Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

14. Phẩm Chúc Lụy

23/03/201107:55(Xem: 7842)
14. Phẩm Chúc Lụy

GIẢNG GIẢI KINH DUY MA CẬT
Tác giả Lê Sỹ Minh Tùng

Chương Thứ Mười Bốn
Phẩm CHÚC LỤY

(Entrustment)

Chúc là phó chúc, dặn dò một cách thân thiết vì tính cách quan trọng của bộ kinh. Lụy là gánh vác việc khó khăn, nặng nhọc. Do đó chúc lụy là dặn dò người sau tiếp tục gánh vác một việc làm khó khăn, nặng nhọc. Đây là kinh Bất khả tư nghì, là Pháp bảo giúp chúng sinh giải thoát giác ngộ trong một đời này nên Đức Phật mới dặn dò những đệ tử phải giử gìn kinh cẩn thận và đem ra truyền bá cho những đời sau vì tài bảo mất thì dễ kiếm lại nhưng Pháp bảo mất thì chúng sinh phải sống trong phiền não khổ đau biết đến bao giờ.

Đức Phật gọi Bồ-tát Di Lặc bảo:

- Này Di Lặc! Nay ta đem pháp Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mà ta từng tu tập chứa nhóm trải qua vô lượng A tăng kỳ kiếp phó chúc cho ông. Những kinh điển như thế, sau Phật diệt độ, ở hậu thế các ông hãy nổ lực truyền bá rộng rãi ở chốn nhơn gian đừng để cho giáo lý tối thượng thừa mai một. Vì sao? Bởi trong đời vị lai vẫn có kẻ thiện nam, người thiện nữ và thiên long, quỷ thần, Càn thát bà, La sát…có khả năng ham mộ pháp đại thừa phát tâm Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Giả sử mà họ không được nghe những kinh điển thượng thừa liễu nghĩa như thế thì thiệt thòi qua lớn lao. Ngược lại họ được nghe kinh liễu nghĩa thậm thâm này, phát khởi tín tâm sâu sắc lãnh thọ, hành trì, đối với chúng sinh hữu duyên có khả năng tiếp thụ quảng bá tuyên truyền làm cho nhiều người cùng được lợi ích.

Đức Phật Thích Ca thọ ký cho Bồ-tát Di Lặc một đời nữa sẽ thành Phật. Vậy một đời dài khoảng bao lâu?

Một đời nữa là ám chỉ tiểu kiếp thứ mười mà mỗi tiểu kiếp có 16 triệu năm. Hai mươi lần tiểu kiếp mới thành một trung kiếp tức là 320 triệu năm và sau cùng bốn lần trung kiếp mới thành một đại kiếp. Do đó một đại kiếp là một tỷ hai trăm tám chục triệu năm (1,280,000,000). Khoa học ngày chứng minh là con người xuất hiện trên trái đất khoảng bốn tỷ rưỡi năm tức gần bốn đại kiếp của nhà Phật và thế giới vũ trụ chỉ xuất hiện khoảng 13.7 tỷ năm mà thôi. (Dựa theo the Big Bang theory).

Dựa theo Kinh Phật Thuyết Di Lặc Đại Thành Phật và Kinh Di Lặc thượng sanh, vào lúc Đức Thích Ca sinh tiền thì con người sống thọ khoảng 100 tuổi. Một tiểu kiếp là một lần giảm và một lần tăng. Hiện tại chúng ta đang ở trong thời kỳ giảm. Cứ giảm hay tăng một tuổi thọ thì phải mất 100 năm. Do đó từ khi Đức Phật nhập diệt đến nay trên 25 thế kỷ thì tuổi thọ con người giảm xuống còn 75 tuổi. Nói một cách khác là 25 thế kỷ về trước con người trung bình sống tới 100 tuổi, nhưng ngày nay chỉ sống tới 75 tuổi mà thôi. Khi giảm tới 10 tuổi thì bắt đầu tăng nghĩa là cần tới 6500 nữa lúc ấy con người chỉ thọ khoảng 10 tuổi thì chu kỳ tăng bắt đầu. Chu kỳ tăng nầy tiếp tục cho đến khi tuổi thọ con người là tám vạn tư tức là con người sống hoài cho đến 84,000 tuổi mới chết thì chu kỳ bắt đầu giảm. Chu kỳ bắt đầu giảm dần cho đến khi con người chỉ còn sống đến 48,000 năm thì Bồ-tát Di Lặc mới giáng sinh mà thành đạo dưới gốc cây Long Hoa. Như thế thì cần đến trên tám triệu năm nữa mới có Phật Di Lặc ra đời.

Dựa theo văn minh khoa học của con người ngày nay thì phẩm chất cuộc sống của nhân loại càng ngày càng sút giảm. Thí dụ như ở Hoa Kỳ bốn mươi năm về trước dân số chỉ có khoảng hai trăm triệu mà năm 2008 đã vượt qua ba trăm triệu. Còn ở Việt Nam năm 1975 có khoảng ba, bốn chục triệu dân, năm 2008 đã tăng trưởng gần trăm triệu. Khắp nơi trên thế giới cũng như vậy, Trung Hoa có trên một tỷ ba trăm triệu dân. Đất đai của địa cầu không tăng, mà dân số cứ tăng vùn vụt thì làm sao nhân loại có đủ thức ăn, vật dụng, nhà cửa để cung ứng cho nhu cầu. Vì thế mà thực phẩm biến chế là cách thức thỏa mản nhu cầu trong tương lai. Nhưng con người càng tùy thuộc hóa chất thì sức khỏe sẽ bị giảm dần. Đến khi số người quá đông, tranh giành giết hại nhau để sống thì tai họa thật lớn sẽ xảy ra để quét sạch phần lớn con người trên mặt quả địa cầu này. Lúc đó tuổi thọ của con người là 10 tuổi. Những người có phước đức còn sống sót thì bắt đầu sống an bình trong thế giới mới với không khí, cảnh vật trong lành tinh khiết hơn. Nhờ đó mà tuổi thọ tăng dần cho đến khi họ sống tới 84,000 tuổi thì chu kỳ giảm bắt đầu. Chu kỳ giảm tiếp tục cho đến khi con người chỉ còn sống khoảng 48,000 năm thì Phật Di Lặc ra đời. Do đó một tiểu kiếp là tăng tám triệu năm rồi giảm tám triệu năm tổng cộng thành 16 triệu năm là vậy.

Di Lặc! Ông nên biết, Bồ-tát có hai dạng: Một, ham thích văn từ bóng bẩy, ngôn ngữ khách sáo chuốt trau. Hai, không khiếp sợ những kinh nghĩa sâu xa, đứng như thật tướng mà thể nhập. Hạng ham văn tự bóng bẩy, ngôn ngữ khách sáo…Phải biết! Đó là hạng tân học Bồ-tát. Hạng người ngôn từ khách sáo gác bỏ ngoài tai, văn tự chuốt trau, nghi lễ rườm rà khử bỏ. Đối với kinh điển đại thừa liễu nghĩa thậm thâm, không có lòng sợ sệt, có khả năng thể nhập như thuyết tu hành, thọ trì đọc tụng, nghe rồi tâm thanh tịnh an vui. Phải biết, đó là hạng người Bò-tát trau dồi đạo hạnh đã lâu đời rồi.

Di Lặc! này! Lại còn có hạng người cũng thuộc làng tân học: Một, từ trước, họ chưa được nghe kinh điển thậm thâm liễu nghĩa, nay nghe họ sanh tâm sợ sệt nghi ngờ, không tùy thuận nổi, lại còn hủy báng không tin, thốt lên những lời bảo thủ rằng: Hồi nào giờ tôi chưa từng nghe những giáo lý như thế. Sao nay lại nói như vậy, kinh đó từ đâu mà có, đó là thứ kinh gì? Hai, có hạng người vẫn thọ trì, giải quyết thâm nghĩa của kinh, nhưng không chịu thân cận cúng dường, cung kính tôn trọng. Có lúc lại còn phê phán chỉ trích ý kinh.

Hai hạng người như thế, phải biết! Đó là những hàng Bồ-tát tân học. Họ là những người tự hủy hoại phước đức trí tuệ của mình. Họ không thể hấp thụ được những kinh nghĩa thậm thâm để điều phục lấy tâm mình.

Bồ-tát có hai hạng:

1)Hạng thứ nhất là Bồ-tát ham thích văn từ bóng bẩy, ngôn ngữ khách sáo thì đây là những Bồ-tát tân học nên chưa thâm nhập Bồ-tát đạo vì thế mà trí tuệ căn lành chưa phát triển bao nhiêu.

2)Hạng thứ hai là Bồ-tát tu hành cao, căn cơ đã thuần thục nên không đắm nhiễm vào văn tự ngôn ngữ, không sợ sệt, không nghi ngờ cho dù đó là kinh điển thậm thâm vi diệu. Họ ham mộ, tư duy quán chiếu và phấn chí đúng như lời kinh mà tu hành thì đây là những Bồ-tát đã trồng sâu căn lành rất nhiều đời nhiều kiếp. Đó chính là thực hành đúng “Y nghĩa bất y ngữ” vậy. Thật vậy, không có văn từ, ngôn ngữ nào có thể chuyên chở hết tư tưởng của Chân lý vì thế mà khi con người cảm chứng được sự thanh tịnh giải thoát thì chỉ có riêng họ biết mà thôi mặc dù họ vẫn sống quây quần với nhân sinh xã hội. Họ nhận chứng sự an vui thanh tịnh tịch diệt Niết bàn trong khi chúng sinh vẫn còn điên đầu với phiền não khổ đau. Vì sự vi diệu này mà kinh nói là bất khả tư nghì là vậy.

Hiện nay trong Phật giáo có Nam Tông và Bắc Tông. Nam Tông tức Phật giáo Tiểu thừa hay Phật giáo nguyên thủy chỉ tin tưởng những kinh điển mà Phật nói ra trước thời Bát nhã. Đó là Trường A hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhứt A Hàm và kinh Pháp Cú…Còn Phật giáo Đại thừa thì tin tưởng vào kinh Bát Nhã, kinh Pháp Hoa, kinh Viên Giác, kinh Duy Ma Cật, kinh Đại Niết Bàn…Do đó hạng Bồ-tát thứ nhất là muốn ám chỉ cho Phật giáo Nam Tông và hạng Bồ-tát thứ hai là cho Phật giáo Đại thừa.

Lại nữa, Di Lặc! Còn có hai hạng Bồ-tát dù tin hiểu sâu đối với kinh pháp này, nhưng vẫn còn tự làm tổn thương phước đức trí tuệ, không chứng được vô sanh pháp nhẫn: Một, khinh thường các hàng Bồ-tát tân học không dạy dỗ cho họ tiến lên. Hai, dù tự mình hiểu sâu nghĩa thú của kinh, nhưng còn chấp mắc, phân biệt.

Mặc dù Phật giáo Nam Tông vẫn còn chấp trước, không công nhận những kinh điển Đại thừa, nhưng đừng nên khinh chê mà cần khuyến khích họ tiến lên tiếp thọ giáo lý Đại thừa để viên thành Phật đạo. Thêm nữa, cho dù có thâm hiểu kinh điển vi diệu thì cũng đừng có tâm phân biệt chấp có cao có thấp, “tán kỷ hủy tha” tức là trọng mình khinh người. Phật Pháp không có cao có thấp, Chân lý lúc nào cũng bình đẳng, Phật tánh thì ai ai cũng như nhau. Do đó nếu chúng sinh bỏ hết tâm phân biệt, chấp trước, không thấy có Tiểu thừa, Đại thừa, không còn phân biệt xuất gia, tại gia, không còn quan trọng tu chùa hay tu nhà, không còn thấy khác biệt khi còn tóc hay cạo đầu, áo thường hay áo thụng vì tất cả đều là con Phật, cùng có chung một tôn chỉ và mục đích là giải thoát giác ngộ thì đây chính là Nhất thừa Phật Đạo vậy.

Di Lặc Bồ-tát nghe nói thế liền bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Thật chưa từng có, theo lời Phật dạy, con sẽ tránh xa những điều khuyết điểm mà Thế Tôn đã chỉ vẽ ra. Con sẽ phụng trì pháp Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mà Như Lai đã thực hiện và tích lũy trong vô lượng A tăng kỳ kiếp. Đời vị lai, nếu có người thiện nam, thiện nữ cầu Đại thừa, con sẽ khiến cho trong tay họ cầm được những kinh điển liễu nghĩa thậm thâm như vậy và khiến cho họ thọ trì, đọc tụng truyền bá rộng cho nhiều người cùng nghe hiểu tu hành. Phải biết đó là thần lực của Di Lặc gia hộ kiến lập mà nên.

