Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đời Thứ Mười Sáu Sau Lục Tổ

04/09/201102:42(Xem: 8672)
Đời Thứ Mười Sáu Sau Lục Tổ

THIỀNSƯ TRUNG HOA
HTThích Thanh Từ

TẬP 3
ĐỜI THỨMƯỜI SÁU SAU LỤC TỔ

42.THIỀN SƯ TÔNG CẢO ĐẠI HUỆ DIỆU HỶỞCảnh Sơn (1049 - 1163)

Sư quê ở Ninh Quốc Tuyên Châu, con nhà họ Hề. Năm mườiba tuổi, Sư mới vào học Phát Mông, học chưa được nửatháng liền bỏ đi xuất gia. Năm mười bảy tuổi, Sư đượclàm Tăng thọ giới cụ túc. Tuy Sư tuổi nhỏ đã biết cóviệc trong tông môn. Sư xem hết các Ngữ lục, thích nhấtlà lời Vân Môn, Mục Châu. Sư nghi Ngũ gia tông phái buổiđầu chỉ một Tổ Đạt-ma, vì sao lại có nhiều môn đình?Song tánh Sư cao siêu không chịu ràng buộc. Cha mẹ khuyên Sưđi du phương.

*

Khi ấy ở Tuyên Châu có Thiền sư Thiệu Trình ở Minh Giáothừa kế Thiền sư Thản ở Hưng Giáo là cháu Thiền sư Giácở Lang Nha. Sư nghe Thiệu Trình là người bảo tham nên tậntâm thờ phụng, Sư thường thưa hỏi về niêm cổ tụng cổcủa Tuyết Đậu và nhân duyên các bậc cổ túc. Thiệu Trìnhchỉ dạy cốt phải thẳng đó tự thấy tự nói, chẳng rảnhbàn ngôn ngữ kia. Sư thấu suốt được chỗ chỉ dạy củaTiên đức. Thiệu Trình lấy làm lạ, mỗi khi khen nói: - Cảolà người tái lai.

*

Sư lại sang Dĩnh Châu tham vấn Thủ tọa Nguyên ở Đại Tùy,Hòa thượng Vi ở Động Sơn, Thị giả Kiên. Hòa thượng Vilàm thủ chúng ở Phù Dung, Thị giả Kiên làm thị giả PhùDung mười năm. Sư tham học với ba vị này khá lâu, hiểurõ được tông chỉ tông Tào Động. Một hôm, thấy kia thắphương truyền trao để tỏ là phó chúc chẳng dối, Sư bấtbình nói: - Thiền có truyền trao, đâu phải pháp tự chứngtự ngộ của Phật, Tổ.

*

Sư đi đến dưới tòa của Thiền sư Triết ở Chơn Như, vàothất Tạng chủ Khánh, Bồng đầu Hiền. Sư cùng Khánh đếnHoàng Long yết kiến Hối Đường, Đông Lâm, tham Chiếu Giácđều chẳng hợp. Sư lại yết kiến Thiền sư Tuần ở TâmẤn, Tuần là cao đệ của Tú Thiết Diện. Cùng Sư đàm đạo,Tuần lấy làm lạ, muốn lưu ở dưới hội mà Sư chẳng chịu.Tuần nhân chỉ đến Bảo Phong tham Thiền sư Chuẩn. Chuẩntức là Trạm Đường.

*

Sư mới đến cơ biện tung hoành, Chuẩn bảo: - Lỗ mũi ôngtại sao có nửa bên?

Sư thưa: - Môn hạ Bảo Phong.

Chuẩn bảo: - Thiền hòa đổ soạn.

Nhân tô vẽ lại tượng Thập Vương, Chuẩn chỉ hỏi Sư:- Quan nhân này họ gì?

Sư đáp: - Họ Lương.

Chính Chuẩn là họ Lương. Chuẩn xoa đầu tượng nói: - Tạisao họ Lương lại thiếu cái đầu trọc?

Sư thưa: - Đầu tuy chẳng đồng lỗ mũi tương tợ.

