ha tát phải đối sắc thọ tưởng hành thức(1) không hành hạnh Bồ Tát.

Phải đối nhãn xứ cho đến ý xứ không hành hạnh Bồ Tát. Phải đối sắc xứ cho đến pháp xứ không hành hạnh Bồ Tát. Phải đối nhãn giới cho đến ý giới không hành hạnh Bồ Tát. Phải đối sắc giới cho đến pháp giới không hành hạnh Bồ Tát. Phải đối nhãn xúc cho đến ý xúc không hành hạnh Bồ Tát. Phải đối nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không hành hạnh Bồ Tát (2).

Phải đối địa giới cho đến thức giới không hành hạnh Bồ Tát. Phải đối nhân duyên cho đến tăng thượng duyên không hành hạnh Bồ Tát. Phải đối vô minh cho đến lão tử không hành hạnh Bồ Tát.

Phải nương bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật hành hạnh Bồ Tát. Phải nương nội không cho đến vô tánh tự tánh Không, hành hạnh Bồ Tát. Phải nương chơn như cho đến bất tư nghì giới hành Bồ Tát hạnh.

Phải nương khổ tập diệt đạo thánh đế hành hạnh Bồ Tát. Phải nương tứ niệm xứ cho đến tám thánh đạo chi hành hạnh Bồ Tát. Phải nương bốn tĩnh lự hành hạnh Bồ Tát, phải nương bốn vô lượng hành hạnh Bồ Tát, phải nương bốn vô sắc định hành hạnh Bồ Tát. Phải nương tám giải thoát hành hạnh Bồ Tát, phải nương tám thắng xứ hành hạnh Bồ Tát, phải nương chín thứ đệ định hành hạnh Bồ Tát, phải nương mười biến xứ hành hạnh Bồ Tát.

Phải nương ba giải thoát hành hạnh Bồ Tát. Phải nương Thập địa hành hạnh Bồ Tát. Phải nương tất cả Đà la ni môn hành hạnh Bồ Tát, phải nương tất cả Tam ma địa môn hành hạnh Bồ Tát. Phải nương năm nhãn hành hạnh Bồ Tát, phải nương sáu thần thông hành hạnh Bồ Tát.

Phải nương Như Lai 10 lực hành hạnh Bồ Tát, phải nương 4 vô sở úy hành hạnh Bồ Tát, phải nương đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả hành hạnh Bồ Tát, phải nương mười tám pháp Phật bất cộng hành hạnh Bồ Tát. Phải nương pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả hành hạnh Bồ Tát.

Phải nương Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí hành hạnh Bồ Tát. Phải nương nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình hành hạnh Bồ Tát.

Phải nương dẫn phát văn tự Đà la ni hành hạnh Bồ Tát, phải nương ngộ vào văn tự Đà la ni hành hạnh Bồ Tát. Phải nương dẫn phát vô ngại biện tài hành hạnh Bồ Tát. Phải nương hữu vi giới hành hạnh Bồ Tát, phải nương vô vi giới hành hạnh Bồ Tát.

Tu Bồ Đề! Các Bồ Tát Ma ha tát khi tu hành Bồ Tát hạnh như thế, như Phật Vô thượng Bồ đề đối trong các pháp chẳng tác hai tướng.

Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã như thế, gọi là Vô thượng Bồ đề tu Bồ Tát hạnh. Tu Bồ Đề! Các Bồ Tát Ma ha tát nếu năng tu Bồ Tát hạnh được như thế, mau chứng Vô thượng Bồ đề”.

 

- Phẩm “Phương Tiện Thiện Xảo” quyển 526, Hội thứ III, ĐBN. Tu Bồ Đề lại thưa Phật rằng:

Như Lai thường nói Bồ Tát hạnh. Những gì gọi là Bồ Tát hạnh?

Phật bảo: Tu Bồ Đề! Hạnh Bồ Tát, nghĩa là vì Vô thượng Bồ đề nên hành, hoặc vì nhiêu ích các hữu tình nên hành, nên gọi Bồ Tát hạnh.

Huệ mạng Tu Bồ Đề lại thưa Phật rằng: Các Bồ Tát Ma ha tát phải đối chỗ nào hành hạnh Bồ Tát?

Phật bảo: Tu Bồ Đề! Các Bồ Tát Ma ha tát nên đối sắc không hành hạnh Bồ Tát, nên đối thọ tưởng hành thức không hành hạnh Bồ Tát. Nói rộng cho đến nên đối Nhất thiết trí không hành hạnh Bồ Tát; nên đối Đạo tướng trí không, Nhất thiết chủng trí không hành hạnh Bồ Tát. Đối nghiêm tịnh cõi Phật không hành hạnh Bồ Tát. Đối thành thục hữu tình không hành hạnh Bồ Tát. Đối dẫn phát biện tài Đà la ni không hành hạnh Bồ Tát. Đối dẫn phát văn tự Đà la ni không hành hạnh Bồ Tát. Đối ngộ vào văn tự Đà la ni không hành hạnh Bồ Tát. Đối ngộ vào vô văn tự Tam ma địa không hành hạnh Bồ Tát. Đối hữu vi giới không hành hạnh Bồ Tát. Đối vô vi giới không hành hạnh Bồ Tát. Tu Bồ Đề phải biết: Các Bồ Tát Ma ha tát khi tu hành hạnh Bồ Tát như thế, chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề đối trong các pháp chẳng tác hai tướng. Tu Bồ Đề phải biết: Các Bồ Tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế gọi là vì Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề và vì hữu tình hành Bồ Tát hạnh”.