Phật khen:

- Lành thay! Di Lặc! Như ông đã phát nguyện, Như Lai rất vui lòng và sẽ hỗ trợ thiện ý của ông.

Bấy giờ tất cả chư Bồ-tát đều chấp tay bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ, chúng con cũng đem hết sức mình truyền bá sâu rộng trong các cõi nước mười phương pháp Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Như Lai đã dạy. Lại vận dụng mọi phương tiện và khả năng hỗ trợ cho những người thuyết pháp, truyền bá kinh này được thuận lợi thập phần viên mãn.

Bấy giờ Tứ Thiên Vương bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nơi nơi chốn chốn, thành ấp tụ lạc, núi rừng, đồng nội, chỗ nào có người thọ trì đọc tụng, biên chép giảng giải kinh này, con sẽ sai các quyến thuộc đến đó nghe pháp và đến để bảo hộ phạm vi một trăm do tuần, khiến cho các thứ thiên ma tà quái, cuồng tín, si mê đều không có cơ hội để khuấy phá người truyền bá giảng thuyết kinh này.

Bấy giờ Đức Phật bảo:

- A Nan! Ông hãy thọ trì kinh này và truyền bá sâu rộng ở đời sau.

Dạ! bạch Thế Tôn! Con xin vâng lời Phật. Con đã nắm vững những phần cốt lõi thâm sâu rồi.

Bạch Thế Tôn! Kinh này tên gọi là chi? Ông A Nan hỏi?

Phật bảo:

- Kinh này tên là Duy Ma Cật Sở Thuyết. Cũng gọi là kinh BẤT KHẢ TƯ NGHÌ GIẢI THOÁT PHÁP MÔN. Ông hãy NHƯ VẬY thọ trì.

Phật nói kinh này xong, Trưởng giả Duy Ma Cật, Đại trí Văn Thù Sư Lợi, Xá Lợi Phất và hàng chư Thiên, người, A tu la cùng tất cả đại chúng nghe rồi đều hoan hỉ tín thọ phụng hành.

LỜI KẾT

Đức Phật ngồi tham thiền nhập định dưới cội Bồ-đề suốt 49 ngày đêm và lời nói đầu tiên mà chính Ngài đã thốt ra sau khi chứng nghiệm chân lý là:”Cái mà chính ta đã khổ công tìm kiếm ròng rã suốt mười một năm chính là cái mà tất cả chúng sinh đã có sẳn trong họ. Đó chính là Chơn tâm, là Phật tánh sáng suốt vĩnh hằng, là tự tánh thanh tịnh bản nhiên mà đã bị cái vỏ cứng của vô minh che phủ nên chúng sinh không nhận biết mà mãi tiềm kiếm những ảo giác bên ngoài nên cuộc sống còn lặn hụp trong phiền não khổ đau”.

Do đó cho dù Đức Phật có thuyết bao trăm hội, có nói bao nhiêu bộ kinh thì nội dung vẫn không ngoài mục đích dẫn dắt chúng sinh tự mình ngộ nhập chân lý hay chứng nhập Phật Tri Kiến. Tất cả kinh điển, pháp môn tu tập trên thế gian này chỉ là phương tiện, là ngón tay, là chiếc thuyền để giúp mỗi chúng sinh tùy theo căn cơ, hoàn cảnh và trình độ mà tự mình chứng nghiệm chân lý. Con người lúc nào cũng chạy theo tham đắm vật dục, làm nô lệ cho tư kỷ cá nhân nên xa dần với Phật tánh thanh tịnh mà sống trong điên đảo khổ đau.

Giáo lý của Đức Phật là chiếc thuyền nan vững chắc giúp chúng sinh chống lại bao sóng gió chập chùng trên biển trầm luân và quay về với bến bờ thanh tịnh bình yên để có cuộc sống an vui tự tại. Có hồi đầu thị ngạn, có đến được bờ giải thoát giác ngộ thì mới thấy được ánh sáng thiêng liêng huyền diệu của chân lý mà sống với con người thật của chính chính mình mà nhà Phật gọi là bản lai diện mục, là chân nhân, là tự tánh thanh tịnh mà chúng ta đã bỏ quên nó đi.

Kinh Duy Ma Cật được xuất hiện vào thời Phật nói kinh Phương Đẳng cũng không ngoài mục đích dùng bao thí dụ, phương cách để giúp chúng sinh thấy được Chơn tâm, Phật tánh của chính mình. Kinh giới thiệu trưởng giả Duy Ma Cật là một thương gia, phú hộ, giàu sang phú quý, có địa vị trong xã hội như trăm ngàn chúng sinh khác trong thế giới nầy, nhưng cho dù sống trong nhung gấm lụa là, tiền rừng bạc biển, vợ con tôi tớ đầy nhà mà ông ta không hề bị những thứ nầy làm tâm ô nhiễm. Ông luôn nói chánh pháp, lấy chánh pháp làm phương châm cho hành động và sau cùng là sống đúng với chánh pháp mà không cần phải cạo đầu hay đắp y mà chỉ thể hiện qua hình tướng của một trưởng giả, một cư sĩ mà thôi.

Vì chủ yếu của kinh là giúp chúng sinh không còn quan trọng hình tướng bên ngoài mà phải quay về để thấy và sống với thật tướng tức là chơn tâm, là Phật tánh của chính mình nên ông Duy Ma Cật tuy bề ngoài là một người thường, nhưng bên trong ông có tâm hồn và đạo hạnh của một vị đại Bồ-tát. Triết lý Tây phương có câu rằng:”Chiếc áo không làm nên người tu sĩ” thì chân lý về thật tướng trong kinh Duy Ma Cật quả thật là siêu việt, tuyệt vời để giúp chúng sinh tránh xa những ảo tưởng và tùy thuộc vào những nhận xét sai lầm từ hình dáng bên ngoài. Toàn bộ của kinh là chuyển Tâm chớ không chuyển Cảnh bởi vì một khi tâm thay đổi thì cảnh sẽ chuyển theo. Một người có tâm thanh tịnh, không chạy theo tham đắm lợi danh thì dầu cho hoàn cảnh xã hội có thay đổi như thế nào thì tâm người đó cũng không bao giờ bị ô nhiễm. Ngược lại một người tâm bất tịnh thì chắc chắn sẽ thay tâm đổi tánh khi đối diện với lục dục thất tình.

Kinh mở đầu bằng cách giới thiệu một lối nhìn mới về Chơn tâm. Một khi chúng sinh biết quay về sống với trực tâm, thâm tâm và Bồ-đề tâm của chính mình thì sẽ có tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh có nghĩa là tâm bình đẳng giữa tất cả chúng sinh. Vì có sự bình đẳng nên không có sự phân biệt giữa ta và người vì người và ta vốn là một. Thật vậy, chúng ta đều là những giọt nước trong đại dương của sự sống, tuy là một thành phần nhỏ bé nhưng chúng ta vẫn có thể kinh nghiệm được toàn thể sự sống của đại dương.

Con người lúc nào cũng ảo tưởng những gì mình không thể nắm bắt được cho nên khi đối diện với thực tế thì đâm ra thất vọng. Đức Phật sống trong thế giới Ta bà mà chúng ta gọi là thế giới tội lỗi xấu xa bất toàn ô trược, nhưng dưới nhãn thức của Ngài thì thế giới này đâu có khác gì những cõi Tịnh độ của chư Phật trong mười phương không khác. Tại sao? Bởi vì thế gian đối với người còn vô minh phiền não thì bất tịnh tội lỗi xấu xa, còn kẻ được giải thoát, tâm hồn hoàn toàn thanh tịnh thì lúc nào cũng ung dung tự tại, thanh thoát an nhàn. Vì thế tôn chỉ của kinh là:” Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh” và “Dục tịnh Phật độ tiên tịnh kỳ tâm” nghĩa là nếu tâm mình thật thanh tịnh, không còn vô minh phiền não quấy phá thì thế giới này chính là cõi Phật thanh tịnh chớ không cần tìm cõi tịnh độ ở đâu xa.

Cõi Phật không ở trên cao cũng chẳng ở xa mà chính là ở ngay trong tâm của con người. Một khi chúng sinh đoạn hết vô mình phiền não để trở thành sáng suốt giác ngộ chân lý thì tâm đó chính là tâm Phật, thế giới này chính là cõi tịnh độ vậy. Do đó cốt tủy của kinh là khẳng định cho người Phật tử xuất gia hay tại gia là ở đâu tu cũng được vì tu là tu tâm chớ không tu cảnh cho nên ở nhà, ở chợ và ngay trong sở làm thì nơi nào cũng là đạo tràng thanh tịnh cả.

Kinh giới thiệu ba lần cảnh Tịnh độ để giúp chúng sinh thấu hiểu rằng hễ có tâm tịnh thì có cõi Phật tịnh.

Lần thứ nhất Đức Phật Thích Ca muốn khai thị cho tôn giả Xá Lợi Phất thấy rằng thế giới Ta bà này cũng chính là cõi Phật thanh tịnh như bao cõi Tịnh độ của mười phương chư Phật bằng cách lấy ngón chân nhấn xuống đất. Khi con người biết kiềm chế tham-sân-si mạn nghi tà kiến để có tâm thanh tịnh thì cho dù họ sống trong bất cứ xã hội nào thì thế giới đó chính là cõi Phật thanh tịnh. Cái thế giới Ta bà mà con người cho rằng có nhiều tội lỗi, xấu xa, đầy phiền não khổ đau, nhưng chính Đức Phật cũng sống ở đây mà tâm Ngài rất tự tại, rất thanh tịnh, không hề có phiền não khổ đau thì Tà bà chính là cõi Tịnh độ vậy.

Lần thứ hai trưởng giả Duy Ma Cật sử dụng khả năng bất khả tư nghì khiến ba mươi hai ngàn tòa sư tử to lớn lộng lẫy trang nghiêm của thế giới Tu Di Tưởng vào trong tịnh thất của ông. Tuy cảnh Tịnh độ xa xôi 42 ức hằng hà sa thế giới như thế mà có thể đem về trong khoảnh khắc là thâm ý của kinh muốn nhắn nhủ chúng sinh đừng mong cầu ở cõi Tịnh độ xa xôi vời vợi nào khác mà chỉ cần giữ tâm mình được thanh tịnh thì cảnh Tịnh độ xa xôi kia sẽ hiển hiện trong tâm thức của mình tức thì. Tuy trong vủ trụ bao la có rất nhiều cõi Phật thanh tịnh trang nghiêm khác, nhưng Nhất Chân Pháp Giới khẳng định rằng thế giới thanh tịnh này cũng chính là thế giới thanh tịnh kia, không sai không khác.

Lần thứ ba ông Duy Ma Cật vào chánh định, vận dụng thần thông lấy tay mặt cắt thế giới Diệu Hỉ đem sáp nhập vào cõi Ta bà mà không chật hẹp, không thêm không bớt. Tất cả vạn pháp trong “Nhất Chân Pháp Giới” thì lúc nào cũng tương ứng, tương túc, tương nhập, tương dung, lý vô ngại, sự vô ngại, lý sự vô ngại và sự sự vô ngại nên Bản Thể của các pháp dung thông vô ngại và vượt qua mọi hình tướng vật chất nên không có lớn nhỏ, rộng chật mà chỉ có Tâm Thể hòa hợp làm một. Một lần nữa, ông Duy Ma Cật muốn giới thiệu một cõi Tịnh độ ở ngoài thế giới Ta bà, nhưng muốn đạt đến cảnh giới thanh tịnh này thì chúng sinh phải giữ tâm mình cho được thanh tịnh bằng cách phá tan tâm phân biệt ích kỷ hẹp hòi chấp trước mà quay về sống với Tâm Vô Động. Đó chính là Chơn tâm, là Bản Thể, là cội nguồn phát sinh ra tất cả.

Kinh đã dùng ba phương tiện, ba hình ảnh khác nhau để chứng minh cho chúng sinh thấu hiểu một mục đích, một Chân lý tối thượng trên con đường Vô thượng Bồ-đề là :”Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh”.

