HTThích Thanh Từ
TẬP 2
B.Phái Hoài Nhượng
Sưhọ Chu quê ở Kiếm Nam, Giản Châu, xuất gia lúc hai mươituổi, cũng năm ấy thọ giới cụ túc. Sư nghiên cứu tinhthâm Luật tạng, thông suốt chỉ thú các kinh thuộc Tánh tôngvà Tướng tông. Vì thường giảng kinh Kim Cang Bát-nhã, nênthời nhân gọi Sư là Chu Kim Cang. Sư thường nói với đồnghọc: "Một sợi lông nuốt bể cả, tánh bể không thiếu;hạt cải nhỏ ném trên mũi nhọn, mũi nhọn chẳng động,học cùng không học chỉ có ta biết thôi."
Nghephương Nam Thiền tông thạnh hành, Sư bất bình nói: "Kẻ xuấtgia muôn kiếp học oai nghi của Phật, vạn kiếp học tế hạnhcủa Phật, chẳng còn được thành Phật. Những kẻ ma ởphương Nam dám nói "trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật".Ta phải ruồng tận hang ổ của chúng, diệt hết những giốngấy để đền ơn Phật." Sư bèn khăn gói lên đường mangtheo bộ Thanh Long sớ sao, ra khỏi đất Thục, nhắm Lễ Dươngtiến bước.
Trênđường, Sư gặp một bà già bán bánh, bèn dừng nghỉ chânvà bảo bà lấy ít cái bánh điểm tâm. Bà già chỉ gánh củaSư hỏi: Gói ấy là sách vở gì? Sư bảo: "Thanh Long sớsao." Bà hỏi: "Thầy thường giảng kinh gì?" Sư đáp: "KinhKim Cang." Bà nói: "Tôi có một câu hỏi, nếu Thầy đáp được,tôi xin cúng dường bánh điểm tâm. Bằng đáp chẳng được,mời Thầy đi nơi khác". Sư chịu. Bà hỏi: "Kinh Kim Cang nói "quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc,vị lai tâm bất khả đắc", xin hỏi Thượng tọa điểm tâmnào?" Sư đáp không được, bèn hỏi đường lên Long Đàm.
*
ĐếnPháp đường (nhà nói pháp) gặp Long Đàm, Sư nói: "Lâu naynghe danh Long Đàm, đi đến nơi Đàm (đầm) chẳng thấy, màLong (rồng) cũng không hiện." Sùng Tín bảo: "Ngươi đã gầnđến Long Đàm." Sư không đáp được, liền dừng lại đây.
*
Mộtđêm, Sư đứng hầu. Sùng Tín bảo: "Đêm khuya sao chẳng xuống?"Sư kính chào bước ra, lại trở vào, thưa: "Bên ngoài tốiđen." Sùng Tín thắp đèn cầy đưa Sư. Sư toan tiếp lấy,Sùng Tín liền thổi tắt. Ngay đó, Sư đại ngộ, liền lễbái. Sùng Tín hỏi: "Ngươi thấy cái gì?" Sư thưa: "Từ nayvề sau chẳng còn nghi lời nói chư lão Hòa thượng trong thiênhạ."
Hômsau, Sùng Tín lên tòa bảo chúng:
- Trongchúng đây có một gã răng như kiếm bén, miệng tợ chậumáu, đánh một gậy chẳng ngó lại, khi khác y lên ngọn núicao vót dựng lập đạo của ta.
*
Sưđem bộ sớ sao chất đống trước pháp đường (nhà nói pháp)nổi lửa đốt, nói:
- Tộtcùng các biện luận siêu huyền như một sợi lông ném tronghư không; hết sạch các trọng yếu ở đời in một nhỏ nướcgieo trong hồ lớn. Sư lễ từ Sùng Tín đi du phương.
*
ĐếnQui Sơn, Sư vào pháp đường từ phía tây đi qua phía đông,lại từ phía đông sang phía tây, hỏi: "Có chăng? Có chăng?"Qui Sơn ngồi lặng lẽ không ngó tới. Sư nói: "không, không",liền đi thẳng ra cửa tự nói: "Tuy nhiên như thế cũng chẳngđặng thô xuất." Sư bèn đầy đủ oai nghi đi trở vào. Vừabước ra cửa, Sư đưa tọa cụ lên, gọi: "Hòa- thượng",Qui Sơn toan nắm phất tử, Sư liền hét, phủi áo ra đi.