Hai đoạn kinh này phần trên tương ứng với nhau, khi nói: “Bồ Tát đối với sắc không nên hành Bồ Tát hạnh, đối với thọ tưởng hành thức không hành Bồ Tát hạnh”. Điều đó cũng dễ hiểu, vì ngũ uẩn còn gọi là ngũ che, nó che đậy tánh giác, nên không vì nó mà hành Bồ Tát hạnh. Nhưng phần sau của hai đoạn kinh này lại có vẻ như mâu thuẫn nhau. Một đàng nói phải nương theo tất cả pháp Phật từ lục Ba la mật cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí v.v… hành Bồ Tát hạnh. Đàng khác, Phật bảo Tu Bồ Đề đối với Nhất thiết trí. Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí v.v… không hành Bồ Tát hạnh. Nhưng không nương nhờ tất cả pháp mầu Phật đạo thì làm sao trở thành Bồ Tát; không tu không hành tất cả Phật pháp làm sao đắc quả Bồ đề. Không nương nhờ, không trông cậy cũng không tu không hành gọi là vô đạo hành tức không mong cầu, nắm bắt là hành Bồ Tát hạnh. Đó là giáo lý Tánh Không mà chúng ta có dịp học hỏi ở phần thứ II và phần thứ III Tổng luận.

Thích nghĩa:

(1). Sắc thọ tưởng hành thức: Đây là những khái niệm căn bản trong Phật học, thường thấy ở trong bất cứ kinh điển và văn chương Phật học… mà bất cứ Phật tử nào cũng cần phải biết. Sắc thọ tưởng hành thức không phải là những khái niệm khoa học hay một trạng thái của khoa Tâm lý học thường nghiệm. Nó chỉ là những phân tích cốt diễn tả những cảm quan và ý thức sâu kín của con người mà chỉ có Phật kiến chiếu vào tự thể ở giây phút chứng ngộ phát hiện. Sắc thọ tưởng hành thức còn gọi là ngũ uẩn, ngũ che... vì nó tạo nhiều phiền não phức tạp trong cuộc sống thế tục. Sở dĩ, Phật tính của mỗi người không thể hiển lộ được là vì chúng làm trở ngại:

- Sắc hay sắc tướng chỉ chung những biểu hiện nhận biết được từ vật chất, gồm cả năm căn (mắt tai mũi lưỡi thân), năm trần (hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm) và những vật hữu hình.

- Thọ tức cảm thọ sanh ra do sự tiếp xúc giữa tâm và cảnh và tùy theo sự tiếp xúc đó mà con người có cảm giác vui buồn, sướng khổ hay trung tính (không sướng không khổ…).

- Tưởng là tưởng tượng, những khái niệm này phát sanh từ đối tượng do sự tiếp xúc giữa căn và trần như đen, trắng, nhỏ, to, dài, ngắn, đàn ông, đàn bà...

- Hành là sự tạo tác của ba nghiệp thân, khẩu và ý, khi căn tiếp xúc với trần cảnh khởi tâm ham muốn hoặc giận ghét...

- Thức là khả năng nhận thức, phân biệt. Có 6 thức (nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý thức, trong Duy Thức Học còn thêm 3 thức nữa là Mc na thức, A lại gia thức và A đà na thức).

 

Tóm lại cho dễ hiểu năm uẩn tức là thân thể (sắc), cảm giác (thọ), tri giác (tưởng), tâm hành (hành), và nhận thức (thức). Phẩm “Vấn Tướng” và phẩm “Tu Tập đúng”, MHBNBLMĐ nói “tướng não hoại là tướng của sắc, cảm giác là tướng của thọ, duyên lấy tướng là tướng của tưởng, sanh khởi tạo tác là tướng của hành, liễu biệt là tướng của thức”. Chính năm thứ nầy làm cho chúng sanh rơi vào luân hồi sanh tử, nếu lìa năm thứ nầy, tức là xa lánh ngoại duyên chính là giải thoát. Nên Niết Bàn kinh nói: “Dứt hết sắc tướng vô thường mà được chân sắc thường trụ; dứt hết thọ tưởng hành thức vô thường mà được thọ tưởng hành thức thường trụ”.

(2). Nghĩa là đối tất cả uẩn xứ giới không hành hạnh Bồ Tát. Uẩn hay ngũ ấm đã giải thích ở trên. Xứ gồm sáu căn (lục nhập) là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý hợp với sáu trần (ngoại nhập) là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tạo thành 12 xứ thường thấy trong văn chương Phật học. Ý nghĩa quan trọng của 12 xứ là nói lên sự tương quan mật thiết giữa con người và thế giới, hay nói một cách dễ hiểu hơn, là cách nhận thức của con người đối với thế giới khách quan, thông qua sáu cơ năng khác nhau để nhận thức sáu cảnh giới khác nhau, như mắt chỉ có thể nhận thức được hình tướng màu sắc, nhưng mắt không thể nghe được âm thanh, các cơ quan khác cũng thế. Mười hai xứ này còn mang ý nghĩa bao hàm tất cả pháp trên thế gian, không một pháp nào ngoài nó, do vậy chúng là tất cả pháp. Đề cập mười hai xứ này cũng có nghĩa là đề cập đến tất cả pháp. Giới gồm 6 căn cộng 6 trần cộng 6 thức(nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức) thành 18 giới. Vì trần cảnh là cái lao xao, sinh diệt, vô thường, biến hoại… Nên tu phải ly trần để trở về tánh giác. Vì vậy, kinh nói đối với uẩn xứ giới không hành hạnh Bồ Tát!

Lại nữa, vì thức đại gồm nhiếp trong 6 thức, kiến đại gồm nhiếp trong 6 căn, ngũ đại gồm nhiếp trong 6 trần. Tóm lại, bảy đại, mười tám giới đều gồm trong sáu căn. Nên Phật nói “Sinh tử hay an lạc đều do 6 căn nầy”.

Lưu ý: Để sáng tỏ, chúng tôi ghi thêm vào đây ý nghĩa của Căn, Trần, Thức, Giới, phần V, mục XXVII, “Chú Giải Các Thuật Ngữ Trong Trung Luận”, trong cuốn “Lịch sử tư tưởng và triết học Tánh Không” của Thích Tâm Thiện:

Tất cả nhân sinh quan, vũ trụ quan Phật giáo đều được xây dựng trên sáu căn, sáu trần, sáu thức, 12 xứ, 18 giới. Con người không thể tồn tại nếu không có căn, trần và thức. Căn là cái để con người tiếp xúc với trần cảnh. Trần cảnh là môi trường sống. Còn thức là cái để con người chọn lựa cách sống qua cảm quan và nhận thức của mình. Do đó, mới có ngũ uẩn, còn gọi là ngũ che, vì nó che mất tánh giác, làm cho con người sướng khổ, vui buồn… mà quên đi cái Chân như thật tánh.