Chủ yếu của kinh là đề cao tư tưởng Đại thừa bằng cách phục hưng tinh thần hoạt động của Phật giáo nguyên thủy. Kinh khuyến khích phong trào tu học Phật cho cả hai giới xuất gia và tại gia và mang lại một luồng sinh khí mới cho đạo Phật làm cho mọi người có cơ hội thực hành Bồ-tát đạo để tìm sự giải thoát giác ngộ ngay trong cuộc đời này. Đó chính là tự độ rồi độ tha và tự giác rồi giác tha. Chính tư tưởng tự giác rồi giác tha sẽ đem con người gần với nhau hơn vì một khi lòng từ bi phát triển trọn vẹn, con người sẽ không còn ao ước giải thoát cho riêng mình vì họ thấy mình và chúng sinh là một không hề khác nhau cho nên nếu chúng sinh còn vướng mắc trong vòng đau khổ thì làm sao họ có thể giải thoát cho riêng mình được.

Tôn chỉ của kinh là đề cao nguyên lý Bất Nhị hay vào Pháp Môn Không Hai để gạn lọc tất cả những sự phân biết đối đãi trong tâm thức mà chính là cội nguồn của phiền não khổ đau. Sống trong thế giới tương đối, con người nhìn đâu, thấy đâu cũng có Hai nghĩa là còn thấy có cao có thấp, có tốt có xấu, có thiện có ác, có giàu có nghèo, có mình có người, có xuất gia tại gia, có chùa lớn chùa nhỏ, có Phật đứng Phật ngồi, có da trắng da đen…Ngược lại nguyên lý Bất nhị cho rằng cái Hai ấy không phải là Hai vì chúng là song lập, cùng tồn tại bất khả phân ly. Chân lý ở đây không phải là không thấy có sự khác nhau về hình tướng của vạn pháp mà là không chấp về sự khác biệt về hình tướng đó.

Kinh muốn dẫn dắt chúng sinh đừng nhìn cuộc đời bằng hai mặt đối đãi vì đó chỉ là cái nhìn của nhục nhãn dựa theo hình tướng biến đổi sinh diệt bên ngoài nên dễ bị sai lầm. Muốn có cái nhìn hoàn hảo, chính xác thì con người phải dùng mắt trí tuệ để chiếu soi mà nhận biết rằng tuy chúng sinh, vạn vật, ngay cả vủ trụ có hình dáng khác nhau, tính nết khác nhau, nghiệp báo nặng nhẹ khác nhau, nhưng tất cả đều có chung một cái rất thiêng liêng, cao cả mà ngôn ngữ không thể nào diễn tả được nên chính Đức Phật tạm gọi nó là Chơn tâm trong kinh Lăng Nghiêm, là Tri Kiến Phật trong kinh Pháp Hoa, là Phật Tánh trong kinh Đại Niết Bàn, là Trí Huệ Phật trong kinh Viên Giác, là Như Lai Viên Giác Diệu Tâm trong kinh Viên Giác.

Đây chính là tự tánh thanh tịnh bản nhiên tức là bản lai diện mục có sẳn trong tất cả mọi chúng sinh. Nếu có thể nói được, diễn tả được thì Đức Phật chỉ gọi một tên là đủ chớ đâu cần phải gọi bằng nhiều cái tên như thế. Tuy được gọi bằng nhiều tên khác nhau mà không có cái tên nào là tên thật cả. Chỉ khi nào chúng sinh tự mình thể chứng được sự thanh tịnh, tịch diệt của tâm thức thì chính họ sẽ biết cái tên nào là tên thật.

Một điểm sáng chói của kinh là giúp chúng sinh phá cho được chấp ngã, chấp pháp để có tâm thanh tịnh. Tuy Niết Bàn, Bồ-đề là an vui tịch diệt, thanh tịnh giải thoát hoàn toàn, nhưng kinh khuyên chúng sinh không để tâm trụ chấp vào đó. Bởi vì một khi còn mong cầu cho dù đó là Niết Bàn thì đây cũng là ý niệm tham. Nói một cách khác Vô vi thanh tịnh là cứu cánh tột đỉnh của người còn đi trên con đường giải thoát giác ngộ, nhưng cho dù có đạt được mục đích này cũng đừng khởi tâm “chấp trụ” và khởi ý “đam mê”.

Bởi vì đam mê thì giải thoát trở thành ràng buộc và chấp trụ thì tâm không còn thanh tịnh mà biến thành “sợ mất”. Nhưng càng lo sợ thì mất mát sẽ đến nhanh hơn do đó cái lo bây giờ thành ra cái khổ cho nên Niết bàn Bồ-đề bổng nhiên biến mất và dĩ nhiên thanh tịnh biến thành phiền não khổ đau như lúc ban đầu. Vì thế khi đã thấu biết Bồ-đề, Niết bàn chính là tự tánh thanh tịnh của mình thì chúng sinh chỉ cần tự hóa giải tất cả phiền não vô minh thì tự mình có được Bồ-đề Niết Bàn chớ đừng mong cầu trông đợi nó ở bất cứ nơi nào hay do Phật hoặc Bồ-tát ban cho.

Sau cùng kinh Duy Ma Cật dẫn dắt chúng sinh có được sự giải thoát ngay trong đời này và ngay trong thế giới Ta bà này mà không cần trông chờ mong đợi đến kiếp sau hay ở bất cứ cõi Tịnh độ nào. Tuy bề ngoài họ vẫn sống, sinh hoạt bình thường như muôn ngàn chúng sinh khác, nhưng bên trong họ có một sự giải thoát kỳ lạ, an lành, thoải mái, thanh tịnh tự trong tâm hồn. Đây chính là sự giải thoát không thể nghĩ bàn vì chỉ có người đó tự mình thấu hiểu và tận hưởng sự thanh tịnh, tịch diệt của sự giải thoát Niết Bàn mà người kế bên không hề hay biết.

Có thể nói kinh Duy Ma Cật có tánh cách như là cuộc cách mạng của cư sĩ bởi vì từ xưa đến nay chỉ có những người xuất gia mới chứng đạt được Thánh quả, mà chưa ai nói đến người cư sĩ chẳng những chứng đắc Thánh quả mà còn siêu xuất hơn hơn cả người xuất gia nữa. Thật ra đây cũng là tinh thần bình đẳng của nhà Phật vì giải thoát giác ngộ không chỉ dành riêng ưu đãi cho thành phần xuất gia mà thôi. Khi chúng sinh không còn xét đoán việc đời qua hình tướng sinh diệt bên ngoài, mà quay về sống với thật tướng bất sinh bất diệt, với chơn tâm, với Phật tánh vĩnh hằng thường có trong ta thì hình tướng đầu tròn áo vuông hay xuất gia tại gia đâu có gì khác biệt. Vì thế kinh Duy Ma Cật đã khẳng định rằng:”Quả vô thượng Bồ-đề không phải là cái hứa hẹn để cho mọi người mỏi mòn mơ ước trông đợi. Mà trong tất cả chúng sinh ai ai cũng có khả năng đạt đến bằng nghị lực và trí tuệ của chính mình”.

Kinh Duy Ma Cật chưa phải là chân lý, nhưng kinh đưa chúng sinh đến để tự mình thể nghiệm chân lý. Vì đây là bất khả tư nghì kinh nên chúng sinh không cần luận bàn suông mà hãy tinh tấn tu học, thực hành những lời dạy trong kinh để vượt qua văn tự ngôn ngữ mà thâm nhập Bản Thể Chân Như ngỏ hầu thấy được thật tướng của vạn pháp mà có được tâm thanh tịnh để biến cuộc đời phiền não khổ đau thành cảnh giới an vui tự tại, thanh thoát an nhàn như cõi Tịnh độ của chư Phật trong mười phương thế giới vậy.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Lê Sỹ Minh Tùng

Hồi Hướng:

Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Pháp môn vô biên thệ nguyện học

Vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành.

Thâm ý của Lục Tổ Huệ Năng thì:

Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ không có nghĩa Phật hay Bồ-tát độ chúng sinh mà chính mình phải tự độ cho mình vì ai ai cũng có sẳn cái tự tánh thanh tịnh bản nhiên tức là Phật tánh trong ta do đó chúng sinh chỉ cần diệt hết vô minh phiền não để khôi phục cái Phật tánh này thì chính mình đã tự độ cho mình rồi.

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn nghĩa là trừ hư vọng từ tự tâm mình.
Pháp môn vô biên thệ nguyện học nghĩa là học Vô thượng Chánh Pháp.

Vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành là luôn luôn hành động khiêm tốn, cung kính đối với tất cả, xa lìa mê chấp, giác tri Bát nhã. Khi trừ hết mê vọng rồi, tức là tự ngộ thành Phật đạo và thực hành thệ nguyện lực.
Chương Thứ Sáu
Phẩm Bất Tư Nghì
(The Inconceivable Liberation)

Bất khả tư nghì có nghĩa là vượt ra ngoài những khái niệm suy tư phân biệt về sự hiểu biết thông thường của con người. Vì thế sự kiện bất khả tư nghì cũng được hiểu là những hiện tượng chưa từng có, chưa từng xảy ra mà nay có.

Dựa trên định nghĩa trên thì ông Duy Ma Cật là người bất tư nghì. Ông thuyết bất tư nghì pháp và trình diễn bất tư nghì cảnh cho bất tư nghì đại chúng để khởi động bất tư nghì tâm.

Ông Xá lợi Phất thấy trong tịnh thất không có giường cũng chẳng có chiếc ghế nào. Ông bèn khởi ý nghĩ: Tịnh thất trống trơn như thế nầy, chư Bồ-tát và Thanh Văn chúng tôi sẽ ngồi vào đâu?

Biết ý nghĩ của ông Xá Lợi Phất, trưởng giả Duy Ma Cật bèn hỏi:

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! ngài vì pháp đến đây hay vì chỗ ngồi mà đến?

- Tôi vì pháp mà đến chớ không phải vì chỗ ngồi. Ngài Xá Lợi Phất đáp.

Trưởng giả Duy Ma Cật là người giàu có, vợ con tôi tớ đầy nhà nhưng ông dùng thần thông làm cho bàn ghế biến mất chỉ còn căn tịnh thất trống không. Nhà trống không tiêu biểu cho tâm thanh tịnh và bàn ghế biến mất là ám chỉ cho vạn pháp giai không. Muốn thấy được Chân lý, chúng sinh bên trong phải phá cho được ngã chấp và bên ngoài đánh tan mọi pháp chấp thì tâm được như như bất động.

Người Phật tử thông thường thì đến chùa lạy Phật vì thấy chùa đẹp, Phật to. Đây chỉ là phương tiện để gieo duyên dành cho những người sơ cơ có cơ hội quy y trở về với đạo Phật và chưa thấu hiểu đạo lý huyền diệu của liễu nghĩa Đại thừa. Vì chùa to, Phật lớn chỉ là Phật Tướng sinh diệt mà Phật tâm tức là tự tánh thanh tịnh bản nhiên bất sinh bất diệt mới quan trọng. Phật tánh là Bản Thể chân không thì không hình tướng, màu sắc, kích thước, trọng lượng thì đã có sẳn trong tâm của tất cả mọi chúng sinh. Vì thế chỗ ngồi, nơi lạy Phật là sắc tướng sinh diệt thì quan tâm làm gì cho nên khi về chùa thì ngồi đâu cũng được thậm chí ngồi ngoài hiên mà tâm thanh tịnh thì vẫn thông đạt giáo pháp như thường. Cầu pháp là tu học để thấy được Phật tâm của mình mà có được giải thoát giác ngộ thì mới là cứu cánh. Do đó từ nay về chùa nghe Pháp mới là cứu cánh chớ đừng quan tâm đến cơm chay hay cảnh chùa to Phật lớn vì người Phật tử đến với Tam Bảo thì chùa to, chùa nhỏ có khác gì nhau. Tuy nhiên cổ nhân cũng có câu:”Chùa đất Phật vàng” nghĩa là tuy là chùa tranh vách lá nhưng lại có cao Tăng đắc đạo.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! người thực tâm cầu pháp, thân mạng còn không đáng tiếc hà huống phải quan tâm nghĩ đến chỗ ngồi. Cầu pháp phải quên đi cái thân ngũ uẩn. Cầu pháp phải đóng bít kín lục căn, cắt dứt lục trần và vô hiệu hóa tất cả lục thức.