Chiều,Qui Sơn hỏi Thủ tọa: "Vị Tăng mới đến khi sáng còn ởchăng?" Thủ tọa thưa: "Ngay khi đó, y trở ra pháp đườngmang giày cỏ đi luôn." Qui Sơn bảo: "Gã ấy về sau, lên tậnngọn núi cao, cất am cỏ ở, để rồi quở Phật mắng Tổ."
Sưdừng lại Lễ Dương 30 năm. Gặp lúc Đường Võ Tôn phếgiáo, Sư tị nạn ở một mình trong thạch thất tại Phù Sơn.Đến thời Đại Trung năm đầu (847), Thái thú tên Tiết ĐìnhVọng tái trùng tu tịnh xá Đức Sơn để hiệu là Cổ đứcThiền viện, tìm kiếm những vị đạo hạnh trụ trì. Nghetiếng Sư, Đình Vọng nhiều phen đến thỉnh, Sư chẳng chịuxuống núi. Đình Vọng lập kế, lấy trà, muối đến phaovu Sư phạm cấm pháp, điệu Sư về Châu chiêm lễ. Đình Vọngcố thỉnh cho được Sư ở Đức Sơn. Sau cùng Sư chấp nhận.Ở đây, Sư xiển dương Tông phong rất thạnh.
*
Sưthượng đường bảo chúng:
- Nơimình vô sự thì chớ vọng cầu, vọng cầu mà được cũngchẳng phải được. Các ông chỉ vô sự nơi tâm, vô tâm nơisự thì hư (rỗng) mà linh (lanh lẹ), không mà diệu.
Nếucó nói gốc ngọn chừng đầu mảy lông đều là tự dối.Còn có mảy may nghĩ nhớ, là nghiệp nhân tam đồ. Bất chợtsanh tình (vọng khởi) là muôn kiếp bị khóa kín (địa ngục).Danh thánh hiệu phàm trọn là tiếng rỗng, tướng đặc biệthình xấu xa đều là sắc huyễn. Các ông muốn cầu đó, màkhông bị lụy sao? Và các ông chán đó, lại thành bệnh lớn?Cả hai đều là vô ích.
*
Sưthượng đường bảo:
- Hômnay tối không được thưa hỏi, ai thưa hỏi sẽ ăn ba mươigậy. Khi ấy có một vị Tăng bước ra lễ bái, Sư liền đánh.Tăng ấy thưa:
- Conchưa thốt ra lời hỏi, vì sao Hòa thượng đánh con?
Sưhỏi:- Ông là người xứ nào?
- Conngười Tân La (Triều Tiên).
Sưbảo:- Ông khi chưa xuống thuyền đã đáng ăn ba mươi gậyrồi.
*
LongNha hỏi:
- Khicon cầm kiếm Mạc Da toan chặt đầu Thầy thì sao?
Sưđưa cổ đến trước. Long Nha nói: "Rơi." Sư cuời hả!hả! Sau, Long Nha đến Động Sơn, thuật lại việc ấy. ĐộngSơn hỏi: "Đức Sơn nói thế nào?" Long Nha thưa: "Đức Sơnkhông nói." Động Sơn bảo: "Chớ nói Đức Sơn không nói,hãy đem đầu Đức Sơn trình Lão tăng xem?" Long Nha biết lỗixin sám hối.
Cóngười đem việc ấy thuật lại Sư, Sư bảo: "Ông già ĐộngSơn không biết tốt xấu, gã ấy đã chết được bao lâu,cứu được chỗ dụng gì?"
*
Sưthượng đường bảo: "Hỏi tức có lỗi, chẳng hỏi lạitrái." Có vị Tăng bước ra lễ bái. Sư liền đánh. Tăng thưa: "Con mới lễ bái vì sao Hòa thượng đánh?" Sư bảo: "Đợingươi mở miệng làm gì kịp."
*
Sưsai thị giả gọi Nghĩa Tồn, Nghĩa Tồn đến, Sư bảo: "Tabảo kêu Nghĩa Tồn, ngươi đến làm gì?" Nghĩa Tồn khôngđáp được.
*
Sưthấy vị Tăng đến, liền đóng cửa. Vị Tăng gõ cửa. Sưhỏi: "ai?" Tăng thưa: "sư tử con". Sư mở cửa. Tăng lễ bái.Sư liền leo lên cổ cỡi, nói: "Súc sanh này từ xứ nào đến?"
