Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01. Khổ đau phát sinh và vận hành như thế nào?

15/04/201214:23(Xem: 7716)
01. Khổ đau phát sinh và vận hành như thế nào?
KHỔ ĐAU PHÁT SINH VÀ VẬN HÀNH NHƯ THẾ NÀO
Hoang Phong biên soạn và dịch
Nhà xuất bản Phương Đông 2012

KHỔ ĐAU PHÁT SINH VÀ VẬN HÀNH NHƯ THẾ NÀO?

Kinh ACELA-SUTTA

Lời giới thiệu: Kinh Acela-suttacòn gọi là kinh Acela Kassapa-sutta. TiếngPali acelacó nghĩa là trần truồng,ám chỉ tín đồ của các giáo phái chủ trương khổ hạnh và sống trần truồng, kinhsách Hán ngữ gọi chung các giáo phái này là "lõa hình ngoại đạo". Đươngthời với Đức Phật các giáo phái chủ trương không ăn mặc quần áo gồm có đạo Ajivakavà một trong các chi phái của đạo Jaïn. Kassapa là tên của một người tu tậptheo các giáo phái ấy.

Acela-suttalà một bài thuyếtgiảng ngắn của Đức Phật được ghi trong Trungbộ kinh(Majjhima-Nikaya, ấn bảnPTS, 1884-1898, quyển II, 18-19). Bản lược dịch dưới đây dựa vào hai bản dịch từtiếng Pali sang các ngôn ngữ Tây phương: một bằng tiếng Pháp do MôhanWijayaratna dịch (Sermon du Bouddha,nxb Cerf, 1988, tr. 131-135,) và một bằng tiếng Anh do Pya Tan dịch (Living Word of the Buddha, SD Vol.18, No5, The Pali Center, 2007, tr. 73-77). Ngoài ra bản dịch tiếng Việt này còn đượcdựa thêm vào một số các bản dịch khác, trong số này có thể kể ra một bản dịchkhá phổ biến của Thassaro Bhikkhu (http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn12/sn12.017.than.html).

Kinh Acela Kassapa Suttanguyên nghĩa là "Kinh về người tu khổ hạnh trần truồng tên là Kassapa"("The Discource on Kassapa the NakedAscetic"), thế nhưng một vài tác giả lại căn cứ vào ý nghĩa sâu xa củabài kinh để gọi kinh này là "Kinh vềsự Tạo tác do điều kiện"(tức Lý Duyên Khởi), chẳng hạn như trường hợpcác bản dịch của Môhan Wijayaratna, Jeanne Schut,v.v...

Sau đây là bản dịchsang tiếng Việt:

"Tôi từng được nghe như thế này: Một lần Đấng Thế Tôn ngụ tại Kalandakanivapa (một khu rừng trong công viên Trúc Lâm)gần thành Vương Xá.

Hôm ấy vào lúc tinh sương, Đấng ThếTôn ăn mặc xong và khoác thêm lên người một chiếc áo ấm (một loại áo khoácmay hai lớp gọi là y thượng - sanghati),và đi vào thành Vương Xá để khất thực. Vào đúnglúc ấy có một người tu khổ hạnh không quần áo tên là Kassapa (Môhan Wijayaratna dịchlà "người khổ hạnh trần truồng" (un ascète nu), thế nhưng ThanissaroBhikkhu thì dịch là người "khổ hạnh không quần áo" (a clothlessascetic) và giải thích thêm rằng "không ăn mặc quần áo" cũng có nghĩalà không dùng quần áo may bằng vải vóc. Pya Tan cho biết là theo nhiều kinh sáchthì "quần áo" của họ không phải là vải vóc nhưng có thể là quần áo thôdệt bằng sợi gai, hay làm bằng vỏ cây hoặc các vật liệu thiên nhiên khác. Dùsao thì những người tu tập theo các giáo phái khổ hạnh nói chung cho rằng mình"khoác lên người manh áo của không gian" để biểu trưng cho sự xa lìathế tục và không màng đến những giá trị thường tình), Kassapanhìn thấy Đấng Thế Tôn từ xa, liền tiến đến gần Đấng Thế Tôn, kính cẩn chào hỏibằng những lời lẽ lễ độ, và sau đó đứng nép sang một bên. Sau khi đã đứng hẳn sangmột bên, người tu khổ hạnh không quần áo Kassapa mới cất lời như sau: "NếuNgài Cồ-đàm cho phép và ban cho chúng tôi một dịp may được đón nhận lời giải đáp,thì chúng tôi sẽ xin được nêu lên một thắc mắc".