“Trước hết, chúng ta thấy rằng trong nội dung của 12 nhân duyên, các chi phần danh sắc, lục nhập và xúc chính là điểm nối kết, nương tựa lẫn nhau để tạo nên dòng vận hành bất tận của con người và vũ trụ hay thế giới thực tại khách quan, mà thuật ngữ gọi là các uẩn (skandha), xứ (ayatana) và giới (dhàtu). Uẩn là tổ hợp của các thành tố là sắc (vật lý), thọ, tưởng, hành và thức (tâm lý). Xứ là các điểm tựa, nơi chốn; để qua đó, tri giác hình thành, bao gồm 6 nội xứ (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thức) cộng với 6 ngoại xứ (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), còn gọi là 6 trần. Giới là cõi sống, là sinh địa của chúng sinh, bao gồm: Cõi Dục, cõi Sắc và Vô sắc. Ở đây, trong phạm vi nhân sinh, chỉ nói đến cõi Dục, tức thế giới hiện hành mà con người đang sinh sống; bao gồm 6 căn, 6 trần, 6 thức, cộng chung lại thành 12 xứ hay 18 giới. Như thế, nhân sinh quan và vũ trụ quan Phật giáo được hình thành ngay trên cơ sở Duyên khởi (xúc - giao tiếp, tiếp xúc, kết hợp...) của 18 giới, với sự điều động của cả danh (tâm lý) và sắc (vật lý). Và do đó, những gì được xây dựng trên và trong cơ sở này đều phải chịu sự chi phối của khổ, vô thường, vô ngã. Ở đây, các quan niệm về thần linh, Thượng đế, huyền học v.v... đều được gác sang một bên. Và tất nhiên, mọi kiến giải nào về nhân sinh quan, vũ trụ quan, nếu không dựa trên cơ sở này, đều không phải là Phật giáo, cho dầu có mệnh danh là Phật giáo”.

Đó là tất cả những gì được gọi là tâm và vật, thân căn và khí thế gian, nhân sinh quan và vũ trụ quan nhờ đó chúng ta xác định được vị trí của chúng ta trong cõi sống này. Chúng ta cảm ơn đạo Phật, đã phát minh ra những “khái niệm” sinh động này giúp chúng ta hiểu biết ta là ai, hữu tình hay vô tình, nhơ hay sạch, khổ hay vui, phàm hay thánh... để từ đó rút ra kinh nghiệm sống là tìm lấy hạnh phút cho chính mình cũng như chia sẻ hạnh phút đó với các chúng sanh khác!

 

31. TU HÀNH QUẢ VỊ GIÁC NGỘ TỐI CAO CỦA CHƯ PHẬT:

 

Đạt quả vị Tội cao thì được gọi là Phật hay Phật đà (C: fótuó; J: budda; S: Buddha): Tiếng Hán phiên âm từ chữ Buddha của tiếng Phạn (sanskrit), có nghĩa là “tỉnh thức, giác ngộ” hoặc “người tỉnh thức, người giác ngộ”. Hầu hết các học giả và nhà phiên dịch gọi gọn là Phật, và Phật thường được xưng tặng dưới mười đức hiệu là: 1- Như Lai (Như Lai nghĩa là nương theo đạo như thực, khéo đến thế giới Sa bà này); 2- Ứng cúng; 3- Chánh biến tri; 4- Minh hạnh túc (Phạm: Vidyà-caraịa-saôpanna. Pàli: Vijjà-caraịa-sampanna. Hán âm: Tì xỉ già la na tam bát na. Cũng gọi Minh thiện hạnh, Minh hạnh thành, Minh hạnh viên mãn. Minh và Hạnh trọn đủ, là 1 trong 10 danh hiệu của Phật. Theo kinh Đại bát Niết bàn, quyển 18 (bản Bắc) thì Minh là Vô thượng chính đẳng chính giác, Hạnh túc là giới, định và huệ, đức Phật nhờ có đầy đủ giới, định, huệ mà được Vô thượng Chính đẳng Chính giác, cho nên gọi là Minh hạnh túc. Còn theo luận Đại trí độ quyển 2 thì Minh là Túc mệnh minh, Thiên nhãn minh và Lậu tận minh, còn Hạnh tức là thân nghiệp và khẩu nghiệp, vì đức Phật thành tựu đầy đủ 3 minh, 2 nghiệp, cho nên gọi là Minh hạnh túc); 5- Thiện thệ (Thiện nghĩa là tốt lành, thệ nghĩa là đi qua, không còn trở lại. Thiện thệ nghĩa là bậc đã viên mãn mọi điều tốt lành, mãi mãi không còn chịu nghiệp quả thọ sanh trong luân hồi); 6- Thế gian giải; 7- Vô thượng sĩ điều ngự trượng phu; 8- Thiên nhơn sư; 9- Phật; 10- Thế tôn.

Khi viên mãn bậc thứ mười là Pháp vân địa, Bồ Tát tu tiếp để vào bậc Đẳng giác rồi vào Diệu giác tức thành Phật.

 

Phẩm “Biện Đại Thừa” quyển 55, Hội thứ I, ĐBN ghi:

Bồ Tát Ma ha tát này phương tiện khéo léo hành sáu Ba la mật đa; tu tĩnh lự, vô lượng, vô sắc định, 37 Bồ đề phần pháp, ba giải thoát môn. Học năm nhãn, 6 thần thông, Phật mười lực, 4 vô sở úy, 4 vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, 18 pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Tất cả Phật pháp đã viên mãn rồi vậy, mới vượt khỏi Tịnh quán địa, Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa và Bồ Tát thập địa, dứt hẳn tập khí phiền não nối nhau là thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác”.