Chuẩn bảo: - Thiền hòa đổ soạn.

Nhân xem kinh Kim Cang, Chuẩn hỏi Sư: - "Pháp ấy bình đẳngkhông có cao thấp", vì sao núi Vân Cư cao núi Bảo Phong thấp?

Sư đáp: - Pháp ấy bình đẳng không có cao thấp.

Chuẩn bảo: - Ông làm được kẻ tớ Tọa chủ.

Một hôm, Chuẩn bảo Sư: - Thượng tọa Cảo! Tôi có thiềntí xíu này, ông mỗi mỗi lý hội được chăng?

Sư thưa: - Lý hội được.

Chuẩn bảo: - Dạy ông nói cũng nói được, bảo ông làm cũnglàm được, niêm cổ, tụng cổ, tiểu tham, phổ thuyết thảyđược, chỉ có một sự kiện chẳng phải, ông có biết chăng?

Sư thưa: - Chưa biết là sự kiện gì?

Chuẩn bảo: - Ông chỉ thiếu một cái à! Vì thế khi nói thìcó, khi chẳng nói liền không, khi vào phương trượng thì có,khi ra phương trượng liền không, khi tỉnh tỉnh thì có, khingủ mê liền không, làm sao địch được sanh tử?

Sư thưa: - Chính là chỗ con nghi.

Chuẩn bệnh, Sư đến hỏi: - Con về sau phải thấy ngườinào?

Chuẩn bảo: - Có gã Cần, ta chẳng biết y, ông nên yết kiếnđó, sẽ hay biện được việc của ông. Nếu ông liễu chưaxong nên tu hành xem Đại Tạng Kinh, thân sau ra đời quyếtđịnh là thiện tri thức.

Trạm Đường tịch, Sư ra mắt Thừa tướng Trương Thiên Giácnhờ làm bài minh ở tháp. Thiên Giác môn đình cao, đối vớiThiền khách ít hứa nhận. Gặp Sư một phen nói chuyện làkhế hợp. Thiên Giác cùng giúp Sư đến yết kiến Viên Ngộ.

*

Khi ấy, Viên Ngộ từ Tương Sơn vâng chiếu trụ chùa ThiênNinh tại Đông Kinh. Viên Ngộ chưa đến, Sư đã đến trướctạm dừng lại tham đường rồi, Viên Ngộ nhập viện, Sưsớm chiều thưa thỉnh. Viên Ngộ nhắc, "Tăng hỏi Vân Môn:thế nào là chỗ chư Phật xuất thân, Vân Môn đáp: núi đôngtrên nước đi" bảo Sư hạ ngữ. Sư tham ngót một năm, đãhạ bốn mươi chín chuyển ngữ đều chẳng hợp.

*

Một hôm, Viên Ngộ đến phó trai nhà một ông quan, đăng tòanhắc, "Tăng hỏi Vân Môn: thế nào là chỗ chư Phật xuấtthân, Vân Môn đáp: núi đông trên nước đi". Nếu là ThiênNinh thì không như thế. Nếu có người hỏi: thế nào là chỗchư Phật xuất thân, chỉ nói với y: gió nam từ nam lại điệncác sanh mát mẻ.

Sư nghe nhắc hoát nhiên tỉnh ngộ. Bèn đem sở ngộ trìnhViên Ngộ. Viên Ngộ xét Sư tuy mé trước sau đoạn, tướngđộng chẳng sanh, song ngồi ở chỗ sạch trọi trơn, bảoSư rằng: - Chưa phải, ông tuy có đắc mà đại pháp chưasáng.

Một hôm, Sư vào thất, Viên Ngộ bảo: - Cũng chẳng dễ, ôngđến trong điền địa này, chỉ đáng tiếc chết rồi khôngthể sống lại được. Chẳng nghi ngôn cú ấy là bệnh lớn.Chẳng thấy nói: Bờ thẳm buông tay tự nhận thừa đương,chết rồi sống lại dối anh chẳng được. Phải biết cóđạo lý này.