Đấng Thế Tôn đáp lại: "Này Kassapa,không phải là lúc để nêu thắc mắc, chúng ta đang ở một nơi có nhà cửa (tiếng Pali làantaraghare, có nghĩa là nơi có dân cư sinh sống. Câu trả lời của Đức Phật ngụ ýlà chúng ta đang đi khất thực không phải là lúc bàn luận về giáo lý).

Người tu khổ hạnh không quần áoKassapa lại cố nài nỉ lần thứ hai: "Nếu Ngài Cồ-đàm cho phép và ban cho chúngtôi một dịp may được đón nhận lời giải đáp, thì chúng tôi sẽ xin được nêu lên mộtthắc mắc".

Đấng Thế Tôn đáp lại: "NàyKassapa, không phải là lúc để nêu lên thắc mắc, chúng ta đang ở một nơi có nhàcửa".

Người tu khổ hạnh không quần áo lạicố nài nỉ lần thứ ba: "Nếu Ngài Cồ-đàm cho phép và ban cho chúng tôi một dịpmay được đón nhận lời giải đáp, thì chúng tôi xin được nêu lên một thắc mắc".

Đấng Thế Tôn đáp lại: "NàyKassapa, không phải là lúc để nêu lên thắc mắc, chúng ta đang ở một nơi có nhàcửa".

Đấng Thế Tôn đã ba lần khước từ, [thế nhưng] người tu khổ hạnh không quần áo Kassapa vẫncứ nài nỉ: "Thưa Ngài Cồ-đàm, thật ra thì những gì chúng tôi muốn hỏi cũngkhông phải là trọng đại lắm".

Cuối cùng Đấng Thế Tôn đành phải chấpthuận: "Này Kassapa, vậy muốn hỏi gì thì cứ hỏi".

Người tu khổ hạnh không quần áo liềncất lời: "Thưa Ngài Cồ-đàm, khổ đau của một cá thể có phải là do cá thể ấytự tạo ra cho mình hay không?".

Đấng Thế Tôn trả lời như sau:

-Này Kassapa, khổ đau không phát sinh giống như thế".

-Thưa Ngài Cồ-đàm, nếu khổ đau của mộtcá thể không phải là một thứ gì do chính cá thể ấy tạo ra, thì có phải là mộtthứ gì đó tạo ra bởi một người nào khác?

Đấng Thế Tôn lại trả lời như sau:

- Này Kassapa, khổ đau không phát sinhgiống như thế".

- Thưa Ngài Cồ-đàm, nếu khổ đau khôngphải là một thứ gì do chính cá thể ấy tạo ra, cũng không phải là một thứ gì dokẻ khác tạo ra, thì khổ đau của một cá thể có phải là một thứ gì phát hiện mộtcách ngẫu nhiên hay không?

Đấng Thế Tôn lại trả lời như sau:

- Này Kassapa, khổ đau không phátsinh giống như thế.

- Thưa Ngài Cồ-đàm, vậy khổ đau củamột cá thể có phải là một thứ gì phi-hiện-hữu hay chăng?

Đấng Thế Tôn trả lời như sau:

- Có chứ, này Kassapa, khổ đau khôngphải là một thứ gì phi-hiện-hữu, mà khổ đau là một thứ gì hiện-hữu-thật-sự.

- Có thể Ngài Cồ-đàm không hiểu đượckhổ đau của một cá thể, và cũng chưa hề nhìn thấy khổ đau của một cá thể đấy thôi?

- Không đúng thế, này Kassapa, NhưLai không phải là người không hiểu được khổ đau của một cá thể. Như Lai là ngườihiểu được khổ đau của một cá thể là gì. Như Lai là người nhìn thấy khổ đau củamột cá thể.

- Thưa Ngài Cồ-đàm, làm thế nào lại có thể như thế được?Khi tôi hỏi có phải khổ đau của một cá thể là do cá thể ấy tự tạo ra cho mìnhhay không, thì Ngài trả lời như thế này: "Khổ đau không phải phát sinh giốngnhư thế". Khi tôi hỏi có phải khổ đau của một cá thể là do một người kháctạo ra cho cá thể ấy hay không, thì Ngài trả lời như thế này: "Khổ đaukhông phát sinh giống như thế". Khi tôi hỏi có phải khổ đau của một cá thểlà một thứ gì phát sinh một cách ngẫu nhiên hay không, thì Ngài trả lời như thếnày: "Khổ đau không phát sinh giống như thế". Khi tôi hỏi có phải khổđau là một thứ gì phi-hiện-hữu, Ngài trả lời như sau: "Khổ đau của một cáthể không phải là một thứ gì phi-hiện-hữu. Khổ đau của một cá thể là một thứ gìhiện-hữu-thật-sự". Khi tôi hỏi Ngài Cồ-đàm có hiểu được và có nhìn thấy đượckhổ đau của một cá thể hay không thì Ngài trả lời như sau: "Như Lai khôngphải là người không hiểu được khổ đau của một cá thể. Như Lai là người hiểu đượckhổ đau là gì. Như Lai là người nhìn thấy được khổ đau. Thưa Ngài Cồ-đàm, vậy kínhxin Ngài giải thích cho là khổ đau phát sinh như thế nào?"

