Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

35. Phẩm Tà tư

02/05/201111:10(Xem: 12764)
35. Phẩm Tà tư

KINH TĂNG NHẤTA HÀM
Việtdịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ - Hiệu đính: Hòa thượngThích Thiện Siêu
ViệnNghiên cứu Phật học Việt Nam - PL 2541 - TL 1997

TẬP 2
XXXV.Phẩm Tà tư

1.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nếucó người ở trong nhóm tà kiến thì có tướng trạng gì,có nhân duyên gì?

CácTỳ-kheo bạch Thế Tôn:

- NhưLai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lànhthay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo. Chúng connghe rồi sẽ vâng làm.

ThếTôn dạy:

- CácThầy khéo suy nghĩ. Ta sẽ vì các Thầy phân biệt nghĩa này.

CácTỳ-kheo đáp:

- Xinvâng, Thế Tôn!

CácTỳ-kheo vâng lời Phật dạy. Thế Tôn dạy:

- Ngườiở nhóm tà sẽ do năm việc mà biết. Ðã thấy năm việc thìbiết người này ở nhóm tà. Thế nào là năm? Ðáng cườimà không cười, lúc đáng hoan hỉ mà không hoan hỉ, đángkhởi tâm từ mà không khởi tâm từ, làm ác mà không xấuhổ, nghe lời lành mà không để ý. Nên biết người này ởnhóm tà. Nếu có chúng sanh ở nhóm tà, nên dùng năm việcmà biết.

Lạinữa, có chúng sanh ở trong nhóm chánh, có tướng mạo gì,có nhân duyên gì?

CácTỳ-kheo bạch Thế Tôn:

- NhưLai là vua các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Cúi mongThế Tôn hãy thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo. Chúng con nghexong sẽ vâng làm.

ThếTôn dạy:

- CácThầy khéo suy nghĩ! Ta sẽ vì các Thầy phân biệt nghĩa này.

CácTỳ-kheo đáp:

- Xinvâng, Thế Tôn!

CácTỳ-kheo vâng lời Phật dạy. Thế Tôn bảo:

- Ngườiở nhóm chánh, sẽ do năm việc mà biết. Ðã thấy năm việcthì biết người này trụ ở nhóm chánh. Thế nào là năm?Ðáng cười thì cười, đáng hoan hỉ thì hoan hỉ, đáng khởitâm từ thì khởi tâm từ, đáng xấu hổ thì xấu hổ, nghelời lành thì để ý. Nên biết người này đã ở nhóm chánh,trụ ở nhóm chánh. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điềunày.

Bấygiờ có các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- NhưLai xuất hiện ở đời tất sẽ vì năm việc. Thế nào lànăm? Sẽ chuyển pháp luân, sẽ độ cha mẹ, khiến ngườikhông tin lập niềm tin, khiến người chưa phát tâm Bồ-tátkhiến phát tâm Bồ-tát, sẽ truyền yếu quyết của Phậttương lai.

Nếulúc Như Lai xuất hiện ở đời thì sẽ vì năm việc này.Thế nên các Tỳ-kheo, hãy khởi tâm từ đối với Như Lai.Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấygiờ có các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Cónăm sự bố thí không được phước. Thế nào là năm? Lấydao thí cho người, lấy độc thí cho người, lấy bò hoangthí cho người, lấy dâm nữ thí cho người, tạo các miễuthần.

Ðólà, này Tỳ-kheo! Có năm việc bố thí không được phước.Tỳ-kheo nên biết, lại có năm việc bố thí khiến đượcphước lớn. Thế nào là năm? Tạo vườn cảnh, tạo rừngcây, tạo cầu đò, tạo thuyền lớn, tạo phòng xá trụ xứcho người qua lại.

Ðólà, Tỳ-kheo! Có năm việc này khiến được phước.

ThếTôn liền nói kệ:

Vườncảnh thí mát mẻ,
Vàtạo cầu đò tốt,
Bếnsông đưa mọi người,
Vàlàm phòng nhà tốt,
Ngườiđó trong ngày đêm,
Hằngsẽ nhận được phước,
Giớiđịnh đã thành tựu,
Ngườinày ắt sanh thiên.