Sư thưa: - Con chỉ cứ như chỗ được hiện nay đã là sốngthích, lại không thể lý hội được.

Viên Ngộ không nhận, bèn sai Sư làm thị giả. Mỗi ngày,Sư cùng sĩ đại phu bàn luận, vào thất đến ba bốn lần.Viên Ngộ bèn nhắc: "có câu không câu như bìm nương cây",hỏi Sư. Sư vừa mở miệng, Viên Ngộ liền nói: - Chẳng phải,chẳng phải.

Như thế đến nửa năm chưa được ấn khả, niệm niệm chẳngquên nơi tâm. Một hôm cùng các quan khách ăn cơm, Sư cầmđũa nơi tay mà quên há miệng. Viên Ngộ cười bảo: - Kẻnày tham Huỳnh Dương mộc thiền, lại rút ngược đi.

Sư liền nói thí dụ: - Đạo lý của Hòa thượng giống nhưcon chó nhìn chảo mỡ nóng, muốn liếm lại liếm chẳng được,muốn bỏ lại bỏ chẳng được.

Viên Ngộ bảo: - Ông dụ rất hay, chỉ cái này là chuồngKim Cang là lùm gai lật.

Lại một hôm Sư hỏi: - Nghe nói Hòa thượng đương thờiở chỗ Ngũ Tổ cũng hỏi thoại này, chẳng biết Ngũ Tổđáp thế nào, xin Thầy chỉ dạy? Viên Ngộ lặng thinh khôngnói.

Sư thưa: - Khi xưa Hòa thượng chẳng phải tự hỏi riêng,phải ở trước đại chúng hỏi, nay nói lại có ngại gì?

Viên Ngộ nói: - Ta hỏi "có câu không câu như bìm nương cây"là thế nào, Ngũ Tổ bảo: tả cũng tả chẳng thành, vẽ cũngvẽ chẳng được. Ta lại hỏi: chợt gặp cây ngã bìm khôthì thế nào, Ngũ Tổ bảo: theo nhau lại vậy.

Sư nghe nhắc ngay đó đại ngộ, bèn nói: - Con hội vậy.

Viên Ngộ nói: - Chỉ e ông lại thấu công án này chưa được.

Sư thưa: - Thỉnh Hòa thượng cử.

Viên Ngộ liền cử một mạch những công án của tiền bốihỏi Sư. Sư theo tiếng đối đáp không trệ ngại. Viên Ngộvỗ tay khen hay, lại đối chúng khen rằng: - Cảo chẳng phảimột đời hai đời làm thiện tri thức lại.

Từ đây Sư nói dọc ngang tự tại như ném hòn gạch xuốngnước, như xoay viên đá tròn trên bàn ngàn nhẫn. Chư lãotúc khó vượt qua được sự bén nhạy của Sư. Sư đã đạitriệt, một số Thiền khách có nghi đến hỏi Viên Ngộ. ViênNgộ bảo: Cái thiền của ta giống như biển cả, các ôngđem được biển cả đến nghiêng lấy mới được. Nếu chỉđem bát chậu đến chứa được chút ít bèn thôi, khí lượngcủa các ông chỉ như thế, bảo ta phải làm sao, được baonhiêu cái đến điền địa của ông. Khi trước có Thượngtọa Cảo cùng các ông một loại, lại đã chết rồi. Chưabao lâu, Viên Ngộ cử Sư làm Thủ chúng. Khi ấy, hàng sĩ đạiphu thường thường tranh đến với Sư.

Viên Ngộ trở về Thục, Sư từ về ở Cổ Vân Môn, họcgiả đua nhau đến. Lại chạy loạn sang Hồ Nam, qua Giang Hữuvào Mân, Sư cất am Trường Lạc ở sườn núi. Khi ấy theoSư năm mươi ba người, chưa đầy năm mươi ngày mà đắcpháp mười ba người. Cấp sự Giang Công Thiếu Minh thỉnhSư trụ am Vân Môn ở Tiểu Khê. Thừa tướng Trương NgụyCông khi ở Thục nghe Viên Ngộ nói Sư thật được pháp tủy,khi về triều mời Sư trụ Cảnh Sơn phủ Lâm An. Sư đếntrụ nơi đây pháp tịch hưng thạnh một thời. Những ngôinhà chứa mấy trăm người đều không chỗ dung, phải lậplầu gác lớn chứa cả ngàn người, chúng thường có mặttrên hai ngàn.