Đi nghe pháp cốt là để học chánh pháp, hành chánh pháp và sống đúng theo chánh pháp vì thế người cầu pháp cho đến thân mạng của mình cũng không tham tiếc thì chỗ ngồi có xá gì. Do đó khi đã sống đúng với chánh pháp thì không còn gì để bám víu cả ngay cả chánh pháp cũng phải bỏ, quên đi thì tâm không còn dính mắc và sẽ được an vui tự tại. Lúc đó con người mới trở về được với Căn Bản Trí tức là Vô Phân Biệt Trí nghĩa là thấy tất cả mà như không thấy gì hết hay là như không thấy gì hết mà thật ra thấy tất cả. Biết tất cả mà như không biết gì hết hay là như không biết gì hết mà biết tất cả.

Cầu pháp không cầu những phiền trược tương quan trong cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc.

Tất cả những pháp như sắc, tài, danh, lợi…là những pháp ràng buộc con người vào trong các cõi Dục, cõi Sắc và cỏi Vô Sắc thì không nên cầu.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất!

Người cầu pháp không phải vì ham quả vị Phật.

Chúng sinh đến chùa nghe pháp với tâm cầu một ngày nào đó sẽ được thành Phật, nhưng đây chỉ là giáo lý phương tiện Tiểu thừa, là giáo lý bất liễu nghĩa. Còn kinh điển giáo lý liễu nghĩa tối thượng thừa thì cầu pháp là không cầu gì hết vì bất cứ cầu việc gì cho dù đó là cầu thành Phật thì cũng là tham. Dù là tham Bồ-đề, tham Niết bàn thì vẫn là tham, vẫn còn dính mắc thì tự tánh thanh tịnh không hiễn bày. Nếu vì tham mà cầu Bồ-đề, cầu Niết bàn, cầu thành Phật…thì đã quên đi Bồ-đề, Niết bàn đã có sẳn trong chúng sinh chớ còn ở đâu nữa mà cầu. Nói một cách khác nếu cầu như vậy là chúng sinh đã bỏ mất quả vị Phật của chính mình rồi. Một khi đã quên đi quả vị Phật của mình tức là quên đi Phật tánh, quên đi tự tánh thanh tịnh bản nhiên hay là Như Lai Viên Giác Diệu Tâm của chính mình thì tìm ở đâu cho có quả vị Phật. Vì thế chúng sinh đi trên con đường Bồ-tát thì làm bất cứ việc gì có lợi ích cho chúng sinh mà không cần phải cầu cho thành Phật. Khi đạt đến đỉnh cao tột cùng của trí tuệ Bát nhã Ba-la-mật thì chúng sinh nhận chân Chân lý tức là thành Phật. Cũng như trăm ngàn con sông, con suối mà nếu có được nước trong thì ánh trăng vẫn chiếu rọi được như thường. Và cho dù đồi cao núi thẳm mà không có mây đen che lấp thì bầu trời trong sáng như nhau. Nếu tâm hồn không còn phiền não vô minh thì tự tánh Niết bàn tịch diệt hiện ra mà không cần mong cầu trông đợi và khi Bồ-đề tự tánh đạt đến đỉnh cao giác ngộ thì chúng sinh là Phật chớ Phật ở đâu nửa mà cầu.

Tóm lại, dựa theo Lý Tánh tuyệt đối thì Phật Bảo cũng không cầu, Pháp Bảo cũng không đắc và Tăng Bảo cũng không trụ bởi vì trong thế giới Chân không thì Phật, Pháp, Tăng vốn là Một tức là Nhất Thể Tam Bảo thì đã có sẳn trong chúng ta. Vì thế nếu chúng sinh bỏ được tâm mong cầu, không còn ngã chấp, pháp chấp thì Chân lý sẽ hiện bày.

Cầu pháp không phải vì đam mê giáo pháp.

Giáo pháp của Như Lai chính là ba tạng kinh điển: Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng cũng chỉ là phương tiện, là ngón tay chớ không phải là cứu cánh giải thoát giác ngộ hay là ánh sáng huyền diệu của mặt trăng. Nếu chúng sinh cầu pháp, học kinh mà đam mê theo giáo pháp thì cũng như xuống bè rồi ham mê chiếc bè mà quên đi cứu cánh là đến bờ bên kia. Dầu giáo pháp có huyền diệu hay ho đến đâu cũng chỉ là phương tiện mà chúng sinh có thực hành mới được thực chứng tức là dùng bè để qua sông chớ không tham đắm say mê chiếc bè. Cũng như nương theo ngón tay để thấy ánh trăng chân lý và khi thấy được ánh sáng chân lý thì nên bỏ quên ngón tay cũng như bỏ quên chiếc bè mới có thể bước được lên bờ giác ngộ.

Cầu pháp không phải vì cảm tình với chúng Tăng.

Người Phật tử thường sống với cảm tình nên nghĩ rằng chỉ đi chùa của mình và chỉ ủng hộ chùa hay thầy của mình mà thôi. Nhưng thật ra cầu pháp là cốt để học chánh pháp, hành chánh pháp và sống theo chánh pháp cho nên bất cứ vị thầy nào nói đúng theo chánh pháp, đúng với chân lý và có thể đem lại sự lợi lạc cho việc tu học của mình thì chúng sinh thọ pháp. Cảm tình vì thương thầy, muốn bố thí cúng dường để được gọi là thí chủ hạng nhất mà không nghe được giáo pháp để tu tập hướng về giải thoát giác ngộ là mê muội, là thiếu sáng suốt, là lổ lã, là tự chuốc lấy khổ đau về sau.

Không vì thấy Khổ mà cầu pháp. Không vì đoạn Tập mà cầu pháp. Không vì chứng đắc Niết Bàn mà cầu pháp. Và cũng không vì nguyên nhân chứng đắc Niết Bàn mà cầu pháp.

Tại sao? Bởi vì pháp không phải hý luận.

Nếu nói rằng ta vì thấy Khổ, vì đoạn Tập, vì chứng Niết Bàn, vì tu Đạo mà cầu pháp thì pháp đó trở thành hý luận, không phải cầu pháp.

Đối với người tu tiểu thừa tức là giáo lý phương tiện thì họ thấy có mình tu tức là còn chấp ngã, thấy có pháp môn để tu, có chúng sinh để độ và còn Niết bàn để chứng đắc tức là còn chấp pháp nên họ còn lanh quanh lẩn quẩn trong thế giới của sắc tướng hữu vi nên không thể nào chứng nghiệm thế giới thanh tịnh vô vi được. Nói chứng đắc chứ thật ra không có chứng đắc gì cả. Tại sao? Cái mà chúng ta gọi là chứng đắc chính là “bổn tính cố hữu” hay “bản lai diện mục” tức là Phật Tánh vốn đã có sẳn trong tất cả mọi người. Chúng sinh không thấy biết nó là vì bị màng vô minh dày đặc che lấp. Nếu xóa tan được màng vô minh hắc ám nầy thì ánh sáng huyền diệu của chân lý sẽ hiễn hiện ra ngay. Nếu chúng sinh lìa xa tham đắm lợi danh thì tự tánh Niết bàn xuất hiện mà không cần phải cầu mong trông đợi gì hết. Đối với hàng tiểu thừa thì họ nhìn đời tức là thế giới hữu vi tục đế bằng nhục nhãn nên họ thấy sự sinh diệt vô thường của vạn pháp khiến tâm bất tịnh mà cố tu để cầu chứng Niết bàn ngỏ hầu tìm sự an vui tự tại. Trong khi đó giáo lý liễu nghĩa tối thượng đại thừa thì nhìn thế giới vũ trụ bằng trí tuệ Bát nhã ba-la-mật nên trong tướng Không chẳng có cái gì gọi là Khổ, chẳng có cái gì là nguyên nhân của sự khổ và dĩ nhiên tự tánh thanh tịnh bản nhiên luôn luôn có sẳn trong tất cả mọi chúng sinh thì Niết bàn còn dùng vào đâu được mà cầu với chứng.

Thưa ngài Xá Lợi Phất!

Pháp là tịch diệt. Nếu biểu hiện qua hành vi sanh diệt thì đó là cầu sanh diệt, chớ không phải là cầu pháp.

Pháp là vô nhiễm. Nếu nhiễm ở pháp cho đến nhiễm Niết Bàn thế là cầu nhiễm chớ không phải là cầu pháp.

Pháp không năng hành, sở hành. Nếu dụng ý hành ở nơi pháp, đó là cầu năng hành, sở hành chớ không phải cầu pháp.

Pháp không có thủ xả. Đối với pháp mà có ý thủ xả, đó là cầu thủ xả chớ không phải là cầu pháp.

Pháp không có xứ sở. Nếu chấp nê xứ sở, đó là cầu xứ sở chớ không phải cầu pháp.

Pháp là vô tướng. Nếu dựa trên tướng để nhận biết, đó là cầu tướng chớ không phải là cầu pháp.

Pháp không được trụ. Nếu trụ ở nơi pháp, đó là cầu trụ chớ không phải là cầu pháp.

Pháp không phải là thấy, nghe, hiểu biết. Nếu biểu hiện qua thấy, nghe, hiểu biết đó là cầu thấy, nghe, hiểu biết chớ không phải cầu pháp. Vì vậy cho nên:

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Nếu là người cầu pháp, đối với tất cả không nên khởi ý niệm Cấu.

Pháp là tịch diệt, không sanh diệt cho nên nếu để tâm thanh tịnh thì sẽ được an nhiên tự tại. Pháp là vô nhiễm cho nên nếu còn tham đắm ngay cả chứng đắc Niết bàn thì đó là ô nhiễm. Pháp không tạo tác cho nên bất cứ việc gì có lợi ích cho chúng sinh thì làm mà làm xong thì bỏ không nhớ đến. Pháp không có thủ xả và xứ sở bởi vì người biết nhập chủng Tánh đại thừa thì chỗ nào tu cũng được. Tu nhà cũng tốt, tu chợ cũng hay và tu chùa cũng tiện. Thật ra tu nhà hay tu chợ thì khó hơn tu chùa bởi vì ở nhà và ở chợ thì gặp nhiều cảnh trái ý nghịch lòng và tiếp xúc nhiều chúng sinh xấu ác nên có nhiều cơ duyên thực hành Bồ-tát đạo. Pháp là vô tướng vì nếu còn chấp có tướng giàu nghèo, cao thấp, đẹp xấu là tâm còn phân biệt, chấp trước, không bình đẳng. Pháp không được trụ ở bất cứ pháp môn nào mà phải tùy thuận theo chúng sinh mà hoan hỷ hướng dẫn họ tu hành. Căn cơ chúng sinh sai khác nên nếu ai thích niệm Phật thì cùng họ niệm Phật, ai muốn tham thiền thì cùng họ tham thiền nhập định, ai muốn trì chú thì cùng họ tu trì thần chú mật ngữ. Pháp môn nào cũng tốt cả như trăm sông cùng đổ về biển lớn là giải thoát giác ngộ.

Dựa theo giáo lý Tiểu thừa tức là pháp sắc tướng sinh diệt thì thấy cuộc đời khổ đau nên họ cầu vui, cầu hạnh phúc. Mà có cầu, có xin là tâm còn tham đắm. Nhưng dựa theo triết lý Đại thừa thì khi chúng sinh làm một việc thiện thì chính họ đã có sự lợi ích rồi. Bởi vì làm việc thiện thì tâm thức được tự tại, thân tâm được an vui và dĩ nhiên luật nhân duyên quả báo sẽ tự động đền bù cho họ những phước đức sau nầy cho dù họ có cầu hay không. Thêm nữa chúng sinh thường hồi hướng việc làm tốt của mình cho mọi loài chúng sinh để cùng sớm thành Phật đạo. Một lần nữa tư tưởng nầy chỉ áp dụng cho giáo lý tiểu thừa tức là giáo lý phương tiện vì chúng sinh còn cầu mong sớm được thành Phật. Giáo lý tiểu thừa thì nương vào năng cầu sở cầu, năng nguyện sở nguyện mà một khi còn năng nở thì con người vẫn còn vướng mắc vào vòng bất ý, bất toại nguyện. Ngược lại giáo lý liễu nghĩa đại thừa thì không cần phải hồi hướng, không mong cầu bất cứ việc gì ngay cả quả vị Phật vì bản nguyên chúng sinh đã là Phật rồi.