Thếnên, các Tỳ-kheo, hãy nhớ tu hành năm đức thí này. Như thế,các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấygiờ có các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

4.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Ðànbà có năm thế lực coi thường chồng. Thế nào là năm? Sắclực, thế lực của thân tộc, sức mạnh của ruộng vườngia nghiệp, sức mạnh của con cái, sức mạnh của tự thủmà coi thường người chồng.

Ngườichồng lại cũng dùng một thế lực để che phủ người vợkia. Thế nào là một thế lực? Nghĩa là sức phú quý. Ngườichồng vì phú quý, sức mạnh của sắc chẳng bằng, thân tộc,ruộng vườn, con cái, tự thủ đều chẳng bằng. Ðó là domột thế lực mà thắng bấy nhiêu thế lực. Nay tệ ma Ba-tuầncũng có năm thế lực. Thế nào là năm? Nghĩa là: sắc lực,thanh lực, hương lực, vị lực, xúc lực. Phàm người ngusi đắm trước các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc chẳngthể qua được cảnh giới của ma Ba-tuần. Nếu đệ tử Thánhthành tựu một thế lực thì thắng bao nhiêu sức đó. Thếnào là một thế lực? Nghĩa là sức không phóng dật. Nếucác đệ tử bậc Hiền Thánh thành tựu không phóng dật, thìchẳng bị sắc, thanh, hương, vị, xúc trói buộc. Vì khôngbị ngũ dục trói buộc, nên có thể phân biệt pháp sanh, già,bệnh, chết, thắng năm thế lực của ma, không rơi vào cảnhgiới ma, qua được các nạn đáng sợ, đến chỗ vô vi.

ThếTôn liền nói kệ này:

Giớilà đạo cam lồ,
Phóngdật là đường chết,
Khôngtham thì không chết,
Mấtđạo là mất mình.

Phậtbảo các Tỳ-kheo:

- Nênnhớ tự hành, chớ phóng dật. Như thế, các Tỳ-kheo, nênhọc điều này.

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Ðànbà có năm dục tưởng. Thế nào là năm? Sanh nhà hào quý,được gả cho nhà phú quý, chồng sẽ làm theo lời, có nhiềucon cái, ở nhà tất cả do một mình mình.

Ðólà, này các Tỳ-kheo! Ðàn bà có tư tưởng về năm việc đángmuốn này. Như thế, này Tỳ-kheo! Tỳ-kheo của Ta cũng nghĩđến năm việc đáng muốn. Thế nào là năm? Nghĩa là: cấmgiới, đa văn, thành tựu tam-muội, trí tuệ, trí tuệ giảithoát. Ðó là Tỳ-kheo có năm việc đáng mong muốn này.

ThếTôn liền nói kệ:

Tasanh dòng hào tộc,
Cũngvề nhà phú quý,
Haysai khiến ông chồng,
Chẳngphước, không đạt được,
Khiếnta nhiều con cái,
Hươnghoa tự trang sức,
Tuycó tưởng niệm này,
Khôngphước khó thu được,
Tín,giới mà thành tựu,
Tam-muộikhông di động,
Trítuệ cũng thành tựu,
Giảiđãi, thì chẳng được,
Muốnđược thành đạo quả,
Chẳngdạo vực sanh tử,
Mongmuốn đến Niết-bàn,
Giảiđãi thì chẳng được.

Nhưthế, các Tỳ-kheo! Nên tìm phương tiện thực hành pháp lành,trừ bỏ pháp bất thiện, dần dần tiến tới, không có tâmhối hận giữa chừng. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điềunày.

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6.Tôinghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Cónăm lúc không nên lễ người. Thế nào là năm? Nếu ở trongtháp (thâu-bà) không nên làm lễ, ở trong đại chúng khôngnên làm lễ, lại ở đường đi không nên làm lễ, đau bệnhnằm trên giường không nên làm lễ, nếu lúc ăn uống khôngnên làm lễ. Ðó là, này các Tỳ-kheo, có năm việc không nênlàm lễ với người.