Tu tất cả các thiện pháp thì thành Chánh giác nên được gọi là Phật và được tôn xưng là: 1- Như Lai (Phạm:Tathàgata, Hán âm: Đa đà a già đà): Nương đạo như thực (Như) mà đến (lai) và thành chính giác. 2- Ứng cúng (Phạm: Arhat, Hán âm: A la hán): Xứng đáng nhận sự cúng dường của người, trời. 3- Chính biến tri (Phạm: Samyaksaôbuddha, Hán âm: Tam miệu tam phật đà): Có năng lực biết rõ đúng đắn (chính) khắp (biến) tất cả pháp. 4- Minh hạnh túc (Phạm: Vidyàcaraịa-saôpanna): Tức Tam minh (Thiên nhãn, Túc mệnh, Lậu tận) và hành nghiệp của thân khẩu thảy đều viên mãn. 5- Thiện thệ (Phạm: Sugata): Dùng Nhất thiết trí làm cỗ xe lớn, đi trên 8 con đường chân chính mà vào Niết bàn. 6- Thế gian giải (Phạm: Loka-vid): Biết rõ 2 loại thế gian là Chúng sinh thế gian và Phi chúng sinh thế gian, cho nên biết thế gian diệt và con đường ra khỏi thế gian. 7- Vô thượng sĩ (Phạm: Anuttara): Trong các pháp, Niết bàn là vô thượng, trong tất cả chúng sinh, Phật cũng là vô thượng. 8- Điều ngự trượng phu (Phạm: Puruwa-damya-sàrathi): Phật là bậc Đại từ, Đại trí, có khi dùng lời dịu dàng, có khi dùng lời bi thiết, tạp ngữ... dùng mọi phương tiện điều phục, chế ngự người tu hành (trượng phu) khiến họ đến Niết bàn. 9- Thiên nhân sư (Phạm: Zàstà devamanuwyànàô): Chỉ dạy chúng sinh điều gì nên làm, điều gì không nên làm, việc này là thiện, việc kia là bất thiện... giúp họ giải thoát phiền não. 10- Phật Thế tôn (Phạm: Buddhabhagavat): Tức tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, thấy biết tất cả các pháp trong 3 đời. Tôn hiệu thứ 10 này cũng có chỗ chia làm 2 là Phật, Thế tôn, tức đầy đủ mọi đức và được người đời cung kính tôn trọng. Ngoài ra, trong các kinh luận cũng có chỗ hợp chung Thế gian giải, Vô thượng sĩ làm 1 tôn hiệu, hoặc Phật, Thế tôn hợp làm 1 hiệu, hoặc Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu hợp làm 1 tôn hiệu... (Xem luận Đại trí độ Q.2, 21; Đại thừa nghĩa chương Q.20, phần cuối)- Từ điển Phật Quang. Nhiều chú giải khác lại hợp Phật Thế Tôn hay Bạc Già phạm làm tôn hiệu thứ mười. TB.

 

Lưu ý: Phật hay Như Lai trong phần V, Mục XXIII, “Chú Giải Các Thuật Ngữ Trong Trung Luận”, luận về “Lịch sử tư tưởng và triết học Tánh Không của Thích Tâm Thiện”, nói:

 

“Như Lai là một trong mười danh hiệu do hàng đệ tử Phật tôn xưng Đức Phật, một con người đã giác ngộ trọn vẹn, đã độ giác chúng sinh và thực hiện trọn vẹn hạnh nguyện của người giác ngộ.

Về đặc tính, Như Lai có mười năng lực mà không ai có :

1- Biết rõ các xứ và phi xứ.

2- Biết rõ nhân duyên nghiệp báo của ba đời.

3- Biết rõ con đường đưa đến các sinh thú.

4- Biết rõ mọi thế giới và sự sai biệt cụ thể của chúng.

5- Biết rõ sự hiểu biết của các loài hữu tình.

6- Biết rõ tâm tính sai biệt của tất cả chúng sinh.

7- Biết rõ các pháp tịnh, bất tịnh; ra vào các thiền chứng về thiền, về giải thoát và về định.

8- Như Lai chứng Túc mệnh minh.

9- Như Lai chứng Thiên nhãn minh.

10- Lậu tận minh”.

(Xem kinh Tam Minh, kinh Hòa Dụ, Trung Bộ III; kinh Xuất Gia - Đại II.246b. Đại II.446a - Hán tạng; Tăng Chi Bộ kinh V, phẩm 10 Pháp...).

 

Như Lai còn được định nghĩa như sau :

- “Này các Tỳ kheo, từ đêm Như Lai chứng ngộ Vô thượng Giác ngộ, đến đêm Như Lai nhập Niết bàn, trong thời gian ấy, điều gì Như Lai nói, tuyên bố đều là sự thật, tất cả là như vậy, không có khác được. Do vậy, được gọi là Như Lai”.

- “Này các Tỳ kheo, Như Lai nói sao làm vậy, làm sao nói vậy, vì rằng, nói sao làm vậy, làm sao nói vậy, nên được gọi là Như Lai”.

“Trong toàn thể thế giới..., Như Lai là bậc chiến thắng, không bị chiến bại, bậc toàn tri, toàn kiến, đại tự tại; do vậy, được gọi là Như Lai”.

(Xem Tiểu Bộ kinh, “Phật thuyết như vậy”, Tập đại II.224c, Trung 137, Đại I.645b - Hán tạng...).

Đó là toàn bộ các pháp mầu Phật đạo trong quyển 380, phẩm “Các Tướng Công Đức”. Tuy nói gần như đầy đủ chứ không phải đầy đủ hoàn toàn. Để bổ khuyết cho quyển 380 này, phẩm “Biện Đại Thừa”, phần cuối quyển 52 cho đến cuối quyển 53, Hội thứ I, ĐBN còn liệt kê thêm các pháp môn như:

 

1- Tướng Đại thừa của đại Bồ Tát chính là khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tận trí, vô sanh trí, pháp trí, tỉ trí, thế trí, tha tâm trí, và như thật trí. (Q. 53, ĐBN)

1/. Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết khổ nên chẳng thọ sanh, thì đó là khổ trí.

2/. Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết tập nên đoạn trừ vĩnh viễn, thì đó là tập trí.

3/. Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết diệt nên tác chứng, thì đó là diệt trí.

4/. Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết đạo nên tu tập, thì đó là đạo trí.

5/. Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết tham, sân, si hết, thì đó là tận trí.

6/. Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết cõi đến của chúng sanh chẳng tái sanh, thì đó là vô sanh trí.

7/. Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết sự chuyển biến tướng sai biệt của năm uẩn v.v... thì đó là pháp trí.