[Đấng Thế Tôn trả lời như sau:]- "Nếu bảo rằng một cá thể thực thihành động và cũng chính cá thể ấy nhận lãnh hậu quả của những hành động ấy - đúngnhư là nhà ngươi đã nói lúc đầu: "Khổ đau của một cá thể do chính cá thể ấytạo ra", thì cách khẳng định ấy sẽ rơi vào chủ nghĩa trường tồn(eternalism) (có nghĩa là cá thể khi nhận lãnh hậu quả vẫn còn giữ nguyên nhưlúc thực thi hành động, không có gì biến đổi, nói cách khác là cá thể trường tồnvà bất biến). Nếu bảo rằng một cá thể thực thi hành động vàmột cá thể khác nhận lãnh hậu quả của những hành động ấy thì có nghĩa là mộtngười nào đó nhận lãnh khổ đau vì lỗi lầm của một người khác thực thi, cách khẳngđịnh ấy sẽ rơi vào chủ nghĩa hủy hoại (annihilationism) (có nghĩa là mộtcá thể thực thi và sau đó là một cá thể khác tái sinh và nhận lãnh hậu quả, cáthể trước đây đã từng thực thi hành động thì đã bị hủy hoại và đoạn diệt, khôngcòn một sự liên hệ nào giữa hai cá thể). NàyKassapa, vì thế Như Lai thuyết giảng một giáo lý không rơi vào hai thái cực, [bằng cách] giữ đúng con đường ở giữa, theođó: vô minh tạo điều kiện làm phát sinh ra các tạo tác tâm thần (formations mentales - volitional activities);các tạo tác tâm thần tạo điều kiện làm phát sinh ra tri thức (consciousness); tri thức tạo điều kiện làmphát sinh ra các hiện tượng tâm thần (phénomènespsychiques - mental activities) và các hiện tượng vật chất (tức là thân xác,và cũng xin nhắc thêm là Pya Tan và Thanissaro Bhikkhu dịch chung "hiện tượngtâm thần và hiện tượng vật chất" là danh-xưng-và-hình-tướng: "name-and-form".Trong bản gốc bằng tiếng Pali là: "paccaya nama, rupam". MôhanWijayaratna dịch là "hiện tượng tâm thần và hiện tượng vật chất", tuykhông được sát nghĩa lắm với bản gốc tiếng Pali nhưng chính xác và dễ hiểu hơn);các hiện tượng tâm thần và các hiện tượng vật chất tạo điều kiện làm phát sinhra sáu khả năng (tức là sáu thứ giác cảm: thị giác, thính giác, khứu giác, vịgiác, xúc giác và tâm thức hay khả năng nhận biết); sáukhả năng tạo điều kiện làm phát sinh ra sự tiếp xúc (ngũ giác và sự diễn đạt của tri thức giúp chosự tiếp xúc với môi trường chung quanh và các tư duy trong tâm thức có thể xảyra được); sự tiếp xúc (qua ngũ giác và tri thức)tạo điều kiện làm phát sinh ra giác cảm; giác cảm tạo điều kiện làm phát sinhra dục vọng (ham muốn, thèm khát...); dục vọngtạo điều kiện làm phát sinh ra sự bám víu; sự bám víu tạo điều kiện làm phátsinh ra quá trình của sự hình thành (processus dudevenir - becoming, existence); quá trình của sự hình thành tạo điều kiện làm phát sinh ra sự sinh; sựsinh tạo điều kiện làm phát sinh ra sự hủy hoại, cái chết, ta thán, khổ nhọc, đớnđau, buồn phiền và tuyệt vọng. Đấy là cách làm phát sinh ra cả khối khổ đauấy, (chuỗi dài liên kết và trói buộc trên đây gọi là thập nhị nhânduyên và đấy là cách trả lời cho câu hỏi của Kassapa: khổ đau phát sinh như thếnào?).