Nói tóm lại, cầu pháp theo tinh thần Đại thừa là không cầu một cái gì hết vì nếu chúng sinh biết học chánh pháp, biết hành chánh pháp và biết sống theo chánh pháp thì trong ta đã có đầy đủ những đức tính Thường, Lạc, Ngã, Tịnh rồi. Bởi vì các pháp không sanh không diệt nên nói là Thường, lúc nào cũng an nhiên tự tại nên gọi là Lạc, là chủ sinh là muôn pháp nên gọi là Ngã và không bị cấu nhiễm nên gọi là Tịnh. Thêm nữa, Bồ-đề và Niết bàn là vô tại vô bất tại tức là nó không có ở đâu hết mà không ở đâu chẳng có Bồ-đề, Niết bàn. Nó không có trong con người nào hết nhưng không có con người nào là không có Bồ-đề, Niết bàn. Do đó kinh nói :”Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh” nghĩa là một khi tâm mình đã tịnh thì thế giới chung quanh mình sẽ là cõi Tịnh độ. Vì thế nếu tâm đã thanh tịnh thì có Bồ-đề, Niết bàn mà khỏi phải cầu cái gì hết. Còn tâm không thanh tịnh thì có cầu cũng không bao giờ có. Cũng như khi đào ao thì khỏi phải trông chờ trăng sao gì hết, miễn là cái ao làm xong có nước trong đứng lặng thì trăng sao sẽ rọi vào mà thôi.

Ông Duy Ma Cật nói xong những điều trên, bấy giờ có năm trăm thiên tử đối với các pháp có được cái nhận thức thanh tịnh (đắc pháp nhãn tịnh).

Các vị trời nhờ tu mười điều thiện mà có phước báo lành. Nay nhờ nghe được những lời mầu nhiệm của ông Duy Ma Cật mà thấy được thế giới của Bản Thể Chân Như thì tâm không còn mong cầu tham đắm mà chỉ thực hành Bồ-tát đạo cho được viên mãn. Họ như người mù được sáng, người mê được tỉnh và thấy được chân lý.

Bấy giờ ông Duy Ma Cật hỏi Bồ-tát Văn Thù rằng:

- Nhân giả từng vân du vô lượng vô số cõi nước. Ngài biết cõi Phật nào có tòa sư tử đẹp nhất do công đức trang nghiêm thành tựu?

- Có. Thưa cư sĩ. Bồ-tát Văn Thù đáp.

Ở về phương Đông, từ đây phải trải qua ba mươi sáu hằng hà sa nước, có thế giới tên Tu Di Tưởng, đức Phật ở cõi nước đó hiệu Tu Di Đăng Vương đang trụ thế. Thân Phật lớn hơn tám muôn bốn ngàn do tuần. Tòa sư tử của Phật cũng cao tám muôn bốn ngàn do tuần, lộng lẫy trang nghiêm bậc nhất.

Ông Duy Ma Cật vận dụng hiện sức thần thông khiến ba muôn hai ngàn tòa sư tử lộng lẫy trang nghiêm cao rộng tự chuyển vào trong tịnh thất của ông trong khoảnh khắc.

Chư Bồ-tát, các đệ tử, Đế Thích, Phạm Thiên nghĩ rằng việc nầy từ trước đến nay chưa từng thấy. Chu vi ngôi tịnh thất hữu hạn chừng ấy, lại bao dung cả ba muôn hai ngàn tòa sư tử đồ sộ thế kia mà không chướng ngại gì nhau. Thành Tỳ Xá Ly cũng có chừng mực phạm vi của nó thế mà mọi hiện trạng đều y nguyên như cũ, không chật chội hơn chút nào!

Cư sĩ Duy Ma Cật bây giờ mới bắt đầu biểu diễn chân lý Bất khả tư nghì giải thoát. Giải thoát Bất tư nghì là sự giải thoát mà chỉ có một mình mình biết và một mình mình hay mà thôi. Người kế bên cũng không hề cảm biết ngoại trừ những bậc có trí huệ tức là trình độ nhận thức chân lý và trình độ trí tuệ tu tập ngang nhau thì mới biết được. Nhưng người học Phật nếu muốn thể nhập sâu sắc chân lý huyền diệu nầy mà không bị rơi vào mê tín dị đoan và có thể cắt nghĩa được những Bất Tư Nghì Sự của Bồ-tát thi thố để hiểu đúng những Bất Tư Nghì Pháp của Bồ-tát nói và có thể thật thấy mà không phải thấy thật những Bất Tư Nghì Cảnh Giới mà Bồ-tát trình diễn thì tuyệt đối không được khởi niệm tin rằng ông Duy Ma Cật có tài phép biến hóa như một nhà ảo thuật hay một vị thôi miên, phù thủy.

Bồ-tát trụ trong Pháp Môn Bất Tư Nghì nên có thể làm tất cả việc Bất Tư Nghì bởi vì Bồ-tát biết sử dụng Quán Trí Bất Tư Nghì để thấy và biết rõ tánh duyên khởi huyền diệu của vạn pháp. Vì thế khi nói đến Bất khả tư nghì mà chúng sinh không vận dụng công phu trong việc “Tư Duy” “Quán Chiếu” để thể nhập Thập Huyền Duyên Khởi thì không thể nào hiểu đúng được tông chỉ mục đích của kinh.

Thập Huyền Duyên Khởi là mười sự duyên khởi huyền diệu của tất cả vạn pháp trong thế giới nhân sinh vũ trụ nầy mà được giải thích trong bộ Kinh Hoa Nghiêm Sớ Sao và bộ Tham Huyền Ký của ngài Hiền Thủ. Đó là:

1)Đồng Thời Cụ Túc Tương Ưng: Trong mỗi một pháp nào đồng thời cũng có đủ, hàm chứa tất cả các pháp khác trong vũ trụ. Thí dụ một giọt nước có đủ của muôn ngàn sông biển.

2)Nhất Đa Tương Dung Bất Đồng: Nghĩa là về số lượng, một và nhiều vật có thể dung nạp lẫn nhau mà không phá hoại cái tướng riêng biệt của mỗi vật. Thí dụ như có ngàn cây nến đang cháy trong một gian phòng, nhưng ngọn đèn này lẫn hiệp với ngọn đèn kia mà ngọn đèn nào cũng có ánh sánh riêng của nó.

3)Chư Pháp Tương Tức Tự Tại: Pháp nầy dung thông pháp kia và pháp kia dung thông pháp nầy tức là trong pháp nầy hàm chứa chủng tử của tất cả pháp kia và trong pháp kia có chứa chất liệu chủng tử của chất nầy. Vì thế chủng tử của vạn pháp trùng trùng duyên khởi cho nhau, tương tức tương nhập một cách tự tại. Thí dụ như chất vàng với sắc vàng, hai pháp ấy không rời nhau.

4)Quảng hiệp tự tại vô ngại: Nghĩa là một vật gọi là lớn, chưa hẳn là lớn. Một vật gọi là nhỏ, chưa hẳn là nhỏ. Nhờ cái Lý dung thông, một vật nhỏ như đầu mảy lông có thể chứa cả càn khôn vũ trụ mà không chật. Nói một cách khác, trong pháp giới, sự sự đã vô ngã, dung thông thì quan niệm về sự rộng hẹp, lớn nhỏ đều là những danh từ suông.

5)Nhân Đà La Võng Cảnh Giới: Nhơn-đà-la tức là phiên âm chữ Indra là cõi trời Đế Thích. Theo Bà-la-môn giáo thì trên cõi trời Nhơn-đà-la có các màn lưới bằng bửu châu; mỗi hạt bữu châu chói hiện đến muôn trượng, hạt này, hạt khác chói sáng lẫn nhau lớp lớp không cùng tận. Pháp môn nầy thì cũng thế. Trong mỗi pháp có nhiều pháp khác và trong nhiều pháp khác lại có nhiều pháp khác nữa. Cứ thế nhân mãi lên cho đến vô cùng vô tận. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng:”Tất cả thế giới đều như thế giới màn lưới Nhơn-đà-la.

6)Vi Tế Tương Dung An Lập: nghĩa là rộng hẹp tự tại vô ngại. Dù vật nhỏ cách mấy như một mảy may hay ở một điểm vi tế nào cũng hàm dung chất liệu của tất cả hiện tượng vạn pháp. Thí dụ như một giọt nước thì bao gồm bởi nhiều hạt nước, mà mỗi hạt nước gồm nhiều hóa chất. Mỗi hóa chất gồm biết bao nguyên tử và mỗi nguyên tử thì gồm nhiều điện tử và cái nhân. Mỗi thứ đều dung nhau và an lập trong nhau.

7)Bí Mật Ẩn Hiện Câu Thành: Nghĩa là một pháp có nhiều phương diện, khi phương diện này hiện thì phương diện kia ẩn và khi phương diện kia ẩn thì phương diện nầy hiện. Trong ẩn có hiện, trong hiện có ẩn, ẩn hiện đắp đổi nhau mà thanh tựu. Sự ẩn hiện cũng không nhất định cái nào sau cái nào trước, cũng không ngăn ngại chống đối nhau. Thí dụ có một pho tượng bằng vàng. Nếu chúng ta chú ý đến vàng thì không chú ý đến cái đẹp của pho tượng. Ngược lại khi chú ý đến cái đẹp của pho tượng thì không chú ý đến chất vàng. Nói tóm lại, khi cái đẹp hiện thì vàng ẩn và khi vàng hiện thì cái đẹp ẩn.

8)Mười Đời Cách Pháp Dị Thành: Đây muốn nói thời gian mặc dù cách biệt nhau từ quá khứ đến hiện tại qua tương lai, nhưng chính nhờ thế mà các pháp được thành tựu một cách dễ dàng. Đáng lẽ ra chỉ nói quá khứ, hiện tại và tương lai là đủ, nhưng muốn chia một cách rốt ráo, tinh vi thì Kinh chia làm mười đời. Đó là trong quá khứ cũng gồm có quá khứ, hiện tại, vị lai, trong hiện tại và tương lai cũng thế. Như vậy có tất cả chín đời, nhưng nếu chia nhỏ như thế mà không có ý niệm tổng quát so sánh liên hệ với nhau thì cũng không có ý niệm với thời gian. Vì thế cho nên ngoài chín niệm riêng biệt cộng thêm một niệm tổng quát thành ra mười.

9)Chủ, bạn,viên minh công đức: Nếu ta lấy một pháp làm chủ thì các pháp khác là bạn. Chủ và bạn nương nhau làm đầy công đức, lớp lớp không cùng tận. Thí dụ như mặt trăng sáng trên không trung chiếu rọi khắp sông ngòi, đồi núi, ao hồ làm cho cảnh vật khắp nơi càng thêm rạng rỡ.

10)Thác Sự Hiểu Pháp Sanh Giải: Nghĩa là nhờ Sự mà hiểu được Lý, nhưng khi Lý đã rõ thì Lý lại lan rộng làm cho chúng ta hiểu rộng sâu xa qua nhiều sự khác. Thí dụ như vết dầu lan ra trên mặt nước, chỉ một tia lửa có thể bừng cháy rất xa.

Thập Huyền Duyên Khởi giúp chúng sinh có được một cái nhìn sâu xa về sự duyên khởi của tất cả vạn pháp trong thế gian vũ trụ nầy. Theo tinh thần của Hoa Nghiêm thì giải thoát mà vẫn không phá hoại thế gian tướng nghĩa là không phải phủ nhận thế gian tướng mà có thể tìm thấy giải thoát ở một nơi nào khác. Nói một cách khác nếu chúng sinh phân biệt được chân, vọng để khử trừ điên đảo khiến cho tâm được thanh tịnh thì có giải thoát. Có thấu hiểu Thập Huyền Duyên Khởi thì khi đọc đến phẩm Bất Tư Nghì mới không còn nghĩ rằng Bồ-tát làm những chuyện phi lý, ảo tưởng, hoang đường.

Trong Phật giáo thì sự phát triển trí tuệ tùy theo khả năng nhận biết chân tướng của nhân sinh vũ trụ.

1)Đối với phàm nhân thì họ nhìn cuộc đời, thế gian vũ trụ bằng nhục nhãn tức là bằng đôi mắt thịt nghĩa là cái gì có hình sắc, kích thước, âm thanh, mùi vị…thì họ cho là thật. Họ tin thân mình là thật nên còn chấp ngã, tin thế gian vũ trụ là thật nên còn chấp pháp. Vì còn chấp ngã, chấp pháp nên tham-sân-si, mạn nghi, tà kiến phát tác mà tạo ra nghiệp để phải chịu quả khổ đời đời.