*
TuyếtPhong Nghĩa Tồn hỏi: "Tông thừa từ trước, riêng con có phầnchăng?" Sư đánh một gậy, bảo: "Nói gì?" Nghĩa Tồn thưa: "Chẳng hội." Hôm sau, giờ thưa hỏi, Sư nói: "Tông của takhông cầu lời, thật không có một pháp dạy người." TuyếtPhong nhân câu này được tỉnh.
*
Sưdạy chúng:
- Cácông từ sáng đến chiều có việc gì? chẳng cần trình môilừa, mỏ ngựa hỏi Lão già Đức Sơn sao? Ta chẳng sợ cácông, chưa biết các ông có những nghi vấn gì?
Gầnđây trong thời kỳ mạt pháp, có rất nhiều bọn quỉ thầnở nhà bên nói rằng "ta là Thiền sư". Chẳng biết học đượcbao nhiêu thiền đạo, nói tương tợ cho Lão tăng nghe? Cácông! Những lão trọc ở mọi nơi dạy các ông tu hành thànhPhật, chạy bên ngoài thành được bao nhiêu ông Phật? Cácông nếu không thể học, lại chạy tìm cái gì? Nếu có họccác ông thử đem cái học được trình cho Lão tăng xem? Mộtcâu chẳng tương đương phải ăn một gậy đau điếng mớiđược.
Cácông bị những lão trọc mọi nơi dùng ma mị làm bệnh, nóita là người tu hành, làm ra hình thức in tuồng bộ mặt ngườiđắc đạo. Chớ có nhận dụng tâm như thế, muôn kiếp ngànđời luân hồi trong tam giới đều là "Có tâm". Vì cớ sao?Vì tâm sanh thì các thứ pháp sanh. Nếu khéo một niệm chẳngsanh thì hằng thoát khỏi sanh tử, chẳng bị sanh tử tróibuộc, cần đi thì đi, cần ngồi thì ngồi, lại còn có việcgì?
*
Nhângiả! ta thấy các ông phát tâm đến trong hội những lão trọchọc Phật pháp, gánh vác chẳng tiếc thân mạng, rốt cuộccác ông đều bị đâm đui mắt, đoạn đứt mạng căn. Cóvài ba trăm kẻ tương tợ dâm nữ, nói: "ta làm hóa chủ dựnglập pháp tràng, vì người sau mở mắt cho họ". Kẻ ấy tựcứu được chăng?
Nhângiả! nói tu hành như thế, các ông đâu chẳng nghe Lão Hồ(ông già Ấn Độ, chỉ Phật) trải ba kiếp A-tăng-kỳ tu hànhmà nay còn đâu? Sau tám mươi (80) năm chết mất, cùng cácông có khác gì?
Cácông chớ cuồng! Khuyên các ông không gì hơn THÔI HẾT đi,VÔ SỰ đi. Tâm vừa khởi một niệm tức là quyến thuộcnhà ma, là kẻ tục phá giới.
Cácông thấy Đức Sơn ra đời năm năm, mười năm, đồng nghĩtụ họp nhau đến nạn vấn, mong ta đớ lưỡi không lời.Các ông thật là bọn lâu la. Sao nay chẳng để cây dùi xoiphủng đãy đựng, xuất đầu hay chẳng xuất đầu là tốt,ta cần hỏi thật các ông, chớ lầm.
*
Nhângiả! Các ông chạy lăng xăng bên nhà ngoài, nói ?ta hiểu thiền,hiểu đạo?; chỉ ngực, chỉ sườn, khen ngợi, trịnh trọng.Những cái ấy cần phải mửa hết mới được Vô Sự.
Cácông chỉ cần ngoài không mắc thanh sắc, trong không hiểu biếtnăng sở. Vì thể không phàm thánh, lại học cái gì? Dù họcđược trăm ngàn diệu nghĩa, chỉ là con quỉ ăn ghẻ bướu,thảy đều là tinh mị. Ta trong ấy rỗng thênh, nói có chẳngphải có, nói không chẳng phải không, nói phàm chẳng phàm,nói thánh chẳng thánh, tất cả chỗ để y chẳng được,mà làm thầy muôn pháp, cái ấy ta chẳng dám chê y.