Buổi khai pháp ban đầu, Sư đăng tòa vấn đáp chưa xong, lạicó mấy vị Tăng tranh nhau ra hỏi. Sư nắm đứng lại nói:Dừng! Dừng! Giả sử quả đất có bao nhiêu cây cỏ nghiềnnát làm bụi, mỗi mỗi hạt bụi có một cái miệng, mỗimỗi cái miệng đủ vô ngại tướng lưỡi rộng dài, mỗimỗi tướng lưỡi xuất vô lượng âm thanh sai biệt, mỗimỗi âm thanh phát vô lượng ngôn từ sai biệt, mỗi mỗi ngôntừ có vô lượng diệu nghĩa sai biệt. Như trên, Thiền tăngbằng số bụi, mỗi mỗi đủ miệng như thế, lưỡi như thế,âm thanh như thế, ngôn từ như thế, diệu nghĩa như thế,đồng thời đặt trăm ngàn vấn nạn, mỗi vấn nạn khácnhau, mà chẳng đủ một tiếng tằng hắng của Trưởng lãoCảnh Sơn này, đồng thời đáp xong. Khi này ở trong ấy làmPhật sự vô lượng vô biên rộng lớn, mỗi mỗi Phật sựkhắp cả pháp giới. Cho nên nói, một sợi lông hiện thầnbiến, tất cả Phật đồng nói kinh, nơi vô lượng kiếp chẳngbiết bờ mé, được thế ấy náo nhiệt môn đình thì phải.Nếu dùng chánh nhãn xem đó, chính là nghiệp thức mờ mờkhông gốc để y cứ, dưới cửa Tổ sư một điểm dùng cũngchẳng được. Huống là soi móc chương cú, vạch bày ngônphong, chẳng những chôn vùi tông thừa từ trước, cũng làcười vỡ lỗ mũi của Thiền tăng. Vì thế nói, còn mảytơ buộc niệm là nghiệp nhân tam đồ, chợt vậy tình sanhlà bao vây muôn kiếp, hiệu phàm danh thánh trọn là tiếngrỗng, tướng tốt hình xấu đều là sắc huyễn, ông muốncầu đó lại không lụy sao? Nếu là chán đó cũng thành đạihoạn. Xem Tiên đức kia nói dạy như thế, như binh khí củaquốc gia bất đắc dĩ mà dùng, trên việc bổn phận cũngkhông có tin tức này. Ngày nay sơn tăng cử xướng như thế,giống hệt không mộng nói mộng, thịt lành khoét thành thươngtích, kiểm điểm ra nên ăn cây gậy. Hiện nay có người hạđược độc thủ hay chăng? Nếu có, kham đền cái ơn chẳngđền, cùng giúp giáo hóa vô vi. Nếu không, hành ngược lệnhnày vậy. Sư cầm gậy lên nói: Ngang chân Mạc Da toàn chánhlệnh, thái bình hoàn vũ chém ngu si. Sư lia một cái, hét mộthét.

Sư dạy chúng: "Điên đảo tưởng sanh, sanh tử nối, điênđảo tưởng diệt, sanh tử dứt, chỗ sanh tử dứt Niết-bànkhông, chỗ Niết-bàn không trong mắt bụi." Niết-bàn đã không,nói cái gì trong mắt bụi? "Mây trắng chợt về che núi biếc,trăng trong khó bảo xuống trời xanh." Sư lại nói: Nước Ma-kiệt-đềvẫn ở giữa đường, trước ngọn Thiếu Thất toàn khônglỗ mũi, bàn huyền nói diệu thịt lành khoét thành thươngtích, nhắc xưa rõ nay ném cát chọi đất. Đâu bằng đóiăn khát uống rảnh ngồi mệt ngủ, mặc cho bốn mùa đổidời chẳng can hệ việc của ta. Tuy nhiên như thế, cũng phảithật đến điền địa này mới được. Chỉ như thật đếnđiền địa này làm sao thân cận? Sư hét một hét, nói: -Châm cứu trên vết thương lại để một viên ngải cứu cháy.