8/. Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết uẩn giới, xứ và các duyên khởi, hoặc tổng, hoặc biệt là vô thường v.v... thì đó là tỉ trí (loại trí).

9/. Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết tất cả pháp là danh tự giả thiết, thì đó là thế tục trí.

10/. Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết tâm, tâm sở của hữu tình và tu hành chứng diệt, thì đó là tha tâm trí.

11/. Trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng của Như Lai, đó là như thật trí.

 

2- Tướng Đại thừa của đại Bồ Tát là ba Vô lậu căn. Đó là vị tri đương tri căn, dĩ tri căn, cụ tri căn.

1/. Thế nào là vị tri đương tri căn? Nếu các hành giả, đối với các Thánh đế, chưa được hiện quán, chưa được Thánh quả, nhưng có tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, thì đó gọi là vị tri đương tri căn.

2/. Thế nào là dĩ tri căn? Nếu các hành giả đối với các Thánh đế đã được hiện quán, đã được Thánh quả, lại có tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, thì đó gọi là dĩ tri căn.

3/. Thế nào là cụ tri căn? Các hành giả, hoặc là A la hán, hoặc là Độc giác, hoặc là Bồ Tát đã trụ thập địa, hoặc là chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, có tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, thì đó gọi là cụ tri căn.

Ba căn như vậy, nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì nên biết đó là tướng Đại thừa của đại Bồ Tát.

 

Ngoài ra, phẩm “Tuyên Hóa”, Hội thứ III còn nói thêm rằng:Sở tu công đức của các Bồ Tát đều được gọi thiện pháp, cũng gọi là tư lương Bồ đề của Bồ Tát, cũng gọi là Bồ Tát đạo”. Vậy, tu công đức không kém phần quan trọng như tu tuệ. Nên, tu thiện căn công đức cũng được xem là các thiện pháp, cũng gọi là tư lương Bồ đề Bồ Tát, cũng gọi là Bồ Tát đạo. Phước tuệ song tu như vậy mới mau thành quả Phật.

Có thể là chúng tôi không nhớ hết nổi tất cả pháp tu rải rác trong toàn bộ ĐBN. Tuy nhiên, bao nhiêu pháp mầu Phật đạo được liệt kê trong quyển 380, phẩm “Các Tướng Công Đức” trên là quá nhiều, học hết các pháp thực tu thực chứng này không biết bao nhiêu đời kiếp. Liệt kê như vậy tạm đủ, sẽ bổ túc sau nếu cần.

 

 

KẾT LUẬN:

(Cho phần thứ I, tổng luận)

 

Đến đây là chấm dứt phần thứ I Tổng luận với chủ đề là “Các pháp mầu Phật đạo” mà phẩm “Ba La Mật”, quyển 296 và quyển 297 còn gọi là các Ba la mật, vì học tất cả các pháp này thì có thể sang được bờ kia, nên gọi là Ba la mật. Các pháp này trong các kinh khác gọi là “81 khoa danh tướng Bát Nhã”, được chép trong Đại Tạng Nhất Lãm Tập, quyển 3. Đó là: 5 uẩn, 6 căn, 6 trần, 6 thức, 6 xúc, 6 duyên sở sinh, 4 duyên, 6 đại, 12 nhân duyên, 6 độ (lục độ Ba la mật), ngã giả, sinh giả, thọ giả, mệnh giả, hữu tình giả, dưỡng dục giả, chúng số giả, tác giả, sử tác giả, khởi giả, sử khởi giả, thọ giả, sử thọ giả, kiến giả, tri giả, hai mươi pháp không, bốn đế, chân như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dịch tánh, bình đẳng tánh, ly sinh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghị giới, 4 tĩnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 8 giải thoát, 8 thắng xứ, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ, 4 niệm xứ, 4 chính cần, 4 thần túc, 5 căn, 5 lực, 7 chi giác, 8 chi thánh đạo, không giải thoát môn, vô tướng giải thoát môn, vô nguyện giải thoát môn, Bồ Tát thập địa, 5 nhãn, 6 thông, 10 lực, 4 vô úy, 4 vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả, 18 pháp bất cộng, pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí, Đà la ni môn, Tam ma địa môn, Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất hoàn quả, A la hán quả, Độc giác Bồ đề, Bồ Tát hạnh, quả vị Giác ngộ tối cao v.v... Tổng cộng 81 khoa danh tướng Bát Nhã giống như đoạn kinh nói trong quyển 380, Hội thứ I, ĐBN mà chúng tôi tách ra làm một phần riêng (gọi là Phần thứ I Tổng luận) với chủ đề là “Các Pháp Mầu Phật Đạo”.

Vì 81 khoa này bao gồm nhân sinh và vũ trụ, học các pháp này tức là học Bát Nhã vì tất cả pháp này được thu nhiếp vào Bát nhã Ba la mật. Vì vậy, mới nói Bát nhã Ba la mật là “đại tùng thư” bao gồm tất cả pháp Phật hay tất cả thiện pháp thế gian và xuất thế gian.

 

- Có một đoạn kinh mà tôi cho là lạ lùng và phi thường nhất trong ĐBN, thuộc phẩm “Phật Mẫu”, quyển 306, Hội thứ I, Phật biết rõ tất cả các pháp mầu Phật đạo hay 81 khoa danh tướng Bát nhã Ba la mật như biết rõ những gì trong lòng bàn tay của Phật và Phật giải thích 81 khoa danh tướng này, từng pháp một, hết sức xúc tích và ngắn gọn. Tất cả nhân sinh quan và vũ trụ quan Phật đạo đều nằm gọn trong đó. Xin quý vị chậm rãi thưởng thức:

“Như Lai biết: Biến ngại là tướng của sắc, lãnh nạp là tướng của thọ, nắm lấy bóng là tướng của tưởng, tạo tác là tướng của hành, liễu biệt là tướng của thức, Như Lai biết như thật là vô tướng; khổ não tích tụ là tướng của uẩn, cửa sanh trưởng là tướng của xứ, nhiều độc hại là tướng của giới, hòa hợp sanh khởi là tướng của duyên khởi, thường ban cho là tướng của bố thí, không bị phiền não thiêu đốt là tướng của tịnh giới, không sân nhuế là tướng của an nhẫn, chẳng thể khuất phục là tướng của tinh tấn, nhiếp trì tâm là tướng của tịnh lự, không trở ngại là tướng của Bát Nhã, Như Lai biết như thật là vô tướng; không sở hữu là tướng của pháp không nội, pháp không ngoại v.v..., Như Lai biết như thật là vô tướng; chẳng điên đảo là tướng của chơn như, pháp giới, pháp tánh v.v..., Như Lai biết như thật là vô tướng; chẳng hư vọng là tướng của bốn Thánh đế, Như Lai biết như thật là vô tướng; không phiền nhiễu là tướng của bốn tịnh lự, Như Lai biết như thật là vô tướng; không có giới hạn ngăn cách là tướng của bốn vô lượng, Như Lai biết như thật là vô tướng; không ồn ào, tạp loạn là tướng của bốn định vô sắc, Như Lai biết như thật là vô tướng; không ràng buộc là tướng của tám giải thoát, Như Lai biết như thật là vô tướng; có khả năng chế phục là tướng của tám thắng xứ; chẳng tán loạn là tướng của chín định thứ đệ; không giới hạn là tướng của mười biến xứ; Như Lai biết như thật là vô tướng; có công năng xuất ly là tướng của ba mươi bảy pháp Bồ đề phần; xa lìa tất cả là tướng của pháp môn giải thoát không, rất tĩnh lặng là tướng của pháp môn giải thoát vô tướng, nhàm chán các khổ là tướng của pháp môn giải thoát vô nguyện, Như Lai biết như thật là vô tướng; hướng đến đại giác ngộ là tướng của mười địa Bồ Tát, Như Lai biết như thật là vô tướng; có khả năng quán chiếu là tướng của năm loại mắt, Như Lai biết như thật là vô tướng; không ngưng trệ là tướng của sáu phép thần thông, Như Lai biết như thật là vô tướng; khéo quyết định là tướng của mười lực Phật, Như Lai biết như thật là vô tướng; khéo an lập là tướng của bốn điều không sợ, Như Lai biết như thật là vô tướng; không đoạn tuyệt là tướng của bốn sự hiểu biết thông suốt, Như Lai biết như thật là vô tướng; ban cho lợi lạc là tướng của đại từ, bứng gốc sầu khổ là tướng của đại bi, mừng việc thiện là tướng của đại hỷ, bỏ ồn ào tạp loạn là tướng của đại xả, Như Lai biết như thật là vô tướng; chẳng thể đoạt là tướng của mười tám pháp Phật bất cộng, Như Lai biết như thật là vô tướng; khéo nhớ nghĩ là tướng của pháp không quên mất, không chấp trước là tướng của tánh luôn luôn xả, Như Lai biết như thật là vô tướng; hiện giác ngộ là tướng của Nhất thiết trí, khéo thông đạt là tướng của Đạo tướng trí, hiện biệt giác là tướng của Nhất thiết tướng trí, Như Lai biết như thật là vô tướng; nhiếp trì khắp là tướng của tất cả pháp môn Đà la ni, nhiếp thọ khắp là tướng của tất cả pháp môn Tam ma địa, Như Lai biết như thật là vô tướng; khéo thọ giáo là tướng của quả Thanh văn, tự khai ngộ là tướng của quả vị Độc giác, hướng đến đại quả là tướng của tất cả hạnh Bồ Tát, không gì bằng là tướng của quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật, Như Lai biết như thật là vô tướng”.

Hơn 100 trang giấy mà chúng tôi liệt kê và giải thích nằm trọn trong mấy dòng chữ trí tuệ nầy. Xin ghi nhớ chớ để quên mất!

 

- Phẩm “Khen Đại Thừa” quyển 61, Hội thứ I, Kinh ĐBN. Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những gì là tất cả thiện pháp, Bồ đề phần pháp, hoặc Thanh văn pháp, hoặc Độc giác pháp, hoặc Bồ Tát pháp, hoặc các Phật pháp khác, thảy đều nhiếp vào Bát nhã Ba la mật?

Phật bảo: 

- Thiện Hiện! Hoặc bố thí, hoặc tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Hoặc 4 tĩnh lự, 4 vô lượng, 4 vô sắc định. Hoặc 4 niệm xứ, 4 chánh cần, 4 thần túc, 5 căn, 5 lực, 7 đẳng giác phần, 8 thánh đạo phần. Hoặc không giải thoát môn, vô tướng giải thoát môn, vô nguyện giải thoát môn. Hoặc 5 nhãn, 6 thần thông. Hoặc Phật mười lực, 4 vô sở úy, 4 vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, 18 pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Hoặc pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Thiện Hiện! Những pháp như vậy đều là các thiện pháp, hoặc Bồ đề phần pháp, hoặc Thanh văn pháp, Độc giác pháp, Bồ Tát pháp, các Phật pháp khác; tất cả pháp như vậy đều nhiếp vào Bát nhã Ba la mật”.

Nghĩa là tất cả pháp rốt ráo đều thâu nhiếp vào Bát Nhã. Học Bát Nhã là học tất cả các thiện pháp nói trên. Đoạn kinh ở phẩm “Các Tướng Công Đức”, quyển 380, và phẩm “Biện Đại Thừa”, quyển 52 và quyển 53, Hội thứ I, ĐBN liệt kê đầy đủ tất cả các pháp môn Phật học từ Nhơn thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ Tát thừa hay nhất Phật thừa. Nếu muốn sanh vào một trong các cảnh giới trên thì tự mình phải thọ trì các pháp tu của các bậc đó. Bát nhã Ba la mật khuyến khích chúng hữu tình tư duy, thọ trì, đọc tụng, vì người diễn nói các thiện pháp trên rồi cùng hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Giác để chóng chứng quả Phật. Vì các thiện pháp, các pháp hy hữu… đều nhiếp thọ vào Bát Nhã. Học Bát Nhã là học các thiện pháp nói trên.

 

- Phẩm “Quán Chiếu” quyển 404, Hội thứ II, ĐBN, Phật bảo: “Này Xá lợi Tử! Nếu có ai hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đem sự thật mà nói, pháp nào có thể bao trùm tất cả thiện pháp? Phật đáp ngay: Đó là Bát Nhã. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật này là mẹ của tất cả thiện pháp, hay sanh các công đức của các Ba la mật và năm loại mắt”.