Lạicó năm việc biết thời làm lễ. Thế nào là năm? Không ởtrong tháp, không ở trong đại chúng, không ở trên đườngđi, không bị đau bệnh, lại không phải lúc ăn uống. Ðâynên làm lễ. Thế nên, các Tỳ-kheo, nên tạo phương tiệnbiết lúc mà hành.

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

7.Tôinghe như vầy:

Mộtthời Phật ở trong thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-đà cùngvới chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người.

Bấygiờ Thế Tôn bảo Tôn giả Ưu-đầu-bàn:

- NayThầy vào thành La-duyệt xin một ít nước nóng. Vì sao thế?Hôm nay Ta bị đau lưng.

Ưu-đầu-bànbạch Phật:

- Xinvâng, Thế Tôn!

Ưu-đầu-bànvâng lời Phật dạy, đến giờ đắp y ôm bát vào thành La-duyệtxin nước nóng. Tôn giả Ưu-đầu-bàn liền nghĩ: 'Thế Tôncó nhân duyên gì khiến ta xin nước nóng? Như Lai các kiếtsử đã tận, mọi điều lành chứa nhóm, mà Như Lai lại bảorằng: 'Nay Ta bị đau lưng' mà Thế Tôn lại chẳng cho biếttên họ, đến nhà ai'.

Bấygiờ Tôn giả Ưu-đầu-bàn dùng thiên nhãn quán sát nam nữtrong thành La-duyệt xem người nào đáng độ. Khi ấy trongthành La-duyệt có Trưởng giả tên Tỳ-xá-la-tiên, chẳng trồngcăn lành, không giới, không niềm tin, tà kiến đối với Phật,Pháp, Tăng, cùng biên kiến tương ưng. Ông ta có tà kiến này:'Không thí, không cho, không người nhận, cũng lại không cóquả báo thiện ác, không có đời này, đời sau, không cha,không mẹ. Ðời không có Sa-môn, Bà-la-môn v.v... được thànhtựu; ở đời này, đời sau tự thân tác chứng, mà tự duhóa'.

Ôngta thọ mạng rất ngắn, sau năm ngày sẽ chết. Ông lại thờngũ đạo đại thần. Bấy giờ Ưu-đầu-bàn lại nghĩ: 'NhưLai ắt muốn độ Trưởng giả này. Sở dĩ như thế vì Trưởnggiả này sau khi chết sẽ sanh trong địa ngục kêu khóc'.

Khiđó Ưu-đầu-bàn liền cười. Ngũ đạo đại thần từ xathấy ngài cười, liền ẩn hình biến thành người đến chỗƯu-đầu-bàn, để ngài sai khiến. Tôn giả Ưu-đầu-bàn dẫnngười này đến ngoài cửa Trưởng giả, đứng làm thinh khôngnói. Trưởng giả xa thấy có đạo nhân đứng ngoài cửa,tức thời nói kệ:

NàyÔng làm thinh đứng,
Cạođầu mặc cà-sa,
Vìmuốn xin những gì?
Nhânviệc gì đến đây.
Ưu-đầu-bàndùng kệ đáp:
-Ðấng Như Lai vô trước
Hômnay bệnh phong phát
Nếucó nước nóng ấm
NhưLai muốn tắm rửa.

Trưởnggiả làm thinh chẳng đáp. Ngũ đạo đại thần bảo Tỳ-xá-la-tiên:

- Trưởnggiả nên lấy nước cho, sẽ được phước vô lượng, sẽđược quả báo cam lồ.

Trưởnggiả đáp:

- Tatự có Ngũ đạo đại thần, dùng Sa-môn này đâu ích lợithêm việc gì?

Ngũđạo đại thần nói kệ:
NhưLai lúc mới sanh,
ThiênÐế đến hầu hạ,
Lạilà ai ra đây,
Cóthể sánh ngang hàng?
DùngNgũ đạo thần chi
Chẳngthể có chỗ giúp,
Thàcúng dường Thích sư
Liềnđược quả báo lớn.

Bấygiờ Ngũ đạo đại thần lại bảo Trưởng giả:

- Ôngnên gìn giữ thân, miệng, ý hành. Ông chẳng biết uy lựccủa Ngũ đạo đại thần sao?