Sư thượng đường hỏi đáp xong, bèn nói: Hỏi được cũngtốt chẳng hỏi lại gần. Cớ sao? Con đường trước tiếngngàn thánh chẳng truyền, học giả nhọc hình như khỉ bắtbóng. Trong đây nếu có kẻ anh linh, thế ấy chẳng thế ấy,tai nghe nhắc đến đứng dậy liền đi, vẫn ở trong hang ổbìm sắn. Hẳn được trong không sở chứng ngoài không sởtu, giống như đất chở núi, đá ngậm ngọc, chưa phải chỗThiền tăng buông thân mạng. Dám hỏi đại chúng, thế nàolà chỗ Thiền tăng buông thân mạng? Nếu như biết đượctrần trần niệm niệm đều không rỗng thiếu, xoay quanh cúingước trọn ở trong kia. Chính khi ấy cứu kính cái gì làtrăng gia phong, lại hiểu chăng? - Ngàn Thánh nào biết đi đâutá, Ỷ Thiên trường kiếm hiếp lạnh người. Sư xuống tòa.

Sư thùy ngữ hỏi học giả: Tôi trong đây không có pháp chongười, chỉ là cứ bản kết án. Giống như ông đem cái bìnhlưu ly đến tiếc giữ, giống cái gì? Tôi một phen trông thấyliền vì ông đập bể. Ông lại đem hạt châu ma-ni đến,tôi lại vì ông cướp mất. Đợi ông chỉ thế ấy lại,tôi lại vì ông chặt đứt hai tay. Vì thế Hòa thượng LâmTế nói: "Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ, gặp La-hángiết La-hán." Đã nói là thiện tri thức vì sao lại thíchgiết người vậy? Hãy nói là đạo lý gì?

Những người tham thiền thỉnh Sư nói thiền bệnh. Sư bảo:Thiền có bệnh gì có thể nói. Thiền lại chẳng từng bệnhnhức đầu, chẳng từng bệnh điếc tai, chẳng từng bệnhmờ mắt, chỉ là người tham thiền tham được sai biệt, chứngđược sai biệt, dụng tâm sai biệt, nương thầy sai biệt,nhân những sai biệt này nên nói là bệnh. Chẳng phải nóithiền có bệnh. Như hỏi thế nào là Phật, đáp tức tâmlà Phật, có bệnh gì? Hỏi con chó có Phật tánh không, đápkhông, có bệnh gì? Nếu nói bảo trúc bề (thanh tre) là chạm,chẳng bảo trúc bề là trái, có bệnh gì? Hỏi thế nào làPhật, đáp ba cân gai, có bệnh gì? Hỏi thế nào là Phật,đáp cục cứt khô, có bệnh gì? Ông chẳng thấu suốt, vừakhởi đạo lý cần thấu liền ngàn dặm muôn dặm không giaothiệp. Toan đem tâm phân biệt nó, toan đem tâm suy nghĩ nó,nhằm chỗ cử lên hiểu rõ, chỗ chọi đá nháng lửa luồngđiện chớp hội, cái này mới là bệnh. Thầy thuốc thếgian đành bó tay. Song cứu kính chẳng can hệ việc thiền.Ngài Triệu Châu nói: - Cốt cùng vua "Không" làm đệ tử, chớbảo tâm bệnh rất khó trị.