[Thế nhưng],bởi vì vô minh hoàn toàn chấm dứt nên các tạo tác tâm thần chấm dứt; bởi vì cáctạo tác tâm thần hoàn toàn chấm dứt nên tri thức chấm dứt; bởi vì tri thức hoàntoàn chấm dứt nên các hiện tượng tâm thần và các hiện tượng vật chất (thân xác)chấm dứt; bởi vì các hiện tượng tâm thần và các hiện tượng vật chất hoàn toànchấm dứt nên sáu khả năng chấm dứt (ngũ giác và tâmthức); bởi vì sáu khả năng hoàn toàn chấm dứt nên sự tiếp xúc chấmdứt; bởi vì sự tiếp xúc hoàn toàn chấm dứt nên dục vọng chấm dứt; bởi vì dục vọnghoàn toàn chấm dứt nên quá trình của sự hình thành chấm dứt; bởi vì quá trình củasự hình thành hoàn toàn chấm dứt nên sự sinh chấm dứt; bởi vì sự sinh hoàn toànchấm dứt nên sự hủy hoại, cái chết, ta thán, khổ nhọc, đớn đau, buồn phiền vàtuyệt vọng chấm dứt. Đấy là sự chấm dứt hoàn toàn của tất cả cái khốikhổ đau ấy", (quá trình đảo ngược của thập nhị nhân duyên mang lại sự giác ngộ vàgiải thoát).

Sau khi được nghe giảng như trên đây, người tu khổ hạnhkhông quần áo Kassapa liền nói với Đấng Thế Tôn: "Thưa Ngài, tuyệt vờithay! Thưa Ngài, tuyệt vời thay! Thưa Ngài, quả đúng như thế, [những gì Ngài trình bày] tương tợ như dựng trở lênmột vật gì đã đổ xuống, như khám phá ra những gì bị che lấp, chỉ đường cho ngườiđi lạc, thắp lên một ngọn đèn trong bóng tối và để nghĩ rằng: "Những ai cómắt sẽ trông thấy được hình dạng", chẳng khác gì như Đấng Thế Tôn đã soi sánggiáo lý bằng nhiều phương cách khác nhau. Tôi xin được quy y Đấng Thế Tôn, Giáolý và Tăng đoàn. Tôi cầu xin được tiếp nhận sự Thụ phong thứ yếu (dành cho một sa-dihay sa-môn)và sự Thụ phong trọng đại (dành cho một vị tỳ-kheo)dưới sự chứng nhận của Đấng Thế Tôn".

[Đấng Thế Tôn trả lời như sau]:"Này Kassapa, nếu một người đã là tín đồ của một tôn giáo khác và muốn đượcThụ phong thứ yếu và Thụ phong trọng đại quy định trong Giáo lý này và sự Tu tậpnày, thì người ấy phải trải qua một thời gian thử thách là bốn tháng, và nếungười ấy sau khi đã trải qua thời gian thử thách bốn tháng, thì khi đó các vị tỳkheo sẽ suy xét cẩn thận và ban lễ Thụ phong thứ yếu và trọng đại để người ấy đượctrở thành một người tu hành (tỳ kheo). Dầu sao thì Như Lai vẫn nhậnthấy có sự khác biệt giữa các cá thể với nhau", (có nghĩa là còn tùyvào khả năng và quyết tâm của từng người, câu nói trên đây của Đức Phật có ý vừacảnh giác vừa khuyến khích Kassapa).

Người tu khổ hạnh không quần áo Kassapa nói rằng:"Thưa Đấng Thế Tôn, nếu một người nào đó đã là một tín đồ của một tôn giáokhác nhưng nếu muốn xin được Thụ phong thứ yếu và Thụ phong trọng đại trong Giáolý này và trong sự Tu tập này, và nếu người ấy sau khi đã trải qua một thờigian thử thách bốn tháng, thì khi đó các vị tỳ kheo sẽ suy xét cẩn thận và banlễ Thụ phong thứ yếu và trọng đại để người ấy được trở thành một người tu hành.Thưa Đấng Thế Tôn, tôi đã sẵn sàng để trải qua thời gian thử thách, dù cho thờigian ấy là bốn năm. Sau khi đã trải qua thời gian thử thách và sau bốn năm, và nếucác vị tỳ kheo không thất vọng vì tôi thì xin các vị ấy suy xét cẩn thận để Thụphong thứ yếu và Thụ phong trọng đại cho tôi".

Và như thế ấy, người tu khổ hạnh không quần áo Kassapa đãđược Thụ phong thứ yếu và Thụ phong trọng đại dưới sự chứng nhận của Đấng Thế Tôn.

Một thời gian sau khi được Thụ phong trọng đại, AyasmantaKassapa (có nghĩa là Vị đáng kính Kassapa - Venerable Kassapa)sống đơn độc, rút lui vào nơi cô quạnh, luôn cảnh giác, hăng say, quyết tâm, vàsau đó đã nhanh chóng đạt được mục đích mà các người con của những gia đình caoquý rời bỏ thế tục để chọn cuộc sống của người tu hành hằng mong ước. Đấy là mụcđích tối thượng của Phẩm hạnh tinh khiết mà Ayasmanta Kassapa đã đạt được ngaytrong kiếp sống này: "Tất cả mọi sự tái sinh đều bị hủy diệt, chỉ có Phẩmhạnh tinh khiết là còn lại. Những gì phải chấm dứt đã chấm dứt, không còn gì lưulại để phải thực hiện nữa".