Sởdĩ Lão Hồ (Phật) mửa ra bao nhiêu phương tiện đàm dãi dạycác ông VÔ SỰ đi, chớ nhằm bên ngoài tìm. Các ông lạichẳng nhận, muốn được gom góp những ngôn cú thù thắng,dồn trong hông trong ngực, nói lời khéo léo, lấy đầu lưỡibiện đến quần vải, cốt mong cho người biết, nói ta làThiền sư, mong có chỗ xuất đầu lộ diện. Nếu có kiếngiải như thế là con quỉ ở xương trôn, có ngày sẽ vàođịa ngục Bạt thiệt. Đến đó rồi, tìm người nói ta làThiền sư đi!
Kẻkhách trong nhà thiền vừa bị người hỏi đến việc bổnphận, miệng in cây cọc, liền trở lại nói với họ Bồ-đềNiết-bàn chân như giải thoát, dẫn rộng trong ba tạng, nóigiáo là thiền là đạo, dối gạt người chung quanh, có gìlà dính dáng, chê bai tiên Tổ của ta.
Chỗthấy của lão Đức Sơn này chẳng phải thế, trong ấy Phậtcũng không, pháp cũng không; Đạt-ma là ông già Hồ tanh hôi,Bồ-tát thập địa là kẻ gánh phẩn, Đẳng giác Diệu giáclà kẻ phàm phu phá giới, Bồ-đề Niết-bàn là cây cọc cộtlừa, mười hai phần giáo là bộ sổ của quỉ thần là giấylau ghẻ, Tứ quả Tam hiền Sơ tâm Thập địa là quỉ giữmồ xưa, tự cứu được chăng? Phật là cục phân của ônggià Hồ (Ấn).
*
Nhângiả! chớ lầm thân mặc áo ghẻ bướu, học việc gì? Ăncơm no rồi, nói chân như Niết-bàn, ngoài da lại có máu chăng?Cần phải có ý khí trượng phu mới được.
Cácông chớ mến thánh, thánh là danh từ rỗng. Đến tam giớimười phương thế gian, nếu có một hạt bụi, một pháp thậtđể cho các ông nhận lấy, sanh hiểu gìn giữ quí trọng,trọn rơi vào thiên ma ngoại đạo, ấy là có học được,cũng là bọn tinh mị dã hồ nương cỏ dựa cây.
Cácông! khoảng này không có một pháp cho các ông giải hội,tự mình cũng chẳng hội thiền. Ta cũng chẳng phải thiệntri thức, mọi việc đều không hiểu, chỉ biết đi ỉa điđái, ăn cơm mặc áo, còn có việc gì?
LãoĐức Sơn này khuyên các ông chi bằng giữ bổn phận đi, sớmthôi dứt đi, chớ học cuồng loạn, mỗi người gánh tửthi một cách linh hoạt đi. Các lão trọc trong miệng ưa ănđàm dãi của người, nói "ta là người vào tam giới tu hạnhuẩn tích, nuôi lớn thai thánh, nguyện thành quả Phật". Nhữngbọn như thế, Lão Đức Sơn này thấy như tên độc bắn vàotim, kim châm vào mắt, đã cô phụ tiên Tổ, làm lụy Tôngđồ của ta. Họ nói "ta là kẻ xuất gia", như thế ăn tiêucủa thí chủ mười phương, thật sự một giọt nước cũngchẳng tiêu đặng, còn chẳng dám đi trên đất quốc vương,cha mẹ không nuôi món ngon vật lạ, đâu phải là không việc.Chớ lầm dụng tâm, vua Diêm-la sẽ thăm hỏi ngươi, sẽ xỏmũi ngươi trói vào cột trụ để đền lại nợ trước. Chớbảo Lão tăng chẳng nói.
Cácông thật là có phước gặp Đức Sơn ra đời, vì các ôngcởi dây trói buộc, thoát khỏi lồng giam, gỡ khỏi lưng ngựa,được làm người tốt, tam giới lục đạo bắt ông chẳngđược. Lại không có pháp khác. Cái sáng rỡ rỗng rang khôngngại tự tại ấy, chẳng phải vật do các ông trang nghiêmđược. Từ Phật đến Tổ đều truyền pháp này mà đượcxuất ly. Một Đại tạng kinh chỉ là chỉnh lý các ông hiệnthời.