2)Nhất Thiết Trí: Các vị Thanh văn không nhìn đời bằng nhục nhãn như phàm nhân mà họ nhìn thế gian bằng Pháp nhãn. Họ thấy thân mình là không thật, là tạm bợ, là dơ dáy, là cội nguồn của những nổi khổ nên họ cố tu để chứng đắc sự an lạc của Niết bàn và tìm sự giải thoát quả vị Bồ-đề. Chẳng những nhìn thân mình không thật mà họ còn nhìn cả thế gian vũ trụ cũng không thật nên chán ngán cuộc đời và tránh xa bụi trần ô nhiễm. Vì thế hàng Thanh văn thì chấp ngã không còn tức là Ngã Không, nhưng vì còn thấy có pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng, có đạo quả Bồ-đề để đắc nên họ vẫn còn chấp Pháp tức là Pháp có. Cho nên cái trí tuệ của họ không phải là trí tuệ giải thoát tự tại mà vẫn còn dính mắc của Pháp nên trí tuệ nầy là Nhất Thiết Trí.

3)Đạo Chủng Trí: Đối với các vị Bồ-tát thì họ nhìn thế gian vũ trụ bằng Tuệ nhãn tức là họ hành thâm bát nhã ba-la-mật để thấy rằng ngũ uẩn giai không. Dưới mắt của họ thì thế gian vũ trụ là do duyên khởi tạo thành nên tất cả đều là giả huyễn, là không thật, là Không. Vì ta là giả, là không thật nên họ có ngã không. Ta không thật thì người và thế gian vạn vật cũng không thật nên họ có pháp không. Nói một cách tổng quát dưới mắt của Bồ-tát thì thế gian vũ trụ là Không. Mặc dù biết thế gian là Không, nhưng Bồ-tát vẫn còn chấp cái Không nên tâm không được hoàn toàn tự tại và trí tuệ chưa hoàn toàn sáng suốt triệt để nên cái trí tuệ nầy gọi là Đạo Chủng Trí.

4)Nhất Thiết Chủng Trí: Hàng Thanh văn thì chấp Pháp có và các vị Bồ-tát thì vẫn còn chấp Không. Nếu bây giờ bỏ được chấp Pháp có và chấp Không tức là không còn chấp có pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng, có quả vị Bồ-đề để thành và không còn chấp thế gian vũ trụ là Không thì có được trí tuệ viên mãn, dung thông tự tại mà nhà Phật gọi là Nhất Thiết Chủng Trí. Nhất Thiết Chủng Trí thì thấy vạn pháp là Có nhưng không phải là Có thật, còn Không nhưng không phải là không của cái trống không. Vì vạn pháp do nhân duyên hòa hợp nên vạn pháp sanh và khi nhân duyên tan rã chia ly thì vạn pháp diệt. Thế thì vạn pháp do nhân duyên hòa hợp nên sanh sanh diệt diệt, diệt diệt sanh sanh mà người được Nhất Thiết Chủng Trí thì luôn luôn tự tại trước sự sanh diệt, diệt sanh của hiện tượng vạn pháp nên không cần phải tiêu cực như hàng Thanh văn và cũng không cần phủ nhận tất cả như các vị Bồ-tát mà phải thấy vạn pháp nầy có mà không phải có thật. Mặc dầu không phải có thật mà hiện giờ nó vẫn có vì thế nên người có Nhất Thiết Chủng Trí làm bất cứ cái gì cần làm để giúp đở cho tất cả chúng sinh mặc dù chúng sinh là không có thật. Đây chính con đường trung đạo dung thông giữa cái Có và cái Không và chỉ có Phật mới đạt được cái trí tuệ nầy.

Khi Bồ-tát trụ Bất Tư Nghì Giải Thoát để làm những việc Bất Tư Nghì là cách vận dụng ngôn ngữ để chuyên chở trí tuệ Bất Tư Nghì của con người đã thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí tức là trí huệ của một vị Phật, của một bậc Chánh đẳng Chánh giác.

Cách nay trên mấy ngàn năm khi khoa học chưa phát triển như ngày nay mà Đức Phật Thích Ca đã cho chúng sinh một khái niệm về thế giới vũ trụ bao la vô cùng vô tận. Ngài thường ví mỗi thế giới như một hạt cát của sông Hằng. Trong kinh nầy Bồ-tát Văn Thù đại diện Phật mà nói rằng ở về phía hướng Đông cách trái đất của chúng ta ba mươi sáu lần cát của sông Hằng thì có một quốc độ là Tu Di Tưởng và Đức Phật hiệu là Tu Di Đăng Vương Như Lai.

Kinh điển Phật giáo Đại thừa, mỗi khi giới thiệu một vị Phật hay một vị Bồ-tát thì kinh thường ám chỉ một đức tính cao quý, một ý nghĩa thiêng liêng huyền diệu như trong phẩm Bồ-tát có nói đến Đức Nan Thắng Như Lai. Trong phẩm nầy, kinh lại giới thiệu Đức Tu Di Đăng Vương Như Lai nghĩa là ngọn đèn vua tức là ngọn đèn sáng nhất, chiếu soi xa nhất và cao nhất trên núi Tu Di. Nhưng thật ra tất cả những đức tính trên là muốn ám chỉ cho Chân tâm, Phật tánh bất sanh bất diệt sáng soi vô cùng vô tận có sẳn trong tất cả mọi chúng sinh.

Mỗi tòa sư tử cao rộng 84,000 do tuần mà một do tuần dài 30 km. Cho nên tòa sư tử cao rộng 2,520,000 cây số vuông. Vậy mà ông Duy Ma Cật dùng sức thần thông đem về 32,000 tòa sư tử cao rộng như thế và đặt hết vào trong cái tịnh thất của ông, ngay cả thành Tỳ Xá Ly và xóm làng cũng không chật chội hơn chút nào.

Dựa trên sự kiện này, kinh Duy Ma Cật muốn nói gì đây? Và chúng ta là người Phật tử phải tin hiểu cách nào?

Tại sao đem 32,000 tòa sư tử to lớn như thế mà đặt vào tịnh thất cho được? Phải chăng đây là chuyện ảo tưởng, hoang đường?

Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát tức là Bồ-tát đã thành tựu Bát nhã ba-la-mật. Tất cả những vật chất trong thế gian nầy mà kinh Lăng Nghiêm gọi là Sắc thì gọi là địa đại. Khi Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát cũng giống như Quán Tự Tại Bồ-tát trong Tâm Kinh đã xác định rằng:” Quán tự tại Bồ-tát hành thâm bát nhã ba-la-mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Vì thế ông Duy Ma Cật cũng hành thâm bát nhã ba-la-mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không để thấy sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc và sắc tức là không và không tức là sắc, thọ tưởng hành thức cũng như vậy. Trong khi đó kinh Lăng Nghiêm cũng nói thêm rằng:”Tánh sắc chơn không, tánh không chơn sắc, thanh tịnh bản nhiên trang biến pháp giới tùy chúng sinh tâm ứng sở ứng tri lượng tuần nghiệp phát hiện”. Khi Bồ-tát đã có trí tuệ sáng suốt triệt để thì họ nhìn sắc tức là không. Không ở đây chính là đương thể bất không tức là không chẳng khác sắc. Vì Thể Tánh của Sắc có tính thanh tịnh bản nhiên nhưng sở dĩ nó có là tùy theo tâm lượng hay theo sự yêu cầu của chúng sinh mà ứng hiện. Cho nên nếu Bồ-tát có tâm cầu cở nào thì nó phát hiện cở ấy còn không cầu thì nó không có. Nói một cách khác là Bản Thể của vật chất là Không nghĩa là Sắc tức là Không.

Nếu đứng về phương diện sắc Tướng thì mới có sự phân biệt cao thấp, to lớn, rộng hẹp. Nhưng ở đây kinh muốn nói đến Thể Tánh tức là tánh Không của Bát nhã thì làm gì có lớn nhỏ, cao thấp. Tánh Không thì không có hình tướng, kích thước nên tất cả vạn pháp dung thông rất tự tại. Thể Tánh, Chân Không tức là Phật Tánh, Chơn Tâm là tâm thanh tịnh bản nhiên của tất cả chúng sinh. Chính cái Chơn Tâm có khả năng chuyển biến xoay vần, duyên khởi tác dụng vạn pháp vào nhau hình thành một cách mầu nhiệm mà chúng ta gọi là thần thông biến hóa. Ngày xưa các vị đại đệ tử của Phật như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên... sau khi đã được tâm thanh tịnh thì tự nhiên họ cũng phát hiện những thần thông tự tại. Còn ở đây ông Duy Ma Cật đã thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí tức là trí tuệ của một vị Phật thì khả năng thần thông biến hóa còn xa biết bao, không thể nghĩ bàn.

Thêm nữa, muốn đừng hiểu đây là chuyện phi lý, hoang đường, thần thoại thì chúng sinh phải biết Quảng Hiếp Tự Tại Vô Ngại tức là rộng hẹp tự tại vô ngại mà tư duy quán chiếu về Thập Huyền Duyên Khởi để hiểu hiện tượng nầy bằng trí, thấy bằng trí cho nên thấy thật chân lý mà không phải thật thấy. Không thật thấy vì không thể nào đặt 32 ngàn tòa sư tử vào trong cái tịnh thất được, nhưng chúng có thể thấy thật là vì chúng ta thấy hiện tượng nầy bằng trí vì Nhất Đa Tương Dung tức là một và nhiều tương dung nhau, Chư Pháp Tương Túc Tự Tại nghĩa là cái nầy là cái kia và cái kia có cái nầy, Đồng Thời Cụ Túc Tương Ứng tức là một pháp có đủ, chất liệu của vạn pháp.

Vi Tế Tương Dung An Lập là bất cứ vật chất nào trong thế giới vũ trụ nầy thì cái nhỏ (vi tế) vẫn tương dung trong cái lớn và ngược lại tức là nếu chúng ta lấy một mẫu cực nhỏ của vật chất thì nó cũng bao hàm tất cả những đặc tính của vật chất ấy cho dù vật chất nầy to lớn như hành tinh vũ trụ. Thí dụ như khoa học ngày nay, chúng ta chỉ cần lấy một mẫu DNA của bất cứ con người, súc vật hay vật chất nào thì mẫu DNA nầy là bao gồm tất cả những tính đặc thù của vật chất đó. Bây giờ hãy quan sát pháp Đồng Thời Cụ Túc Tương Ứng môn. Đó là bất cứ một vật gì trong thế gian vũ trụ nầy cũng bao hàm đầy đủ tất cả những chất liệu của vạn pháp và tự nó ứng hợp, duyên khởi mà hình thành. Nói một cách khác bất cứ vật chất gì cũng từ lục đại duyên khởi mà ra. Đó là chúng phải có đầy đủ đất, nước, gió, lửa, không gian và thức mà duyên sanh và khởi sanh để tạo thành con người, cây cỏ, nhà cửa, áo quần, xe cộ, ly chén, bát đỉa, thức ăn thức uống và hành tinh vũ trụ. Khi nói là vật và tâm nhưng Bản Thể của chúng vẫn là một. Vật là hình tướng và tâm là năng lực để hình tướng có thể hoạt động. Thí dụ như khi cầm cái ly thì cái ly nầy đã có đủ đất, nước, gió, lửa, không khí và thức (năng lực) để duyên khởi mà kết thành cái ly. Còn nếu đem cái ly ra phân tích dựa theo khoa học thì nó có biết bao hóa chất như khoáng, nước, khí, đồng, kẻm, chì, oxgen…hợp lại. Bây giờ chúng ta nên biết pháp Nhất Đa Tương Dung Bất Đồng nghĩa là một là một của tất cả và tất cả là tất cả của những cái một dung nhiếp quyện chặt vào nhau. Nói một cách khác một là tất cả và tất cả là một. Trong thế giới vô cùng vô tận nầy thật ra cũng bắt đầu từ những vật chất rất vi tế mà duyên khởi tác tạo hình thành. Đây chính là sự biến hiện thay đổi của không gian và thời gian.