Chính như thế, Ayasmanta Kassapa đã hội nhập với các vịA-la-hán khác".

Vài lời lạm bàn củangười dịch

Một người tu khổ hạnh không quần áo tên là Kassapa tình cờgặp Đức Phật đang đi khất thực trong một khu dân cư, đấy là bối cảnh của bài thuyếtpháp trên đây. Có lẽ người tu khổ hạnh Kassapa đã thắc mắc từ lâu trong lòng vềsự vận hành của khổ đau, cho nên khi vừa gặp được Đức Phật liền xin Ngài giải thíchcho mình về sự thắc mắc ấy. Kassapa phải nài nỉ đến ba lần thì Đức Phật mới chấpnhận, vì lúc ấy Ngài đang đi khất thực không thuận tiện để bàn luận về giáo lý.

Tuy Kassapa cho biết là thắc mắc nêu lên không có gì trọngđại, thế nhưng sự thắc mắc ấy thực sự hàm chứa những gì thật căn bản trong giáolý Phật giáo: đó là khái niệm và sự vận hành của khổ đau. Thật vậy nếu không thấutriệt được khổ đau là gì và sự vận hành của nó trong thế giới này ra sao thì quảthật khó có thể tự cho mình là hiểu được giáo lý Phật giáo. Thật thế, bản chất sâuxa của Khổ đau(Dukkha) trong thế giới ta-bà đã được nêu lên ngay trong bài thuyết phápđầu tiên của Đức Phật. Thế nhưng thói thường chúng ta chỉ nhìn thấy khổ đau trongthế giới này dưới một vài biểu hiện thật thổ thiển có tính cách hời hợt bên ngoàimà thôi, trái lại chúng ta có xu hướng một mặt quay lưng lại với khổ đau và mộtmặt luôn hướng vào những ảo giác của hạnh phúc mà chúng ta không bao giờ nắm bắtđược. Tóm lại mưu cầu hạnh phúc cũng chính là một cách gián tiếp thừa nhận khổ đauđang bàng bạc trên thân xác, trong tâm thức và chung quanh chúng ta mà chúng takhông hề hay biết. Vậy khổ đau là gì?

Theo Phật giáo khổ đau là tất cả những gì bất toại nguyệnkể cả những xúc cảm dưới mọi hình thức mà tất cả chúng sinh phải chịu đựngtrong cuộc sống. Những Khổ đau(Dukkha) đó đuợc chia làm ba thể loại hayba "cấp bậc" khác nhau:

- thể loại thứ nhất là khổ đau của khổ đau(dukkhadukkha) tượng trưng cho những khổ đau đơn giản, thô thiển và dễ nhận thấynhất, đó là những đớn đau trên thân xác và trong tâm thức của mỗi cá thể. Nếu nhưcó ai cảm thấy mình luôn được hạnh phúc, khỏe mạnh và giàu sang, không hề biếtkhổ đau là gì, thì cứ nhìn vào những người thân chung quanh đang đau ốm hoặcnghèo đói, hoặc bước ra đường để trông thấy một tai nạn lưu thông hay thấy mộtngười điên đang múa may ca hát, hoặc vừa đi vừa mãi nhìn hai người đang đánhnhau giữa đường mà ta suýt va đầu vào một gốc cây, v.v..., thì đấy là những khổ đau của khổ đau. Ngoài ra khổ đau của khổ đaucòn thể hiện dưới mộthình thức khác nữa, thí dụ khi đã nhận thấy được những khổ đau như vừa kể (và cảnhững khổ đau của hai cấp bậc sắp được trình bày sau đây) và cố gắng tìm mọi cáchvượt thoát, thì sự cố gắng vượt thoát những thứ khổ đau ấy cũng thuộc vào loại khổ đau của khổ đau.

- thể loại thứ hai là khổđau vì sự đổi thay(viparinama dukkha),tức là khổ đau vì bản chất vô thường của mọi hiện tượng. Tất cả mọi hiện tượngcấu hợp nhất thiết đều vô thường, và đã là vô thường thì tất là khổ đau. Thân xácvà tâm thức của mình cũng như của tất cả các chúng sinh khác đều là những thứ cấuhợp, và vô thường thì không buông tha bất cứ một hiện tượng cấu hợp nào. Có ailại không ước mong được trẻ đẹp và khoẻ mạnh mãi mãi, tâm thức luôn được hânhoan, những người thân thuộc luôn chân thật và trung thành với mình, các vật sởhữu mà mình trân quý không bao giờ bị hư hỏng, lỗi thời hay bị mất cắp và môitrường sống chung quanh luôn thuận lợi? Thế nhưng tất cả những hiện tượng ấy đềuvô thường và bất định. Sự kiện cảm nhận được tính cách vô thường và phù du ấy gọilà khổ đau vì sự đổi thay.