*

Bấy giờ có hai vị Trưởng lão Đàm Ý và Tôn Phác, buổiđầu hầu Viên Ngộ ở Tương Sơn có chỗ vào, sau lại đếndưới tòa Chơn Yết, tự vỗ ngực cho là hiện thời khôngai qua nổi. Sư biết hai vị chưa triệt, mà đã khai pháp, sợe làm lầm lẫn kẻ hậu học, nên viết thơ cho Đàm Ý bảohãy tạm đến. Đàm Ý hổ thẹn chần chờ chẳng đi. Sư nhânbuổi tiểu tham quở thẳng những sai lầm kia, nêu bảng ởtrước cửa báo cho tứ chúng biết. Ý nghe như vậy, bất đắcdĩ phá hạ đến dưới hội Sư. Sư hỏi chỗ sở chứng kiarằng: - Ông kiến giải như thế đâu từng mộng thấy lãonhân Viên Ngộ, thật muốn cứu kính việc này, hãy giải tánchúng đến đây.

Đàm Ý nghe lời dạy trở về, qua hạ cùng với Tôn Phác đồngđến hội Sư. Hai vị vào thất, Sư hỏi Tôn Phác: - Tam Thánhnói ta gặp người ắt xuất, xuất ắt chẳng vì người. HưngHóa nói ta gặp người ắt chẳng xuất, xuất ắt vì người.Ông nói hai lão túc lại có chỗ xuất thân hay không?

Tôn Phác nhằm trên đầu gối Sư đánh một đấm.

Sư hỏi: - Một đấm này của ông vì Tam Thánh xuất khí, vìHưng Hóa xuất khí. Nói mau! Nói mau!

Phác suy nghĩ, Sư nhằm xương sống liền đánh. Lại bảo:- Thứ nhất ông chẳng được quên một gậy này, đi ra!

Đã lâu mà hai vị chưa được vào cửa. Một hôm, nhâncó vị Tăng khác vào thất, hai vị nghe lỏm. Sư hỏi vị Tăng:- Đức Sơn vừa thấy Tăng vào cửa liền đánh, Lâm Tế thấyTăng vào cửa liền hét, Tuyết Phong thấy Tăng vào cửa liềnnói là cái gì, Mục Châu thấy Tăng vào cửa liền nói hiệnthành công án, tha ông ba mươi gậy. Ông nói bốn vị tôn túcnày lại có chỗ vì người hay không?

Tăng thưa: - Có.

Sư bảo: - Chép.

Tăng suy nghĩ. Sư liền hét đuổi ra. Tôn Phác nghe chợt cótỉnh. Đàm Ý cũng tiếp theo nơi một câu nói có tỉnh, từtrước những ác tri ác giải khi này tiêu tan. Sau hai vị đềukế thừa Sư.

Có một vị Tăng vừa vào cửa. Sư bảo: - Chẳng phải đira.

Vị Tăng liền ra. Sư bảo: - Không lường đại nhân, bị trongngữ mạch chuyển.

Kế một vị Tăng vào. Sư bảo: - Chẳng phải đi ra.

Vị Tăng lại đến gần. Sư bảo: - Đã nói với ông chẳngphải, lại đến gần tìm cái gì, liền đánh đuổi ra. Lạimột vị Tăng vào nói: - Vừa rồi hai vị Tăng chẳng hiểuý Hòa thượng.

Sư liền cúi đầu hư một tiếng. Vị Tăng mờ mịt. Sư liềnđánh nói: - Lại là ông hiểu ý lão tăng.

Lại có vị Tăng vào. Sư bảo: - Ông chẳng hiểu đi ra.

Tăng cũng ra. Lại một vị Tăng vào. Sư bảo: - Vừa rồi cóhai Thượng tọa một người biết nắm mà chẳng biết buông,một người biết buông mà chẳng biết nắm, ông lại biệnđược chăng?

Tăng thưa: - Một trạng lãnh qua.

Sư bảo: - Sau khi lãnh qua riêng có tin tức rất tốt.

Vị Tăng vỗ tay một cái liền ra. Sư bảo: - Sau ba mươi nămngộ đi vậy.