Ngày nay khoa học đã chúng minh sự hình thành của tất cả thế giới vũ trụ bao la vô cùng vô tận cũng bắt nguồn từ sự nổ tung của một vi tử mà khoa học gọi là Vụ Nổ Lớn (The Big Bang) cách nay khoảng 13.7 tỷ năm về trước. Theo lý thuyết nầy thì tất cả vật chất và năng lượng được chất chứa trong một vi tử cực nhỏ, nhỏ hơn cả kích thước của một nguyên tử. Điểm vi tử nầy có mật độ vật chất và nhiệt độ vô hạn lớn hàng tỷ tỷ độ C (lớn hơn 1030 độ C). Vì chịu áp xuất quá lớn và độ nóng cùng cực nên vi tử nầy bị nổ tung và từ đó không gian từ từ mở rộng dựa theo tiến trình nguội dần của những phần phân tán vi tử. Dựa theo sự đo lường của khoa học thì khoảng 300,000 năm sau đó thì những nguyên tử mới được hình thành và nhiệt độ vẫn còn nóng đến 10,000 độ C. Khoảng một tỷ năm sau đó thì khí Hydrogen và Helium mới được tạo tác và những đám mây cũng như hành tinh bắt đầu xuất hiện và lực hút quân bình giữa các hành tinh cũng hình thành. Khi nhiệt độ giảm dần thì không gian cũng từ từ nới rộng và những dãy thiên hà cũng vì thế được kiến tạo cho đến ngày nay. Hiện nay thì vũ trụ vẫn còn trong trạng thái nới rộng nên sẽ có nhiều dãy thiên hà mới được tạo dựng. Khi không gian được mở rộng cùng với thời gian làm cho các dãy thiên hà di chuyễn xa nhau hơn. Để có một cái nhìn đơn giản về sự hình thành của nhân sinh vũ trụ, các khoa học gia đã giới thiệu cuốn Lịch Vũ Trụ (the Cosmic Calender) như sau: Bắt đầu từ ngày một tháng giêng thì vi tử nổ tung (The Big Bang) và dãy Ngân Hà (Milky Way) được tạo thành ngày 31 tháng giêng. Mãi đến tháng tám thì Thái dương hệ (Solar System) mới hình thành. Nhưng khoảng ngày 16 đến ngày 17 của tháng tám thì cuộc sống của các sinh vật mới hiện hữu trên trái đất nầy. Và sau đó loài người được hình thành ngày 31 tháng tám. Nhưng trong tương lai khi vũ trụ giản nở đến một kích thước cực đại thì nó sẽ bắt đầu co lại. Dấu hiệu của tận thế là khi tất cả các hành tinh và vũ trụ từ từ nguội dần và tắt hẳn cũng như mặt trời trong thái dương hệ không còn cháy và toàn thái dương hệ sẽ chìm trong bóng tối. Thế giới sẽ trở thành băng giá và tan biến vào tháng ngày 16 tháng năm năm tới của Lịch Vũ Trụ. Sau đó, vũ trụ sẽ trở nên đặc hơn, nóng hơn và sau cùng thu gọn bằng một vi tử như lúc ban đầu. Những tôn giáo thờ phượng Thượng đế thì họ lý luận rằng nếu thế gian vũ trụ bắt đầu từ một vi tử thì đây chính là điểm khởi đầu tức là thỉ? Nếu đã có thỉ thì Phật giáo làm sao giải thích nguyên lý vô thỉ vô chung? Chẳng những thế mà họ còn tự nhận Thượng đế chính là vi tử trên đã sáng tạo ra tất cả. Chỉ có Phật giáo là có quan niệm rất chính xác và tương đồng với khoa học vì Phật giáo xác định vũ trụ là vô thỉ vô chung tức là không có điểm bắt đầu hay có ngày cùng tận mà chẳng qua là những chu kỳ duyên khởi sinh diệt mà thôi. Vi tử nổ tung tạo thành vũ trụ và khi vũ trụ thu trở lại thì sẽ thành vi tử. Chu kỳ nầy xảy ra vô cùng vô tận thì cái nào là cái bắt đầu? Còn nếu nói Thượng đế sáng tạo ra vũ trụ thì sau bao nhiêu tỷ năm vũ trụ thu dần nhỏ lại thành vi tử thì ai chịu trách nhiệm cho việc nầy? Thánh kinh xác định là Thượng đế đã tạo ra trái đất nầy khoảng mười ngàn năm, nhưng ngày nay khoa học đã chứng minh trái đất hiện diện trong vũ trụ nầy gần năm tỷ năm rồi. Nếu nói chỉ có mười ngàn năm thì làm sao nói xưa như trái đất được! Tóm lại, khoa học cũng chứng minh rằng khi đũ nhân duyên thì từ một vi tử mà sanh ra vũ trụ và khi hết nhân duyên thì vũ trụ bao la vô cùng vô tận cũng trở về thành một vi tử mà thôi.

Hiện tượng nầy không có gì xa lạ đối với Phật giáo. Đó chính là bất biến tùy duyên và tùy duyên bất biến của Pháp giới duyên khởi của đại thừa. Khi nhân duyên hòa hợp thì tạo thành con người và vũ trụ nghĩa là bất biến mà tùy duyên. Còn nhân duyên tan rã thì con người, vũ trụ sẽ trở về với bản thể ban đầu tức là tùy duyên mà bất biến. Thế thì đâu có cái gì Có và Mất đâu. Đây chẳng qua là tiến trình của Duyên Khởi mà thôi.

Khoa học thì cũng chứng minh như thế. Nguyên lý bảo tồn năng lượng xác định rằng năng lượng luôn luôn được bảo tồn tức là năng lượng không bao giờ mất mà chỉ thay hình đổi dạng (dU=dQ-dW). Thí dụ như chúng ta mở cái nút điện thì đèn sáng nghĩa là năng lượng chuyển từ điện năng sang quang năng. Một thí dụ khác là khi mở máy xay sinh tố thì máy chạy nghĩa là năng lượng chuyển từ điện năng sang cơ năng. Cũng như nước chảy của đập thủy điện là cơ năng làm cho các trục biến điện di động tạo thành điện năng. Một nguyên lý thứ hai của vật lý học xác định rằng tất cả tổng số sự bất ổn của vật chất luôn luôn tăng trưởng nghĩa là vật chất sẽ hư hoại, tan biến dựa theo thời gian (Q/T≥0). Đây chính là luật vô thường vô ngã của nhà Phật vậy.

Vì có Nhất Thiết Chủng Trí nên ông Duy Ma Cật có thể hiểu biết tất cả các pháp và Thể Tánh chân thật của nó. Khi sử dụng Nhất Thiết Chủng Trí thì ông Duy Ma Cật thấy, biết rõ ràng một pháp có đủ chủng tử, chất liệu của vạn pháp và tự nó ứng hợp lại với nhau mà hình thành. Pháp nầy hàm chứa chủng tử của pháp kia và chủng tử của vạn pháp trùng trùng duyên khởi cho nhau. Mặc dù một pháp là yếu tố cấu tạo nên vạn pháp nhưng tướng một pháp và tướng vạn pháp vốn không hai mà cũng không phải là một tức là bất nhị. Thêm nữa, ông Duy Ma Cật quán chiếu Nhân Đà La Võng Cãnh Giới để thấy biết vạn pháp tương ứng, tương túc và tương nhập tác dụng lẫn nhau như sự ánh hiện trùng trùng phản chiếu vô cùng vô tận. Do đó khi đem 32 ngàn tòa sư tử to lớn như thế vào nhà mà không hề bị chật hẹp đó chính là Quảng Hiệp Tự Tại Vô Ngại. Tất cả những tòa sư tử vì không có tướng trạng mà chỉ là tư tưởng nên chúng không bị giới hạn bởi không gian hữu hạn nên không bị chật hẹp. Chân tâm thì vô cùng vô tận, không những đem 32 ngàn tòa sư tử mà có thể thu nhiếp cả thế giới vũ trụ vào mà không bao giờ đầy cả. Thí dụ như khi nhìn ngọn Hy Mã Lạp Sơn thì chúng ta liền đem ngọn núi to lớn nầy vào trong tâm tưởng của mình mà không thấy to lớn, chật hẹp bởi vì ngọn núi chỉ là tư tưởng chớ không phải thật có. Ở đây hàng thấp nhất là A La Hán đều đã đoạn tất cả phiền não lậu nên có được tâm thanh tịnh tức là có được Chân tâm nên ông Duy Ma Cật dùng Chủ, Bạn Viên Minh Công Đức khiến mọi người thấy biết những hiện tượng bất khã tư nghì nầy một cách rõ ràng như thật.

Bấy giờ ông Duy Ma Cật mời Bồ-tát Văn Thù và chư đại Bồ-tát an tọa. Các Bồ-tát được thần thông tự biến thân cao lớn bốn muôn hai ngàn do tuần, mới lên tòa ngồi được. Các Bồ-tát tân phát ý và hàng Thanh Văn đại đệ tử đều không lên ngồi được.

Trưởng giả Duy Ma Cật mời ông Xá Lợi Phất thăng tòa.

Ông Xá Lợi Phất nói:

- Thưa cư sĩ! tòa cao quá tôi không lên được.

Trưởng giả Duy Ma Cật nói:

- Xá Lợi Phất! Ngài hãy làm lễ Đức Tu Di Đăng Vương Như Lai rồi có thể lên tòa ngồi được.

Hàng tân phát ý Bồ-tát và tất cả đại đệ tử Thanh Văn làm lễ Đức Tu Di Đăng Vương Như Lai, bấy giờ mọi người đều lên được tòa ngồi.

Quả vị Phật, trí tuệ Bồ-đề ngay cả Niết Bàn thanh tịnh không phải chỉ dành riêng cho Phật, nhưng Phật và Bồ-tát có Bồ-đề, có Niết bàn, riêng về phần Như Lai có vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Còn phàm phu chúng sinh thì cũng có tự tánh Bồ-đề, tự tánh Niết bàn như vậy, nhưng họ không hưởng được Niết bàn an lạc nầy và không sử dụng được trí tuệ vô thượng Bồ-đề của mình mà còn chìm đắm trong vòng sắc tài danh lợi thị phi phải quấy hơn thua tốt xấu nên phải chịu chập chùng đau khổ hàng ngày cho đến hết kiếp. Sau khi đảnh lễ đức Tu Di Đăng Vương Như Lai có nghĩa là họ đã hồi đầu thị ngạn thì họ mới có thể lên tòa ngồi được. Tại sao? Phật ví như người đã ở trên bờ còn phàm phu chúng sinh thì vốn cũng đã ở trên bờ như Phật nhưng họ vì sự tham đắm sắc dục và vô minh che lấp trí tuệ nên đã lên thuyền vượt ra biển cả mênh mông mà phải bị sóng dập gió biển trùng trùng. Bây giờ nếu nghe lời ông Duy Ma Cật mà chịu quay thuyền trở lại thì cũng có thể lên bờ và được an vui tự tại như Phật. Đó chính là hồi đầu thị ngạn tức là có hồi thuyền mới có ngày đến bến. Người học Phật nếu thấu hiểu đạo lý nầy để cảm nhận được chân lý huyền diệu của Thế Tôn mà không rơi vào mê tín dị đoan. Tuy Phật và Bồ-tát thương tất cả chúng sinh như con một của các Ngài, nhưng chính chúng sinh phải tự mình hồi đầu thị ngạn bằng cách áp dụng những chân lý nhiệm mầu của Phật. Đó chính là ba từng kinh điển giáo pháp. Đừng hiểu lầm chỉ đường để chúng sinh quay về bờ không có nghĩa là Phật ra biển đưa chúng sinh về bờ mà chúng sinh phải tự mình chèo lái dựa theo tấm hải đồ mà Đức Phật đã ban cho. Thí dụ như chúng ta muốn khai khẩn một lô đất để trồng rau cải. Phật đem cuốc xẻn đến giúp chúng ta có phương tiện và chỉ dẫn cách trồng trọt. Nếu chúng ta y giáo phụng hành thì sau vài tháng sẽ có vườn rau xanh mướt. Nói một cách khác là Phật không độ hiểu theo nghĩa cầu nguyện, cúng lạy cho ai hết mà Phật chỉ độ hiểu theo nghĩa y giáo phụng hành mà thôi. Chèo nhanh, chèo chậm là tùy theo căn cơ, sở nguyện của chúng sinh, nhưng hễ có chèo là có ngày đến bến. Tóm lại quả vị vô thượng Bồ-đề không phải dành riêng cho Như Lai, nếu các vị Thanh Văn chịu hướng về với tự tánh thanh tịnh tức là Phật tánh của mình thì sẽ có Bồ-đề ngay.