- thể loại thứ ba gọi là khổ đau của sự hình thành(sankharadukkha), tức là khổ đau của sự hiện hữu. Những khổ đau này mang tính cách rấtsâu xa, bao quát và tinh tế do đó rất khó nhận biết, đó là những thứ khổ đau kínđáo và thường xuyên, phát sinh từ sự bám víu vào ngũ uẩn tức năm thứ cấu hợp củasự hình thành. Tất cả các thể dạng "hạnh phúc" phát sinh từ giác cảm- ngũ giác và tâm thần - kể cả thể dạng lắng dịu hay lâng lâng cảm nhận đượcqua phép thiền định gọi là thiền na(dhyana) cũng đều là khổ đau(dukkha).Vì thế cũng xin nhắc thêm là chữ khổ đaukhông hàm chứa đầy đủ ý nghĩa của chữ dukkhatrong giáo lý nhà Phật, vì khổ đau theo ý nghĩa thông thường chỉ phản ảnh được ý nghĩa của khổ đau trong hai thểloại thứ nhất và thứ hai được trình bày trên đây, nhưng không bao hàm được ýnghĩa của khổ đau trong thể loại thứba tức làkhổ đau của sự hình thành(sankhara dukkha), bởi vì thể loại khổ đau này bao gồm cả những giác cảm thíchthú mà ta thường gọi là "hạnh phúc".Do đó một số các học giả Phật giáo Tây phương dùng thẳng tiếng Phạndukkhavà không dịch chữ này là khổ đau (souffrance).

Kinh Rahogata-sutta(Kinh về sự ẩn cưtrong Tương Ưng Bộ kinh- Samyutta Nikaya, SN 16.11) ghi lại trường hợp một đệ tử nêu lên thắcmắc là nếu cho rằng năm thứ cấu hợp (tức ngũ uẫn - skanda) là khổ đau thì sẽ mâu thuẫn với cách phân loại các giác cảm(vedana) thành ba thể loại là thíchthú, khó chịu và trung hòa. Đức Phật nêu lên nguyên tắc vô thườngvà sự tạo tác lệthuộc(tức lý duyên khởi hay sự tạo tác do điều kiện mà có) để chứng minhcho người người đệ tử thấy rằng "tấtcả những gì thuộc các thể loại giác cảm đều thuộc vào lãnh vực của khổđau", tức có nghĩa là những cảm nhận hạnh phúc cũng là những biểu hiệnkín đáo của khổ đau, (cũng xin nhắc thêm là giác cảm gồm có cả tư duy và mọi thứxúc cảm trong tâm thức).

Đối với những ai không thích cách diễn đạt bao quát và trừutượng trên đây, thiết nghĩ cũng nên nêu lên một vài thí dụ cụ thể, chẳng hạnnhư một số biểu tượng của hạnh phúc như chiếc nhẫn cưới và những niềm hạnh phúctrong lòng cô dâu chú rể, hay những ngọn nến cắm trên chiếc bánh sinh nhật, hoặctấm gương phản chiếu một thanh niên đang ngắm nhìn chân dụng của mình, hay mộtthiếu nữ đang thoa son điểm phấn..., thì phía sau của tất cả những thứ ấy đều ẩnnấp những khổ đau thật mênh mông kín đáo, và những khổ đau ấy chính là những thứkhổ đau thuộc vào loại khổ đau của sựhình thành,tức là khổ đau phát sinh từ sự hiện hữu của chúng ta trong thếgiới này.

Xin trở lại với người tu khổ hạnh không quần áo Kassapa. Ngườinày có thể đã hiểu được khổ đau trong thế gian này là gì, do đó đã từ bỏ tất cảnhững giá trị quy ước của thế tục kể cả quần áo trên người để đi tìm sự giảithoát, thế nhưng vẫn thắc mắc là những khổ đau ấy có phải chính là do mình tạora cho mình hay do người khác tạo ra cho mình, hay chỉ là những hiện tượng ngẫunhiên. Thế rồi một hôm Kassapa gặp được Đức Phật khi Ngài đang đi khất thựctrong một khu dân cư. Kassapa liền nhân cơ hội ấy xin Đức Phật giải thích nhữngthắc mắc đang ray rứt trong lòng mình. Mặc dù đang ở trong một bối cảnh khôngthích nghi cho việc giảng Pháp, thế nhưng trước sự thành tâm muốn hiểu biết củamột người tu hành khổ hạnh, Đức Phật cũng đã trả lời các thắc mắc của người nàydưới hai khía cạnh khác nhau:

- trước hết là trả lời trực tiếp câu hỏi có phải khổ đaulà do chính mình hay do người khác tạo ra cho mình.