Khiấy Ngũ đạo đại thần liền hóa làm thân quỷ thần lớn,tay phải cầm kiếm bảo Trưởng giả rằng:

- Nayta chính là Ngũ đạo đại thần. Mau lấy nước nóng cho Sa-mônnày, chớ nên chần chờ.

Khiấy Trưởng giả liền nghĩ: 'Kỳ quá! Lạ quá! Ngũ đạo đạithần lại cúng dường Sa-môn này'.

Trưởnggiả liền lấy nước nóng thơm đưa cho Sa-môn, lại lấy đườngphèn đưa cho Sa-môn. Ngũ đạo đại thần tự cầm nước thơmnày, cùng Ưu-đầu-bàn đến chỗ Thế Tôn, đem nước nóngthơm dâng lên Thế Tôn. Thế Tôn lấy nước nóng thơm tắmrửa thân thể, phong liền bớt, không tăng nặng nữa.

Khiấy Trưởng giả sau năm ngày liền mạng chung sanh lên TrờiTứ thiên vương. Tôn giả Ưu-đầu-bàn nghe tin Trưởng giảmạng chung, liền đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi mộtbên. Ưu-đầu-bàn bạch Thế Tôn:

- Trưởnggiả này mệnh chung rồi sanh về đâu?

ThếTôn bảo:

- Trưởnggiả này mạng chung, sanh trên Trời Tứ thiên vương.

Ưu-đầu-bànbạch Phật:

- Trưởnggiả này ở đó mạng chung sẽ sanh đi đâu?

ThếTôn bảo:

- Ởđó mạng chung sẽ sanh trong Tứ thiên vương, Trời Ba mươiba cho đến sinh trong cõi Trời Tha hóa tự tại. Ở kia mạngchung sẽ sanh trong trời Tứ thiên vương. Trưởng giả nàytrong sáu mươi kiếp không đọa đường ác. Rốt cuộc đượcmang thân người, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất giahọc đạo thành Phật Bích-chi. Sở dĩ như thế, vì đức củasự bố thí nước nóng được phước như vậy.

Thếnên, Ưu-đầu-bàn, hằng nhớ lo nước tắm chúng Tăng, nghethuyết đạo giáo. Như thế, Ưu-đầu-bàn, nên học điềunày.

Bấygiờ Tôn giả Ưu-đầu-bàn nghe Phật dạy xong, vui vẻ vânglàm.

*

8.Tôinghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ có Tỳ-kheo chẳng ưa tu Phạm hạnh, muốn bỏ cấm giới,hoàn tục. Tỳ-kheo ấy đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy, ngồimột bên, rồi bạch Thế Tôn:

- Naycon không ưa tu Phạm hạnh, muốn bỏ cấm giới trở về làmbạch y.

ThếTôn bảo:

- Naythầy vì sao chẳng ưa tu Phạm hạnh, muốn bỏ cấm giới vềlàm bạch y.

Tỳ-kheođáp:

- Naytâm ý con bừng bừng, trong thân như lửa đốt. Nếu lúc conthấy đàn bà đoan chánh vô song, lúc ấy con nghĩ rằng: 'Phảichi người đàn bà này cùng ta cộng giao'. Rồi con lại nghĩ:'Ðây chẳng phải Chánh pháp, nếu ta theo tâm này thì chẳngphải chánh lý'. Lúc ấy con lại nghĩ: 'Ðây là ác lợi, chẳngphải thiện lợi. Ðây là ác pháp, chẳng phải thiện pháp'.Nay con muốn bỏ cấm giới trở về làm bạch y. Cấm giớicủa Sa-môn, thực chẳng thể phạm. Con làm người thế tụccó thể phân đàn bố thí.

ThếTôn bảo:

- Phàmlà đàn bà có năm thứ ác. Thế nào là năm? Uế ác, hai lưỡi,tật đố, sân giận, không biết đền đáp.

Bấygiờ Thế Tôn liền nói kệ:

Buồnvui do tài sản,
Hiệnlành mà lòng độc,
Hạingười mất đường lành,
Nhưchim ưng bỏ đất.