Bát nhã Ba la mật bao gồm các thiện pháp thế gian và xuất thế gian. Tu các pháp tu này viên mãn chóng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nên kinh bảo Bát Nhã là mẹ của tất cả thiện pháp hay sanh các công đức của Ba la mật và năm loại mắt.

 

- Phẩm “Thiết Lợi La hay Xá Lợi”, cuối quyển 430, Hội thứ II, ĐBN, Phật bảo: “Này Kiều Thi Ca! Khi mới thành Phật, Ta quán nghĩa này, suy nghĩ: Ta nên nương trụ ai? Ai có thể nhận sự cúng dường cung kính của Ta? Khi nghĩ như vậy, Ta đều chẳng thấy có các thiên, ma, phạm và nhơn phi nhơn nào của thế gian v.v… ngang hàng với Ta, huống nữa là hơn Ta. Ta lại suy nghĩ như vầy: Ta đã nương pháp đây mà chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, pháp đây thậm thâm mầu nhiệm vắng lặng, Ta phải nương lại pháp đây mà an trụ, cúng dường cung kính. Đó chính là Bát nhã Ba la mật.

Này Kiều Thi Ca! Ta đã thành Phật, song vẫn phải nương vào Bát nhã Ba la mật, cúng dường cung kính, huống nữa là các thiện nam, thiện nữ muốn cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà lẽ nào chẳng nương Bát nhã Ba la mật thậm đây, tinh tấn siêng năng tu học, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm đây năng sanh ra Bồ Tát. Từ Bồ Tát đây lại sanh ra Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nương vào các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Thanh văn, Độc giác mới được xuất sanh”.

Trong các pháp tu không có pháp tu nào có thể vượt qua Bát Nhã. Vì Bát Nhã đây năng sanh ra Bồ Tát. Từ Bồ Tát đây lại sanh ra Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nương vào các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Thanh văn, Độc giác mới được xuất sanh. Do đó, Bát Nhã là thượng tôn trong tất cả pháp.

 

- Phẩm “Hiện Quán”, quyển 03, Hội thứ I, ĐBN thuyết: “Nếu đại Bồ Tát muốn khiến cho hữu tình, trong vô số thế giới ở mười phương, tự dùng oai lực mình, người mù được thấy, người điếc được nghe, người câm nói được, người điên được tỉnh, người loạn được định, người nghèo được giàu, người không có áo được áo, người đói được ăn, người khát được uống, người bệnh được lành, người xấu được đẹp, người tàn tật được lành lặn, người thiếu giác quan được đầy đủ, người sầu muộn được tỉnh, người mỏi mệt được khỏe khoắn, thì nên học Bát nhã Ba la mật”.

Đó là thần thông diệu dụng của Bát nhã Ba la mật. Ngoài ra Bát nhã Ba la mật còn sanh ra các biện tài, các công đức trí tuệ không thể nào kể hết. Muốn được như thế thì phải học sáu pháp Ba la mật và các pháp mầu Phật đạo, không có chọn lựa nào khác!

 

- Phẩm “Phương Tiện Tịnh Độ”, quyển 395, Hội thứ I, ĐBN nói rằng: “Nên biết, lại có vô lượng công đức tu hành của các chúng Bồ Tát đều gọi là thiện pháp, cũng gọi là tư lương Bồ đề, cũng gọi là Bồ Tát đạo. Các đại Bồ Tát cần phải tu các thiện pháp thù thắng như thế khiến viên mãn cùng tột mới có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí. Cần phải chứng đắc Nhất thiết trí trí rồi mới có thể chuyển bánh xe Chánh pháp không trái ngược, khiến các hữu tình giải thoát sanh tử, chứng đắc Niết bàn cứu cánh thường lạc!”

Đó là tất cả thiện pháp, các pháp mầu Phật đạo, tư lương Bồ đề Bồ Tát... chúng tôi cố gắng rút ra từ Đại Bát Nhã, đồng thời lượm lặt trong các Kinh sách Phật học để cống hiến Quý vị. Đây là phần cần thiết cho những ai muốn học và hành Bát Nhã nói riêng và Phật đạo nói chung. Bát nhã Ba la mật được xem là đại tùng thư vì đã tập hợp tất cả pháp tu này vào một bộ Kinh duy nhất. Bây giờ, về phần Quý vị có sẵn sàng phát khởi Bồ đề tâm, thệ nguyện rộng lớn, quyết tu học các pháp môn này, và mong cầu giác ngộ để thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ hay không? Đây là cơ hội. Nhà Thiền thường bảo: “Không giác ngộ, không phải là Bát Nhã”. Đó là con đường tốt nhất trong việc “thượng cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, hạ hóa chúng sanh” mà Phật khuyến dẫn chúng sanh trong 22 thuyết Bát Nhã.

 

---o0o---

 

 

Chấm dứt “Phần thứ I Tổng luận”.

 

Phải nói thêm rằng riêng quyển 380, phẩm “Các Tướng Công Đức”, được bổ túc bởi  quyển 52 và quyển 53, phẩm “Biện Đại Thừa” của Hội thứ I, ĐBN được xem như một bản liệt kê gần đầy đủ tất cả các pháp môn Phật học. Tóm tắt các pháp tu như thế cũng tạm đủ. Trong phần chánh văn chúng tôi sẽ chi-tiết-hóa hơn. Nếu so sánh với các Kinh khác, Kinh ĐBN có thể nói là gồm thâu tất cả các pháp mầu Phật đạo. Vì vậy, Kinh này mới được xưng tụng là đại tùng thư.

Điều đáng tiếc là Kinh ĐBN không đi sâu vào chi tiết tu tập của từng pháp môn Phật học nhất là các pháp thuộc về thiền quán, các thần thông, các Đà la ni, Tam ma địa v.v... Kinh chú trọng nhiều vào việc khai ngộ, đạt Chánh giác hay Nhất thiết trí trí mà thôi.