- sau đó là giải thích sự vận hành của khổ đau trên một bìnhdiện bao quát hơn, vượt lên trên khuôn khổ những câu hỏi đã được nêu lên.

Vậy đối với câu hỏi khổ đau là do chính mình tạo ra cho mìnhhay là do người khác tạo ra cho mình, thì trong trường hợp nếu Đức Phật trả lờirằng một cá thể tự tạo ra khổ đau cho mình, thì cách trả lời ấy có nghĩa là cáthể mang tính cách bất biến hoặc có một cái gì đó trường tồn trong một cá thể.Thí dụ một cá thể thực thi một số hành động nào đó tạo ra nguyên nhân mang lạikhổ đau và cũng chính cá thể ấy "đầu thai" trở lại để nhận lãnh hậuquả phát sinh từ những hành động ấy, thì đấy là một cách gián tiếp chấp nhận chủnghĩa trường tồn (còn gọi là thường hằng hay vĩnh hằng - eternalism, tiếng PaliSassatavada) hay chủ nghĩa hữu ngã(tiếng Phạn Atman, tiếng PaliAtta). Ngượclại, trong trường hợp nếu Đức Phật trả lời là một cá thể nhận lãnh khổ đau do mộtcá thể khác tạo ra, thì lại rơi vào chủ nghĩa đoạn diệt (hủy diệt, tận diệt hayhư vô - innihilism, nihilism - tiếng Pali Uccedavada).Như thế tức là gián tiếp chấp nhận chủ nghĩa duy vật (materialism). Thí dụ mộtcá thể trong hiện tại đang phải gánh chịu khổ đau là do một cá thể khác trongkiếp trước đã thực thi những hành động tạo ra nguyên nhân mang lại những khổ đauấy.

Trong bản kinh Acela-suttatrên đây cũng như trong rất nhiều bản kinh khác Đức Phật luôn cho biết là Ngàigiữ con đường ở giữa, gọi là Trung Đạo. Ngài nhắc nhở các đệ tử không được rơivào hai cực đoan là chủ nghĩa hư vô và chủ nghĩa trường tồn, vì đấy là những gìsai lầm và vô cùng nguy hại. Đối với con đường Trung Đạo đứng giữa hai thái cựcthì cá thể đơn thuần chỉ là một dòng chảyhay một luồng luân chuyển(tiếng Palisantati), và khi đã là một dòng chảy thìtất nhiên sẽ tượng trưng cho một quá khứ, một hiện tại và một tương lai, cáchgiải thích đó hợp lý (lôgic) hơn so với chủ nghĩa trường tồn (không chủ trương cóquá khứ) và chủ nghĩa đoạn diệt (không chủ trương có tương lai). Cũng xin nhắcthêm là Đức Đạt-Lai Lạt-Ma gọi dòng chảyđó là dòng tiếp nối liên tục(tiếngLa-tinh continuum) của tri thức(consciousness). Cá thể chỉ là một danh xưng mang tính cách quy ước dùng để gáncho dòng tiếp nối liên tục đó. Khái niệm về sự liên tục trên đây là một yếu tố thenchốt góp phần trong việc giải thích hiện tượng tái sinh và chu kỳ luân hồi củamột cá thể, (có thể xem thêm chủ đề này trong bài viết "Khái niệm về nghiệptrong Phật giáo"của Hoang Phong trên các mạng Thư Viện Hoa Sen, Quảng Đức,...).

Ngoài cách trả lời trực tiếp các thắc mắc của Kassapa nhưtrên đây, Đức Phật còn giải thích sự vận hành của khổ đau một cách bao quát vàtoàn diện hơn. Thật vậy, Kassapa nêu lên các thắc mắc của mình về sự vận hành củakhổ đau trong một cấp bậc khá "thấp", trực tiếp liên hệ đến một số thểdạng cá biệt và chi tiết nào đó, và đấy cũng là lý do cho thấy Kassapa không thểnắm vững được các nguyên nhân và các tác động sâu kín và phổ quát của khổ đautrong thế giới ta-bà. Một cách cụ thể xin nêu lên một vài thí dụ như sau:

- khi bước ra đường ta chợt nhìn thấy hai người đang đánhnhau, vừa đi ta vừa quay đầu nhìn lại khiến ta va đầu vào một gốc cây (khổ đau của khổ đau - tức khổ đau phát sinhtừ giác cảm), để rồi tự hỏi có phải là ta tự làm cho ta đau đớn, hay hai ngườiđánh nhau làm cho ta phải va đầu vào gốc cây?