Thếnên, Tỳ-kheo! Nên trừ bỏ tưởng bất tịnh, suy nghĩ quánvề bất tịnh. Tỳ-kheo suy nghĩ quán về bất tịnh rồi sẽđoạn hết dục ái, sắc ái, vô sắc ái; đoạn hết vô minh,kiêu mạn. Này Tỳ-kheo, lòng dục từ đâu sanh? Từ tóc sanhchăng? Nhưng tóc xấu xí chẳng sạch. Ðó là do huyễn hóadối gạt người đời. Móng tay, răng... những thứ thuộcthân thể là chỗ bất tịnh. Cái nào là chân thật? Từ đầuđến chân thảy đều như thế. Gan, mật, ngũ tạng, nhữngvật có hình, không một cái gì đáng tham đắm, cái nào làchân? Này Tỳ-kheo, dục của Thầy từ đâu sanh? Nay Thầy khéotu Phạm hạnh, Chánh pháp của Như Lai, chắc chắn sẽ hếtkhổ. Mạng người rất ngắn, chẳng ở đời lâu. Tuy có thọlắm cũng chẳng qua trăm tuổi, quá trăm tuổi chẳng mấy người.Tỳ-kheo nên biết, Như Lai ra đời rất là khó gặp, nghe Phápcũng khó, nhận thân tứ đại cũng lại khó được, các cănđầy đủ cũng khó được, được sanh trung tâm của nướccũng lại khó được, cùng thiện tri thức gặp gỡ cũng rấtkhó gặp; nghe pháp cũng khó; phân biệt nghĩa lý cũng lạikhó được; pháp hành thành tựu, việc này cũng khó.

NàyTỳ-kheo! Nếu được hầu hạ thiện tri thức sẽ có thểphân biệt các pháp, cũng sẽ giảng giải nghĩa này rộng rãicho người. Nếu nghe pháp rồi sẽ hay phân biệt; hay phân biệtpháp rồi thì có thể thuyết nghĩa; không có dục tưởng,sân giận, ngu si; đã lìa tam độc, liền thoát khỏi sanh, già,bệnh, chết. Nay Ta nói sơ nghĩa này.

Bấygiờ Tỳ-kheo kia nhận lời Phật dạy, liền từ chỗ ngồiđứng lên lễ chân Thế Tôn, rồi lui đi. Tỳ-kheo ấy ở chỗvắng vẻ, tư duy pháp mà do đó con nhà vọng tộc, cạo bỏrâu tóc, xuất gia học đạo, muốn tu Phạm hạnh vô thượng,sanh tử đã tận, Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong,lại không thọ thân nữa, như thực mà biết. Bấy giờ Tỳ-kheokia thành A-la-hán.

Bấygiờ Tỳ-kheo kia nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

9.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật tại thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-đà, cùngvới chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người.

Bấygiờ A-nan, Ða-kỳ-xà đến giờ đắp y, ôm bát vào thành khấtthực. Khi ấy, Ða-kỳ-xà trong một ngõ thấy một cô gái,hết sức đoan chánh, đặc biệt ở đời; thấy rồi lòngdạ rối bời, không như bình thường. Khi ấy Ða-kỳ-xà dùngkệ nói với A-nan:

Bịlửa dục thiêu đốt,
Tâmý rất hừng hừng,
Mongthuyết diệt nghĩa này,
Cóđược nhiều lợi ích.
A-nanlại dùng kệ đáp:
Biếtdục, pháp điên đảo,
Tâmý rất hừng hừng,
Nêntrừ niệm tưởng tượng,
Ýdục liền tự thôi.
Ða-kỳ-xàlại dùng kệ nói:
Tâmlà gốc của hình,
Mắtlà nguồn của hầu,
Nằmngủ thấy nâng đỡ,
Hìnhnhư cỏ rối úa.

Tôngiả A-nan tức thời tiến lên, lấy tay mặt xoa đầu Ða-kỳ-xànói kệ:

NiệmPhật không tham dục,
Ðộdục của Nan-đà,
Thấytrời, hiện địa ngục,
Ngừaý, lìa năm đường.

Ða-kỳ-xànghe Tôn giả A-nan nói xong, liền nói:

- Thôi,thôi, A-nan!