Sư hỏi một vị Tăng: "Trên đường gặp người đạt đạochẳng đem nói nín đáp là thế nào?" Tăng trân trọng liềnđi. Sư cười hả! Hả! Kế một vị Tăng đến, Sư bảo: -Tôi vừa hỏi vị Tăng này: "trên đường gặp người đạtđạo chẳng đem nói nín đáp là sao?, y trân trọng rồi đi,ông nói y hội chẳng hội" Tăng suy nghĩ thưa hỏi. Sư liềnđánh đuổi ra. Lại có vị Tăng đến. Sư nói: Chẳng cùngmuôn pháp làm bạn là người gì? Tăng đáp: - Kẻ không mặtmày. Sư bảo: - Vừa rồi có vị Tăng nói như thế, bị đánhđuổi ra. Tăng suy nghĩ. Sư liền đánh.

*

Sư trụ Cảnh Sơn nổi danh một thời, như Thị lang TrươngTử Thiều, Trạng nguyên Uông Thánh Tích, Thiếu khanh BằngTế Xuyên đồng đến hỏi đạo. Còn bao nhiêu danh sĩ đạiphu đến thưa hỏi. Sư tùy cơ khai ngộ đều được thôngsuốt.

*

Bởi Sư đương thời giáo hóa thành lập mình, mạt sát ngườinên bị nạn cổi pháp phục, đày ra Hàng Châu mười năm,lại đày đến Mai Châu. Mai Châu là nơi chướng khí quê mùa,mà Thiền khách vẫn mang lương thực theo dù chết cũng khônghối hận. Được tám năm, vua Cao Tông đặc ân tha cho, nămsau trả lại pháp phục. Sau vua ra chiếu mời Sư trụ chùaDục Vương, chúng tụ họp đông vô kể. Hai năm sau, chiếuvời trụ lại Cảnh Sơn.

*

Hoàng đế Hiếu Tông khi còn làm Phổ An Quận vương nghe danhSư, sai Nội đô giám đến Cảnh Sơn yết kiến Sư. Sư làmbài kệ dâng vua: Đại căn đại khí đại lực lượng, gánhvác đại sự chẳng tầm thường, trên đầu sợi lông thôngtin tức, khắp cõi sáng ngời chẳng giấu che. Vua xem rất vui.Ở Kiến Đề nhà vua sai Nội tri khách thỉnh Sư trong núi vìchúng nói pháp. Chính tay vua viết hai chữ Diệu Hỷ to tạiam Diệu Hỷ của Sư, và làm bài tán cho Sư: "Sanh diệt chẳngdiệt, thường trụ chẳng trụ. Viên giác sáng không, tùy vậtchỗ hiện." Hai năm sau, vua lên ngôi liền ban hiệu Sư là ĐạiHuệ Thiền sư.

Niên hiệu Long Hưng năm đầu (1163) ngày mười tháng tám, Sưthị tịch tại Minh Nguyệt Đường ở Cảnh Sơn. Khi sắp thịtịch Thị giả xin kệ, Sư cầm bút viết:

Sanh cũng chỉ thế ấy,

Tử cũng chỉ thế ấy,

Có kệ cùng không kệ,

Là cái gì quan trọng.

Sư ném bút thị tịch, thọ bảy mươi lăm tuổi, năm mươitám tuổi hạ.



8.THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
MãTổ - (709 - 788)

Vìngười đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọilà Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.

Sưhọ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sưdung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dàikhỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùaLa-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. SauSư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.

Ðờèường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tậpthiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiềnsư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng thamhọc với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâmấn.

Saukhi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi PhậtTích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công NamDương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cungvà Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bátông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rấtđông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Cácngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâmPhật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượngthừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinhLăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điênđảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinhLăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)

Phàmngười cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêngcó Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiệnchẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạttánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không cótự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đềulà cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâmkhông tự là tâm, nhân sắc mới có.

Cácngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn khôngcó chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanhra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳngsanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơmmặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,đâu còn có việc gì.

Cácngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:

Tâm địa tùy thời thuyết

Bồ-đề diệc chỉ ninh

Sự lý câu vô ngại

Ðương sanh tức bất sanh.