Cácông chớ nhằm chỗ khác tìm kiếm, cho đến Đạt-ma _ vịTăng nước Hồ con mắt xanh nhỏ_ đến xứ này cũng chỉ dạycác ông Vô Sự đi, dạy các ông chớ tạo tác, mặc áo ăncơm, đi ỉa đi đái, lại không có sanh tử đáng sợ, cũngkhông Niết-bàn nên được, không Bồ-đề để chứng, chỉlà tầm thường một người Vô Sự.
Nhấtlà, chớ khoanh tay làm Thiền sư, tìm chỗ xuất đầu, dùnglời khéo léo lừa gạt kẻ hậu sanh, muốn được ngườigọi mình là Trưởng lão, trên phần của chính mình khôngchút dính dáng, vẫn là tâm thức lăng xăng ngày đêm tác quáichẳng dừng, tán thán trịnh trọng ta là tông đồ của MãĐại sư ở Giang Tây. Lão Đức Sơn này chẳng phải thế.
Nàyhết thảy các ông! ta thấy Hòa thượng Thạch Đầu ông giàkhông biết tốt xấu, sở dĩ mă?g các đồ đệ: ?các ngươichớ mắc nơi thanh sắc, danh ngôn, cú nghĩa, cảnh trí, cơquan, đạo lý thiện ác, phàm thánh, thủ xả, phan duyên, nhiễmtịnh, minh ám, hữu vô, trong các cái đáng nghĩ, được thếmới phải là người Vô Sự. Phật cũng chẳng bằng ngươi,Tổ cũng chẳng bằng ngươi.?
*
Nhângiả! chớ chạy mòn gót chân các ông, không có thiền đạonào khác có thể học. Nếu có học được, tức là hai đầuba cổ, là kiến giải của ngoại đạo. Cũng không có thầnthông biến hóa thật. Nếu ông nói thần thông là thánh thìchư thiên, long thần, tiên, ngoại đạo được ngũ thần thôngvà tu-la cũng có thần thông lý ưng là Phật sao?
Ởtrên đảnh núi một mình, ngày ăn một bữa, ngồi mãi chẳngnằm, sáu thời lễ tụng, vẫn còn hồ nghi sanh tử. Lão Hồ(Phật) có nói: "các hạnh vô thường là pháp sanh diệt". Nếunói nhập định ngưng thần tịnh lự mà được, bọn Ni-kiền-tửv.v? các thầy ngoại đạo cũng nhập được đại định támmuôn kiếp, đâu chẳng phải là Phật ư? Phải biết rõ tàkiến tinh mị.
*
Nhângiả! Lão Hồ chẳng phải Thánh. Phật là cục cứt của LãoHồ. Cần thiết nhân giả biện rành tốt xấu, chớ mắc nhânngã thì khỏi bị chư thánh cột, Bồ-đề cột, giải thoát,thù thắng, danh ngôn, diệu nghĩa nhận chìm, trói buộc. Vìcớ sao? - Vì một niệm vọng tâm chẳng sạch tức là sanhtử tiếp nối.
Nhângiả! thời giờ chẳng đợi người, chớ để trôi qua thángngày, thời gian đáng tiếc. Lão tăng chẳng mong các ông làmkẻ tớ gánh vác ruộng nhà. Nếu các ông chấp nhận thì tinlấy, nếu chẳng chấp nhận thì mỗi người có một cái bátmang lên vai mà đi. Lão tăng cũng chẳng cần các ông.
Cáclão trọc ở mọi nơi, một người chiếm cứ một xứ, nóithiền nói đạo, các ông mau đi học lấy chép lấy. Ta trongđây không có một pháp cho các ông.
Nhângiả! hỏi lấy học lấy để làm tri giải, Lão tăng khôngthể vào địa ngục Bạt thiệt. Nếu có một hạt bụi, mộtpháp chỉ dạy cho người, nói rằng có Phật có pháp, có tamgiới để ra, đều là dã hồ tinh mị.
*
Chưnhân giả! muốn được biết chăng? Chỉ là cái rỗng không,còn không có một mảy bụi có thể được, nơi nơi thanh tịnh,sáng rỡ rỗng suốt, trong ngoài đều sáng suốt, vô sự, vôy, không chỗ nương gá thì có việc gì? Lão tăng từ sanh đếntử chỉ là Lão tỳ-kheo, tuy sanh trong tam giới mà không cấunhiễm, còn muốn được ra khỏi chỗ nào? Dù có chỗ đi,cũng là lồng bẫy, ma sẽ có cơ hội thuận tiện.