Haivị cùng khất thực xong, trở về chỗ Thế Tôn. Khi đó côgái từ xa thấy Ða-kỳ-xà liền cười. Ða-kỳ-xà thấy côgái cười, liền sanh ý nghĩ này: 'Nay cô thân hình do xươnglập với da bọc cũng như hình vẽ trong đó chứa đầy bấttịnh, dối gạt người đời, khiến phát loạn tưởng'.

Bấygiờ Tôn giả Ða-kỳ-xà quán cô gái ấy từ đầu đến chân.'Trong thân thể này có gì đáng tham, ba mươi sáu vật thảyđều bất tịnh. Nay các vật này từ đâu sanh?'.

Tôngiả Ða-kỳ-xà lại nghĩ: 'Nay ta quán thân hình cô ta chẳngbằng tự quán trong thân mình. Dục này từ đâu sanh? Từ đấtsanh chăng? Từ nước, lửa, gió sanh chăng? Nếu từ đất sanh,đất cứng cỏi không thể tan hoại; nếu từ nước sanh, nướchết sức mềm nhuyễn không thể gìn giữ; nếu từ lửa sanh,lửa không thể gìn giữ; nếu từ gió sanh, gió không hìnhtướng, không thể gìn giữ'. Tôn giả liền nghĩ: 'Dục nàychỉ từ tư tưởng sanh'.

Bấygiờ Ngài liền nói kệ:

Dục,ta biết gốc Ngươi,
Chỉdo tư tưởng sanh,
Takhông tư tưởng Ngươi,
ThìNgươi không có được.

Tôngiả Ða-kỳ-xà nói kệ này rồi càng suy nghĩ về tưởng bấttịnh. Ngay chỗ đó, tâm hữu lậu được giải thoát.

A-nanvà Ða-kỳ-xà ra khỏi thành La-duyệt, về chỗ Thế Tôn, cúilạy rồi ngồi một bên. Khi ấy Tôn giả Ða-kỳ-xà bạchThế Tôn:

- Naycon chóng được lợi lành, đã có điều giác.

ThếTôn bảo:

- NayThầy tự giác thế nào?

Ða-kỳ-xàbạch Phật:

- Sắckhông bền chắc cũng không kiên cố, chẳng thể thấy, huyễnngụy chẳng chân. Thọ không bền chắc cũng không kiên cố,cũng như bọt nước, huyễn ngụy chẳng chân. Tưởng khôngbền chắc cũng không kiên cố, huyễn ngụy, chẳng chân, cũngnhư sóng nắng. Hành cũng không chắc, không kiên cố, cũngnhư cây chuối không có thực. Thức không chắc cũng khôngkiên cố, huyễn ngụy chẳng chân.

Tôngiả lại bạch Phật:

- Ngũthạnh ấm này không chắc cũng không kiên cố, huyễn ngụychẳng chân:

Tôngiả Ða-kỳ-xà liền nói kệ:

Sắcgiống như đám bọt,
Thọnhư là bong bóng,
Tưởngtợ như sóng nắng,
Hànhnhư là cây chuối,
Thứclà pháp huyễn hóa.
BậcTối Thắng thường nói
Suynghĩ như thế rồi
Quánhết thảy các hành,
Tấtcả đều không tịch,
Khôngcó thật chân chính,
Ðềudo thân này sanh.
ÐấngThiện Thệ thường nói
Nênđoạn diệt ba pháp,
Thấysắc hằng bất tịnh,
Thânnày là như thế,
Huyễnngụy chẳng chân thật.
Chúngđều là pháp hại,
Ngũấm chẳng bền chắc.
Ðãhiểu chẳng chân thật
Naymau tiến bước lên.

Nhưthế, bạch Thế Tôn! Nay chỗ hiểu của con chính là vậy.

ThếTôn bảo:

- Lànhthay! Ða-kỳ-xà! Khéo hay quán sát gốc của năm thạnh ấmnày. Nay Thầy nên biết, phàm là người tu hành nên quán sátgốc của năm ấm này đều chẳng kiên cố. Vì sao như thế?Ngay lúc quán sát năm thạnh ấm này, Ta ở dưới cây Bồ-đềthành Vô thượng Chánh Ðẳng Giác, cũng như Thầy quán hômnay.