Ở đây chúng tôi chỉ biết liệt kê và trình bày các pháp môn Phật học, nghĩa là chỉ diễn giảng đại cương, không giống như trong:

 

1. Bộ Đại Trí Độ Luận do Bồ Tát Long Thọ soạn thảo, căn cứ vào Hội thứ II, Đại Bát Nhã. Ngài Cưu Ma La Thập và nhóm của Ngài lược dịch 1.000 quyển Đại Trí Độ Luận của Bồ Tát Long Thọ từ Tạng sang Hán, cô đọng lại thành 100 quyển;

2. Bộ A Tỳ Đàm Đại Tỳ Bà sa do 500 vị Đại A La Hán biên soạn, tổng cộng 12 năm với sự hướng dẫn của Tôn giả Thế Hữu chú giải quản diễn bộ luận A Tỳ Đạt Ma Phát Trí do Tôn giả Ca Đa Diễn Ni Tử (Kātyāyaniputra) biên soạn trong thời kỳ kết tập kinh điển lần thứ tư khoảng 400 năm sau khi Phật diệt độ.

Đây là hai bộ luận đồ sộ nhất trong lịch sử Kinh điển Phật học. Bộ Đại Trí Độ Luận là bộ thích luận do Bồ Tát Long Thọ viết để thích nghĩa các giáo lý do Phật thuyết ở Hội thứ II. Còn Bộ luận A Tỳ Đàm Đại Tỳ Bà Sa thì giải thích hầu hết các Kinh điển Phật học nói chung. Hai Bộ luận này rất quý báu, do các bậc thật tu thật chứng giảng luận.

 

Trong lần xuất bản thứ nhất thiên Tổng Luận Đại Bát Nhã Ba La Mật, chúng tôi không có dịp tham khảo hai bộ luận này. Đó là một sự thiếu sót lớn.

Bây giờ, chúng tôi giới thiệu bộ Đại Trí Độ Luận này do hai dịch giả cùng dịch. Đó là: 1. Do HT Thích Thiện Siêu dịch từ Hán sang Việt và 2. Do Ni Trưởng TN Diệu Không dịch từ Hán sang Việt. Hiện cả 2 bản dịch đều được tải lên các mạng Phật học và có bán trên thị trường.

Điểm cần lưu ý quan trọng là Kinh MHBNBLMĐ do Phật thuyết ở Hội thứ II chỉ có 25.000 kệ tụng. Kinh này tuy cũng được gọi là đại bản - Phạm gọi là Paĩcaviôzatisàhasrikà-prajĩàpàramità, nhưng chỉ có 30 quyển, 90 phẩm. Nhóm của ngài Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán vào thời Hậu Tần. Bồ Tát Long Thọ dùng bộ Kinh này biên soạn ra bộ Đại Trí Độ Luận 1.000 quyển. Ngài Cưu Ma La Thập về sau đã nhóm họp 500 vị thiện hữu trí thức, cấm túc tại Tiêu Diêu Viên Đường ở Lâm Giang, lược dịch 1.000 quyển Đại Trí Độ Luận từ Tạng sang Hán, cô đọng lại thành 100 quyển như đã nói trên.

Xin lặp lại điểm lưu ý của chúng tôi là Bồ Tát Long Thọ dựa vào Kinh Ma Ha Bát Ba La Mật Đa (Hội thứ II) viết ra bộ Đại Trí Độ Luận, không phải dựa vào toàn thể Kinh Đại Bát Nhã gồm 16 pháp hội (Còn gọi là Mahaprajna-paramita-Sutra) do nhóm của Tam Tạng Huyền Trang dịch. Vì vậy, nếu so sánh cấu trúc của bộ Đại Trí Độ Luận do Bồ Tát Long Thọ soạn thảo với Kinh MHBNBLMĐ do nhóm của Ngài Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán và HT Thích Trí Tịnh dịch từ Hán sang Việt, từng phẩm so chiếu giống nhau như hai giọt nước.

Có một điểm trùng hợp lạ lùng là phần thứ I tổng luận do chúng tôi biên soạn nói về “Các Pháp Mầu Phật Đạo” lại trùng hợp với 34 quyển đầu Tập I và Tập II của Đại Trí Độ Luận mặc dù chúng tôi sanh sau Bồ Tát Long Thọ gần 20 thế kỹ. Chúng tôi chỉ tham khảo bộ luận này sau khi xuất bản Đại Bát Nhã Tổng Luận lần thứ nhất.

Tiếc thay bộ Đại Trí Độ Luận của ngài Long Thọ chấm dứt ở Hội thứ II. Sáu Hội đầu của Kinh ĐBN có giáo lý giống nhau, Hội thứ VI không khí thay đổi đôi chút. Mười Hội cuối cùng từ thứ VII cho đến thứ XVI hoàn toàn khác hẳn. Giáo lý của mười Hội sau cùng quá thậm thâm, tiếc rằng chúng ta không được bậc cao minh dẫn dắt tiếp! Đó là sự thiếu may mắn của chúng ta.

Đến đây chấm dứt “Phần thứ I Tổng luận” với các pháp mầu Phật đạo, chúng tôi mong rằng với phần trình bày đại cương trên với sự bổ túc của Bộ Đại Trí Độ Luận, giúp Quý vị hiểu tổng quát nhờ tu tập các pháp môn này nên thế gian mới có Người, Trời, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Phật, Đại thừa và Phật đạo, rồi từ đó Quý vị xác định được vị trí của mình trong thập giới để có thể cải thiện vấn đề tâm linh.

 

Tóm lại, có thể xem phần thứ I Tổng luận với các pháp mầu Phật đạo như các bậc thang giáo lý mà trong đó Bát nhã Ba la mật như đuốt tuệ soi sáng cho người đi tìm lý đạo. Tất cả sự nghiệp thế gian và xuất thế gian đều phải dùng Bát nhã Ba la mật dẫn phát mới được kết quả mong muốn. Thiếu Bát nhã Ba la mật chẳng khác nào con tàu bị lạt lối giữa đại dương bao la mà không có địa bàn hướng dẫn.

Cũng như vậy, Bát nhã Ba la mật là địa bàn tốt, là đuốt tuệ vi diệu trong việc đi tìm chân lý giác ngộ mà mọi chúng sanh hằng mong chờ./.

 

 

Hết phần thứ I, Tổng luận.

 

---o0o---

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567