- nếu có một tếnào đó trong số hàng tỉ tế bào trong cơ thể "đột biến" (mutation) vàtrở thành một tế bào ung thư (khổ đau vìsự đổi thay - tức vô thường), thì đấy có phải là một thứ khổ đau phát sinhmột cách ngẫu nhiên hay không, hay là do người khác hay một thứ gì khác tạo racho mình?

- một thanh niênnhìn vào gương để hãnh diện với vẻ đẹp trai của mình, hay một thiếu nữ nhìn vàogương vừa nhoẻn miệng cười vừa hơi nghiêng đầu một tí để làm nổi bật vẻ duyên dángcủa mình (khổ đau của sự hình thành - tứckhổ đau của sự hiện hữu và bám víu vào ngũ uẩn), thì vẻ đẹp trai ấy và vẻduyên dáng ấy có phải là do họ tạo ra cho họ, hay đấy chỉ là những sự "maymắn" ngẫu nhiên, và cũng nên hiểu thêm là cả hai trường hợp đều là nhữngbiểu hiện của "khổ đau" thuộc vào thể loại khổ đau của sự hình thành.

Khi đã lạc vào chi tiết như trên đây thì sẽ khó thực hiệnđược một tầm nhìn bao quát. Do đó Đức Phật không trả lời trực tiếp từng thắc mắccủa Kassapa mà chỉ trả lời là "Khổ đau không phát sinh giống như thế".Đồng thời Ngài nêu lên nguyên tắc vận hành chung của tất cả mọi hiện tượngtrong vũ trụ gọi là sự tương liên, tươngkết và tương tạo của mọi hiện tượng (interdependence) còn gọi là sự tạo tác do điều kiện mà cólý duyênkhởi. Có lẽ chính vì thế mà Môhan Wijayaratna đã dịch tựa của bản kinh nàylà "Sự tạo tác do điều kiện" (Conditioned Co-production) để tránh chữAcela có nghĩa là trần truồng khôngquần áo (?).(conditioning co-production) hay

Dựa trên nguyên tắc vận hành đó của tất cả mọi hiện tượngtrong vũ trụ Đức Phật chọn ra mười hai biến cố liên kết với nhau mà kinh sách Hánngữ gọi là thập nhị nhân duyênđể giảithích cho Kassapa về sự vận hành của khổ đau, tức đấy là chu kỳ của sự hiện hữuhay là vòng luân hồi trong thế giới này. Hơn thế nữa, Đức Phật còn vượt xa hơncác câu hỏi của Kassapa bằng cách giải thích thêm về quá trình đảo ngược của thập nhị nhân duyênđể giải thích phương cáchlàm cho khổ đau phải chấm dứt. Bản kinh tuy thật ngắn và được thuyết giảngtrong bối cảnh mà mọi người đang khất thực, thế nhưng thật vô cùng sâu sắc vàtrọn vẹn.

Trọn vẹn cả đến sự giác ngộ và quyết tâm tu tập của mộtngười tu khổ hạnh không quần áo hằng mưu cầu tìm kiếm sự thật. Sau khi được ĐứcPhật giải đáp những thắc mắc cho mình, Kassapa "rút lui vào nơi cô quạnh,luôn giữ sự cảnh giác và hăng say tu tập" giúp cho mình nhanh chóng đạt đượcthể dạng A-la-hán. Đấy là phần kết thúc của bản kinh và cũng là một bài học chomỗi chúng ta. Thật vậy, khi đọc một số bài viết hay khi nghe một số bài giảng tándương Phật Pháp cũng có thể khiến cho chúng ta cảm thấy hãnh diện hay thích thútrong chốc lát, hoặc khi nghiên cứu một số kinh sách hay các tập luận giải về giáolý cũng có thể mang lại cho chúng ta một số hiểu biết nào đó, thế nhưng sau khiđọc xong hay nghe xong thì đâu lại hoàn đấy, chúng ta quay trở lại với nhữngsinh hoạt hằng ngày để tiếp tục đắm mình vào sự vận hành của guồng máy khổ đau.

Phật giáo là một tôn giáo tích cực, đòi hỏi sự can đảm vàlòng quyết tâm. Chúng ta có đủ sức bắt chước một người tu khổ hạnh trần truồng từbỏ những giá trị của thế tục như Ayasmanta Kassapa hay không, hay là chúng ta chỉbiết lo nghĩ đến việc mua sắm những quần áo đẹp? Hãy thắc mắc và ray rứt như AyasmantaKassapa về những vấn đề trọng đại hơn, Đạo Pháp sẽ giải tỏa cho chúng ta nhữngthắc mắc và những ray rứt ấy. Hãy quyết tâm và hăng say tu tập như Ayasmanta Kassapa,sự Giác ngộ sẽ mở rộng cửa để chờ đón chúng ta.

Bures-Sur-Yvette,21.07.11
Hoang Phong
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567