Lúcthuyết pháp này có năm mươi Tỳ-kheo, ngay chỗ ngồi đượclậu tận, ý giải.

Khiấy, tôn giả Ða-kỳ-xà nghe Phật dạy xong, hoan hỉ vâng làm.

*

10.Tôinghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Tăng-ca-ma, con của trưởng giả, đến chỗ Thế Tôn,cúi lạy và ngồi một bên, rồi bạch Phật rằng:

- Kínhmong Thế Tôn cho con nhập đạo.

Khiấy, con trưởng giả liền được nhập đạo ở chỗ vắngvẻ, khắc kỷ tu hành, thành tựu quả pháp mà do đó con nhàvọng tộc cạo bỏ râu tóc, xuất gia học đạo, sanh tử đãtận, Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không tái sanhnữa, như thật mà biết. Khi ấy Tăng-ca-ma liền thành A-la-hán.Ở chỗ nhàn vắng ngài liền sinh niệm này:

- NhưLai xuất hiện rất là khó gặp. Như Lai đúng thời mới hiện,cũng như hoa ưu-đàm-bát đúng thời mới hiện. Ðây cũng nhưthế, Như Lai xuất hiện ở đời đúng thời mới gặp, tấtcả hành diệt cũng lại khó gặp. Xuất yếu cũng khó, áitận, vô dục, Niết-bàn đây là yếu diệu.

Bấygiờ mẹ vợ Tăng-ca-ma nghe con rể làm đạo nhân, chẳng đắmmến dục nữa, bỏ lụy nhà, lại làm thương tổn con gáimình như bỏ đống nước bọt.

Ngườimẹ liền đến chỗ con gái, bảo cô rằng:

- Chồngcon thực đã hành đạo chăng?

Côgái đáp:

- Concũng không chịu cho hành đạo.

Bàmẹ bảo:

- Naycon nên trang điểm, mặc y phục đẹp, ôm con trai và gái theo,đến chỗ Tăng-ca-ma.

Bấygiờ hai mẹ con cùng đến chỗ Tăng-ca-ma. Tôn giả Tăng-ca-mađang ngồi kiết già dưới một gốc cây. Hai người đếntrước, đứng lặng thinh. Khi ấy, bà mẹ và cô gái đứngnhìn Tăng-ca-ma từ đầu đến chân, bà mẹ bảo Tăng-ca-marằng:

- Nayvì sao Ông không nói chuyện với con gái ta? Còn hai đứa connày là con của Ông. Nay Ông làm thật phi lý, không ai chịuđược. Nay sự suy nghĩ của Ông chẳng phải là hạnh con người.

Khiấy tôn giả Tăng-ca-ma liền nói kệ:

Ngoàiđây không có thiện,
Ngoàiđây không có diệu,
Ngoàiđây không có đúng,
Niệmlành không đâu hơn.

Khiấy mẹ vợ bảo Tăng-ca-ma:

- Naycon gái ta có tội gì? Có gì phi pháp? Cớ sao Ông bỏ nó, xuấtgia học đạo?

Tăng-ca-manói kệ:

Chỗdơ hành bất tịnh,
Sângiận, ưa vọng ngữ,
Tật-đố,tâm chẳng chánh,
Làđiều Như Lai nói.

Bàmẹ bảo Tăng-ca-ma:

- Khôngriêng con gái ta có việc này mà tất cả nữ nhân đều giốngvậy. Nhân dân trong thành Xá-vệ thấy con gái ta thảy đềubấn loạn, muốn giao thông với nó, như khát thèm uống nước,nhìn không chán, đều khởi đắm trước. Nay sao Ông lại bỏnó mà học đạo, tìm cách hủy báng? Ngày nay nếu Ông khôngdùng con gái ta, thì hai đứa con của Ông trả cho Ông tự liệu.