Dịch:

Ðất tâm tùy thời nói

Bồ-đề cũng thế thôi

Sự lý đều không ngại

Chính sanh là chẳng sanh.

*

Cóvị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?

Sưđáp:- Vì vỗ con nít khóc.

- Connít nín rồi thì thế nào?

- Phitâm phi Phật.

- Ngườitrừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?

- Nóivới y là "phi vật".

- Khichợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?

- Hãydạy y thể hội đại đạo.

*

Cóvị Tăng hỏi:

- Lytứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từẤn Ðộ sang?

Sưđáp:

- Hômnay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏiTrí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.

TríTạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?

Tăngđáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.

TríTạng hỏi:

- Hômnay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynhHải.

Tăngđến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũngchẳng hội.

Tăngtrở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầuhắc.

*

Cưsĩ Long Uẩn đến hỏi:

- Nướckhông gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý nàythế nào?

Sưđáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gânxương?

Uẩnbảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìnlên!

Sưliền nhìn thẳng xuống.

Uẩnnói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.

Sưliền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.

*

Mộtđêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.

Sưhỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?

TríTạng thưa:- Nên cúng dường.

HoàiHải thưa:- Nên tu hành.

PhổNguyện phủi áo ra đi.

Sưbảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyệnvượt ngoài sự vật.

*

HoàiHải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?

Sưđáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.

Sưlại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?

HoàiHải dựng đứng cây phất tử.

Sưbảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?

HoàiHải ném cây phất tử xuống.

*

Tănghỏi:- Thế nào được hiệp đạo?

Sưđáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.

Tănghỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?

Sưliền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽcười ta.

*

ÐặngẨn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?

ẨnPhong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.

- ÐườngThạch Ðầu trơn.

- Cócây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.

ẨnPhong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền mộtvòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:

- Ấylà tông chỉ gì?

ThạchÐầu nói:- Trời xanh! trời xanh!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:

- Ngươinên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi"hư! hư!"

ẨnPhong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.

ThạchÐầu bèn: Hư! hư!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:

- Tađã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".

*

Cóvị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?

Sưhỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?

- Tôigiảng được hơn hai mươi bản kinh luận.

- Ðâukhông phải là sư tử con?

- Khôngdám.

Sưthốt ra tiếng: Hư! hư!

Giảngsư nói:- Ðây là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ra khỏi hang.

Sưbèn im lặng.

Giảngsư nói:- Ðây cũng là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ở trong hang.

- Khôngra không vào là pháp gì?

Giảngsư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:

- Chủtọa!

Giảngsư xoay đầu lại.

Sưhỏi:- Là pháp gì?

Giảngsư cũng không đáp được.

Sưbảo:- Ông thầy độn căn.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Ðạokhông dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâmsanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốnhội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi làtâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủxả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳngphải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnhBồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếpvật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệudụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phảivậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tậnđăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tênđều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm làcội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồnnên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả phápđều đồng thuần nhất không lẫn lộn.

Nếuở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lậppháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháptrọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lạicủa tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêumặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, màbao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượngthì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nóiđạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêucác thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọnlà nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,thảy đều là thể của nhà mình.

Nếuchẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phậtpháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chânnhư, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảylà dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗchỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệkhéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúngsanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấpphàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe khônggì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lýđều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳngđể dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh khôngdiệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuấttriền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình nhưtrăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốcchẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng củavô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vậttượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấppháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.

Thanhvăn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễuđạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâmmình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộchẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên khôngtrở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chungcùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liềntrừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháptánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồitức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệpđạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnhhuân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳngthông.

Ðệtử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, làđã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làmchủ một phương truyền hóa vô cùng.

Ðờèường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảngtháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hànhtrong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thịgiả:

- Thâncũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,Sư trở về.

Ðếnngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồikiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươituổi hạ.

Sauvua sắc ban hiệu Ðại Tịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567