Nhângiả! chớ dụng thân tâm, vì không thể được, chỉ cầntrong tất cả thời chớ kẹt nơi thanh sắc, cốt phải nhữnghành lý từ trước một lúc ném hết, chóng thoát xiềng xích,hằng lìa cái (ngũ cái) triền (thập triền). Một niệm khôngsanh thì mé trước mé sau dứt, không nghĩ không nhớ, khôngmột pháp hợp tình.
*
Nhângiả! làm sao cắm mỏ xuống, các ông nhiều tri giải, đãtừng biết mặt mày y chăng? Kẻ xuất gia, cho đến bậc Bồ-tátthập địa mãn tâm tìm dấu vết của y cũng chẳng được.Do đó, chư thiên hoan hỉ, địa thần đỡ chân, mười phươngchư Phật khen ngợi, ma vương khóc lóc. Vì cớ sao? Bởi cáirỗng không này hoạt bát rạng ngời, không cội gốc, khôngchỗ nơi. Nếu người đến được trong ấy, con mắt đứngchớp đều không liên hệ.
*
Nhângiả! chớ cầu Phật, Phật là kẻ giặc đại sát nhân lừabao nhiêu người rơi vào hầm ma dâm. Chớ cầu Văn-thù PhổHiền, là kẻ tớ ruộng nhà. Đáng tiếc, là bậc trượngphu đường đường mà uống thuốc độc của người. Bèntoan làm Thiền sư, trước mặt thấy thần thấy quỉ, vềsau cuồng loạn chạy sang nhà bên tìm Sư bà đập ngói bóicho. Bị các lão trọc vô tri, xủ quẻ bảo lễ quỉ Tổ sư,quỉ Phật, quỉ Bồ-đề Niết-bàn. Kẻ dâm nữ nhỏ ấy chẳnghội, liền hỏi "thế nào là ý Tổ sư từ tây sang", lão trọckia liền đánh giường thiền làm cảnh, hoặc dựng phất tử,bảo "trời trong tốt, mưa tốt, lồng đèn tốt", lời lẽkhéo léo gượng làm tiết mục, có huyền lộ, điểu đạo,xè tay. Nếu nhận những lời nói như thế, khác nào đem bátbáu đựng đồ dơ, như đem phẩn làm hương chiên-đàn.
*
Nhângiả! kia đã là trượng phu, ta cũng vậy, khiếp nhược vớiai? Mà trọn ngày đến các lão trọc mọi nơi nhận lấy đàmdãi của họ, trọn không biết hổ thẹn, khổ thay! khổ thay!làm cuồng loạn ngươi, nhân quả rõ ràng sẽ làm thân trâukéo cày mang bừa.
Hoặckẻ tròng mắt chợt hiện, khí lực chẳng thêm, dùng gậyto đập xương sống ông, ăn cướp áo cơm của Phật, nói "ta tu hành xong".
*
Sưdạy chúng:
- Cókhi cỡi đầu cọp nắm đuôi cọp, câu thứ nhất rõ tôngchỉ, khi không nói thấy bày cơ phong, như đồng điện chớp.
*
Sưcó bệnh, Tăng hỏi: "Lại có cái chẳng bệnh chăng?" Sư đáp: "Có"
Tănghỏi: "Thế nào là cái chẳng bệnh?" Sư bảo: "Ôi da! Ôi da!"
Sưlại bảo chúng:
- Chụpkhông tìm tiếng luống nhọc tâm thần các ngươi; mộng tỉnh,tỉnh rồi trọn không có việc gì.
Nóixong, Sư ngồi yên mà tịch. Nhằm đời Đường niên hiệuHàm Thông năm thứ sáu (865), ngày mùng ba tháng chạp năm ẤtDậu. Sư thọ tám mươi sáu tuổi. Vua sắc thụy Kiến TánhĐại sư.
*
LỜIDỊCH GIẢ
Chúngtôi cố tránh né không dám lạm bàn những ngôn ngữ và hànhđộng của chư Thiền đức. Bởi lẽ không muốn độc giảnhai lại những bã xác mía khô, để mỗi độc giả tự thưởngthức vị cam lồ của chính mình phát minh.