Tăng-ca-malại nói kệ:

Tacũng không con cái,
Ruộngvườn và tài sản,
Cũngkhông có nô tỳ,
Quyếnthuộc và tùy tùng.
Ðộchành không bạn lữ,
Vuiở chỗ vắng nhàn,
Thựchành pháp Sa-môn,
CầuChánh đạo của Phật.
Ngườicó trai, có gái,
Tậphạnh của người ngu,
Tacòn không thân ta,
Hálại có trai gái?

Khiđó, mẹ vợ và hai con nghe nói kệ này rồi, mỗi người tựnghĩ: 'Hôm nay, như ta quán sát ý này chắc chẳng trở vềnhà'.

Vàhọ lại quan sát Tôn giả từ đầu đến chân, thở dài rồiđến trước quỳ xuống nói:

- Nếuthân miệng ý có làm gì phi pháp, đều xin tha lỗi cho.

Rồinhiễu ba vòng lui về nhà.

Khiấy, Tôn giả A-nan đến giờ đắp y ôm bát vào thành Xá-vệkhất thực, từ xa thấy bà mẹ và cô gái, liền hỏi:

- Vừarồi có gặp Tăng-ca-ma chăng?

Bàmẹ bảo:

- Tuygặp cũng không gặp.

A-nanhỏi:

- Cónói chuyện không?

Bàmẹ đáp:

- Tuycó nói năng cũng chẳng vào lòng tôi.

Tôngiả A-nan liền nói kệ:

Muốnkhiến lửa sanh nước,
Lạikhiến nước sanh lửa,
Phápkhông, muốn cho có,
Khôngdục, muốn khiến dục.

Tôngiả A-nan khất thực xong, trở về rừng Kỳ-đà, vườn CấpCô Ðộc, đến chỗ Tăng-ca-ma ngồi một bên, bảo Tăng-ca-ma:

- Ðãbiết pháp như chân chưa?

Tăng-ca-mađáp:

- Tôiđã giác tri pháp như chân.

A-nanbảo:

- Thầygiác tri pháp như chân thế nào?

Tăng-ca-mađáp:

- Sắclà vô thường. Nghĩa của vô thường này tức là khổ. Khổtức là vô ngã; vô ngã tức là không. Thọ, tưởng, hành,thức thảy đều vô thường, nghĩa vô thường này tức làkhổ, khổ tức là vô ngã, vô ngã tức là không. Năm thạnhấm này là nghĩa vô thường. Nghĩa vô thường tức là khổ;tôi không, kia có; kia không, tôi có.

Khiấy Tăng-ca-ma liền nói kệ:

Khổkhổ lại sanh nhau,
Ðộkhổ cũng như thế,
Támđạo phẩm Hiền Thánh,
Chođến chỗ diệt tận,
Khôngtrở lại đời này
Lưuchuyển trong Trời, Người,
Nêndứt nguồn gốc khổ
Ngưnghẳn không di động,
Naytôi thấy vết không,
Nhưchỗ Phật đã nói,
Nayđắc A-la-hán,
Khôngcòn tái sanh nữa.

Khiấy Tôn giả A-nan khen rằng:

- Lànhthay! Khéo hay thấu rõ pháp như chân.

A-nannói kệ:

Khéogiữ dấu Phạm hạnh,
Cũnghay khéo tu đạo,
Ðoạntất cả kiết sử,
Làchân đệ tử Phật.

Tôngiả A-nan nói kệ xong liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đếnchỗ Thế Tôn cúi lạy rồi đứng một bên. Bấy giờ A-nanđem nhân duyên này bạch hết cho Thế Tôn. Khi ấy, Thế Tônbảo các Tỳ-kheo:

- A-la-hánluận dục bình đẳng nên nói chính là Tỳ-kheo Tăng-ca-ma.Hay hàng phục quyến thuộc ma cũng là Tỳ-kheo Tăng-ca-ma. Vìsao thế? Tỳ-kheo Tăng-ca-ma bảy phen đến hàng ma, nay mớithành đạo. Từ nay về sau, cho bảy phen hành đạo. Quá hạnnày là phi pháp.

ThếTôn bảo các Tỳ-kheo:

- Tronghàng Thanh văn của Ta, Tỳ-kheo hay hàng phục ma, nay mới thànhđạo, chính là Tỳ-kheo Tăng-ca-ma.

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567