Nhưng,qua ngôn ngữ của ngài Đức Sơn, nếu chúng tôi không bàne có nhiều độc giả hiểu lệch lạc, khiến bản nguyệncủa chúng tôi không đạt được, mà có thể trái lại làkhác. Do đó, chúng tôi có ít lời bình như sau:
ĐứcSơn là một ngôi sao sáng trong Thiền môn vào thời Đườngmạt. Những Thiền sinh đến tham vấn đa số được Ngài choăn gậy. Mỗi khi thượng đường dạy chúng, Ngài thườngdùng những ngôn ngữ táo bạo, mà người ta gọi là "mắngPhật mạ Tổ".
Vìsao Đức Sơn có hành động ngôn ngữ ấy? Bởi lẽ, Ngài quáNHIỆT TÌNH, nói theo danh từ nhà Thiền có "tâm lão bà". Chúngta thấy, khi Ngài cất gánh kinh lên vai sang phương Nam, khôngvì tìm hiểu thiền, mà cốt "tiêu diệt chúng ma quái (Thiềntông) để báo ân Phật". Tâm niệm ấy, đã nói lên Ngài làsứ giả của Luật, Giáo. Luật, Giáo là lý tưởng tối thượngđời Ngài phải phụng thờ. Như vậy, Ngài sang phương Namvới NHIỆT TÌNH hộ pháp "tồi tà phụ chánh" (dẹp tà giúpchánh).
Saukhi gặp Long Đàm, lý tưởng tối thượng của Ngài tôn thờđã trở thành hình ảnh chết, là cặn bã của người xưa.Chí nguyện "tồi tà phụ chánh" của Ngài đã tan biến nhưmây khói, hay ngược lại chính Ngài tự thấy mình là nguời "phụ tà tồi chánh" (giúp tà dẹp chánh). Đột biến bấtthần ấy, khiến Ngài mang gánh kinh ra trước pháp đườngthiêu sạch.
Cóngồi nhà giam mới biết thương những người bị giam, đólà NHIỆT TÌNH của Đức Sơn qua giai đoạn hai.
Thiền,Đạo là cái linh minh hiện hữu nơi mình. Song vừa khởi tâmtìm nó liền mất, mong thấy nó đã chẳng hiện. Nó khôngphải những văn tự khô cằn, cũng không phải ngôn ngữ sanhdiệt. Bám vào văn tự, vào ngôn ngữ để cầu Thiền cầuĐạo thật là đại sai lầm. Bỏ mình đi cầu Thiền cầuĐạo nơi người, thật là việc "cỡi trâu tìm trâu", "bính đinh cầu hỏa".
Nhưng,nhà giam văn tự ngôn ngữ, dây xiềng cầu cạnh bên ngoàiđã và đang giam giữ xiềng xích bao nhiêu người có thiệnchí học đạo. Do đó, với NHIỆT TÌNH của Đức Sơn phảiđập tan nó bằng gậy, mạt sát chúng bằng lời, hầu mongcổi trói cho mọi người. Đúng như lời bình của Vân Mônsau này "chỉ có Đức Sơn mới hay khen ngợi Phật, Tổ".
Phật,Tổ cố lập mọi phương tiện để phá chấp cho chúng ta.Chúng ta không mượn phương tiện ấy để gột sạch vọngchấp của mình, trái lại bám lấy phương tiện cho là cứukính, thật là tự lấy dây trói mình. Khi đã bị trói rồi,chạy cầu người khác mở trói. Đó là từ sai lầm này sangsai lầm khác, cả đời lẩn quẩn làm sao thoát được!
Aiđã có "tâm lão bà" trông thấy thế mà chẳng thương? Huốngnữa Đức Sơn là một nạn nhân vừa thoát nạn, trông thấybạn đồng hành của mình đang bị bao vây, làm sao không cónhững cái đánh tóe lửa, những lời mắng tét tai, lấy làmphương tiện cứu cấp.
Chonên, đọc Đức Sơn, chúng ta đừng khó chịu bởi ngôn ngữvà hành động của Ngài, vì biết đó là phương tiện cấpbách, cũng đừng bắt chước ngôn ngữ ấy để phỉ bángTam Bảo mà phải đọa địa ngục. Chúng ta cần phải họcNHIỆT TÌNH của Đức Sơn, và cốt nhận ra chỗ chí yếu màNgài muốn chỉ dạy.