Các đại Bồ-tát thâm nhập trí tuệ Đại thừa nên không còn chấp ngã, chấp pháp. Họ lìa Sự Tướng mà nhập Bản Thể thanh tịnh nên có thần thông diệu dụng và tâm thể dung thông với vạn pháp nên không có gì ngăn ngại. Họ quán Quảng Hiệp Tự Tại Vô Ngại mà tự biến hóa tương ứng với kích thước tòa sư tử nên mới lên tòa sư tử ngồi được. Nhưng đối với các vị Bồ-tát mới phát tâm và hàng Thanh Văn thì họ còn chấp Pháp tức là thấy có pháp môn để tu, có quả vị để chứng và còn cầu Niết bàn để được an vui tịch diệt nên chưa thâm nhập được Bản Thể thanh tịnh mà không thể dung thông với vũ trụ và hòa nhập với thiên nhiên được. Mặc dầu họ cũng có thần thông nhưng bị giới hạn. Sau khi đảnh lễ Đức Tu Di Đăng Vương Như Lai có nghĩa là họ đã lìa Tướng mà nhập Thể Tánh. Bỏ Tiểu thừa về với Đại thừa, bỏ tối về sáng, lìa vô minh về với trí tuệ hằng sáng chói của mình thì họ có được thần thông diệu dụng và tự mình biến hóa để lên ngồi trên tòa sư tử.

Ông Xá Lợi Phất nói:

- Thưa cư sĩ! Quả là việc lạ lùng chưa từng có. Diện tích của ngôi tịnh thất hữu hạn nầy mà lại có thể dung chứa hàng mấy muôn cái tòa rộng. Thành Tỳ Xá Ly, xóm làng, cõi nước đều không chật chội trở ngại gì nhau. Đây là việc chưa từng có.

Ông Duy Ma Cật nói:

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Chư Phật, Bồ-tát có pháp môn giải thoát gọi là :”Bất Khả Tư Nghì”. Nếu Bồ-tát trụ trong pháp môn giải thoát đó, có thể lấy núi Tu Di cao rộng để vào trong một hạt cải, mà núi Tu Di vẫn y nguyên trạng, hạt cải vẫn không thêm bớt chút nào. Trời Thiên Vương, Đạo Lợi, Chư Thiên không hề hay biết cảnh giới Chư Thiên đang ở trong hạt cải. Chỉ có những người đáng độ (Bồ-tát đăng địa), mới thấy biết núi Tu Di được đặt vào trong hạt cải.

Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát tức là Bồ-tát đã thành tựu Bát nhã ba-la-mật. Tất cả những cái vật chất trong thế gian nầy mà kinh Lăng Nghiêm gọi là Sắc tức là địa đại. Cho nên khi Bồ-tát lấy núi Tu Di để lọt vào trong hạt cải thì đây chính là sắc. Mà:”Tánh sắc chơn không, tánh không chơn sắc, thanh tịnh bản nhiên trang biến pháp giới tùy chúng sinh tâm ứng sở ứng tri lượng tuần nghiệp phát hiện”. Vì Thể Tánh của Sắc có tính thanh tịnh bản nhiên nhưng sở dĩ nó có là tùy theo tâm lượng hay theo sự yêu cầu của chúng sinh mà phát hiện. Cho nên nếu Bồ-tát cầu cở nào thì nó phát hiện cở ấy còn không cầu thì nó không có. Nói một cách khác là Bản Thể của vật chất là Không tức là Sắc tức là Không. Do đó khi thấy hiện tượng giới như đem vật lớn đặt vào chỗ nhỏ là Bồ-tát muốn chúng sinh tư duy quán chiếu để thấy một cách triệt để là ngũ uẩn giai không.

Bồ-tát trụ bất tư nghì giải thoát, có thể lấy nước biển cả để vào lỗ chân lông mà nước biển cả vẫn y nhiên. Các loài thủy tộc cá, tôm, rùa, rạch…không bị khuấy động. Long vương, quỷ thần, A tu la…không hề hay biết và họ chẳng bị nhiễu hại chút nào.

Bồ-tát trụ bất tư nghì giải thoát, còn xắn lấy ba ngàn đại thiên thế giới để trên bàn tay và ném qua hằng hà sa thế giới, rồi thu về đặt lại chỗ củ mà thế giới vẫn y nhiên. Người người ở trong các thế giới kia không hề hay biết về sự đi lại của mình.

Còn Bồ-tát đem nước biển để vào lỗ chân lông hay lấy ba ngàn đại thiên thế giới để trên bàn tay là ý như thế nào?

Hai hiện tượng trên đây cũng đều là phản ảnh cho sự biến đổi của không gian vì thế chúng ta cũng có thể áp dụng câu:”Tánh thủy chơn Không, Tánh không chơn thủy, thanh tịnh bản nhiên trang biến pháp giới tùy chúng sinh tâm ứng sở ứng tri lượng tuần nghiệp phát hiện” nghĩa là Tánh của nước là Không, Tánh Không là nước, tự nó rất thanh tịnh, nhưng vì nhu cầu của chúng sinh mà ứng hiện. Vì nước nầy là do tinh khí và dưỡng khí hòa hợp mà thành nghĩa là nước không có tự tánh tức là Không. Khi đầy đủ nhân duyên hội tụ thì Không trở thành nước còn bình thường thì nước trang biến pháp giới mà lại thanh tịnh bản nhiên. Cho nên ở đâu cũng có nước mà nước không làm ngập lụt chết người vì tánh của nước là thanh tịnh bản nhiên. Chỉ khi nào cần và có đủ nhân duyên hội tụ thì Không thành ra nước tức là tùy chúng sinh tâm ứng sở tri lượng nghĩa là đáp ứng tùy theo nhu cầu của chúng sinh. Do đó đứng về sắc thì thấy có nước biển nhiều, nhưng Bản Thể của nước biển là Không cho nên nếu Bồ-tát quán Quảng Hiệp Tự Tại Vô Ngại thì có thể biến hiện Thể Không của nước biển vào trong lỗ chân lông là vậy.

Còn nữa, thưa ngài Xá lợi Phất! Nếu có chúng sinh thích sống lâu ở đời, vì hóa độ họ, trong khoảng bảy ngày, Bồ-tát nói với họ là một kiếp, khiến chúng sinh kia tin nhận là một kiếp.

Hoặc có chúng sinh không thích sống lâu ở đời, vì hóa độ họ, Bồ-tát rút ngắn một kiếp nói là bảy ngày, khiến chúng sinh kia tin nhận là bảy ngày.

Những phần trên của phẩm nầy thì Bồ-tát đã biểu diễn Bất khả tư nghì giải thoát do sự thay đổi biến hiện của không gian. Bây giờ ông Duy Ma Cật muốn chứng minh thời gian cũng như không gian là vô thường vô ngã sinh diệt, là những tướng trạng tương đối, là những khuôn mẩu đặt ra để phân biệt, là giả huyễn không thật có.

Dựa theo Mười Đời Cách Pháp Dị Thành thì một đời bao gồm cả ba đời nghĩa là ngay trong đời hiện tại đã có sự hiện diện của đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Tại sao? Bởi vì đời hiện tại của chúng ta ngày nay chẳng qua là kết quả của biết bao nghiệp nhân mà con người đã tạo tác trong những đời quá khứ và cũng chính đời hiện tại nầy chúng ta đang tạo ra rất nhiều nghiệp nhân mà sẽ là kết quả cho đời tương lai. Vậy đời nào là đời thật? Vì thế đời không có gì làm tiêu chuẩn cho quá khứ, hiện tại, vi lai cả. Thí dụ như nhìn thấy một người chúng ta cho họ là năm sáu mươi tuổi. Nhưng dựa trên tiêu chuẩn nào để chúng ta kết luận như vậy? Phải chăng là nhìn thấy người nầy tóc hoa râm, mắt kém…Nhưng thật sự làm sao biết chắc người nầy năm sáu chục tuổi? Có người sáu bảy chục tuổi mà mắt vẫn sáng như sao, tóc da tươi nhuận. Còn có người mới ba bốn mươi tuổi nhưng vì cuộc sống đầu tắt mặt tối nên đầu tóc bạc phơ thì già hơn trước tuổi là chuyện thường. Do đó nếu dựa trên thời gian thì không tìm đâu cho ra tuổi. Tuổi mà con người dựa theo là tính theo sự vận chuyển của địa cầu quanh mặt trời đâu có giống tuổi của những thế giới khác. Một ngày trên không gian dài hơn một ngày dưới địa cầu rất nhiều. Ngày xưa Lưu Nguyễn ngao du chốn bồng lai mới vài năm mà khi về lại nhà củ làng xưa thì hoàn toàn thay đổi vì mấy năm tiên cảnh bằng vài trăm năm trần thế. Vậy tuổi nào là tuổi thật? Kiếp sống chết của con người không bao giờ có thể luận theo tuổi tác được. Có người chết già, có kẻ chết bệnh và có kẻ sống dở chết dở cho nên thời gian chẳng có giá trị chân thật bởi vì khái niệm thời gian chỉ là dựa trên sự vô thường chuyển biến của các pháp hữu vi. Thí dụ như ngày và đêm đâu có đồng nhất. Ngày ở Hoa kỳ tức là đêm ở Việt nam vậy thời gian cùng một thế giới nhỏ nầy mà không giống nhau thì làm sao gọi là chân lý.

Còn nữa thưa ngài Xá Lợi Phất! Trụ bất tư nghì giải thoát, Bồ-tát lấy những sự trang trí đẹp đẽ của tất cả cõi Phật nhóm lại ở một chỗ chỉ bày cho chúng sinh xem thấy rõ ràng. Bồ-tát lấy tất cả chúng sinh và cõi Phật để trên bàn tay bay đến khắp mười phương, chỉ rõ cho tất cả mà “bổn xứ” không hề động chuyển.

Thưa ngài Xá Lợi Phất! Những món đồ cúng dường chư Phật trong mười phương, Bồ-tát có thể đem vào trong một lỗ chân lông khiến cho ai cũng có thể được thấy.

Mười phương cõi nước có bao nhiêu nhật nguyệt, tinh tú gom về trong một lỗ chân lông, khiến cho xem thấy dễ dàng.

Mười phương thế giới có bao nhiêu gió, Bồ-tát hớp vào miệng mà thân không hề tổn hại. Tất cả cây cỏ bên ngoài không bị gãy đổ.

Mười phương thế giới, khi kiếp tận, lửa cháy ngút trời, Bồ-tát hút tất cả lửa vào trong bụng mà thân không bị tai hại.

Bồ-tát có thể lấy một cõi Phật ở hằng hà sa thế giới ở hạ phương, cầm đem lên cách hằng hà sa số thế giới ở thượng phương như cầm một que tăm găm vào một là táo, không khó khăn mệt nhọc chút nào.

Còn nữa thưa ngài Xá Lợi Phất! Trụ bất tư nghì giải thoát, Bồ-tát có thể dùng thần thông hiện thân Phật, hoặc hiện thân Bích Chi Phật, hoặc hiện thân Phạm vương, hoặc hiện thân Chuyển luân Vương.

Lại nữa, trong mười phương thế giới có bao nhiêu thứ âm thanh, thượng, trung, hạ đều có thể biến thành âm thanh Phật, diễn nói những pháp của chư Phật trong mười phương đã nói như vô thường, khổ, không và vô ngã khiến cho chúng sinh hữu duyên đều được nghe.

Thưa ngài Xá Lợi Phất! Tôi lược nói về thần lực bất khả tư nghì giải thoát của Bồ-tát là thế. Nếu nói rộng suốt kiếp cũng không nói hết được.

Cũng như lửa cháy ngút trời mà Bồ-tát hớp vào miệng mà thân không hề tổn hại. Nếu nhìn bằng nhục nhãn thì làm sao hớp lửa ngút trời vào trong bụng cho được, nhưng ở đây một lần nữa Bồ-tát không nhìn vật chất bằng nhục nhãn mà nhìn bằng mắt trí tuệ bát nhã ba-la-mật thì thấy lửa tức là Không và Không tức là lửa (Tánh hỏa chơn Không, Tánh Không chơn hỏa). Thanh tịnh bản nhiên là lửa ở khắp trong vũ trụ mà không làm cháy ai hết, nhưng nếu chúng sinh tâm ứng sở tri lượng tuần nghiệp phát hiện thì nếu con người cần lửa thì nó mới cháy. Thí dụ như ánh sáng mặt trời là một dạng của lửa thì có cháy ai đâu, nhưng chỉ khi nào chúng ta đem kính lúp đặt dưới ánh sáng mặt trời thì sẽ có lửa cháy ngay.

Nói chung những hiện tượng trên giúp chúng sinh tư duy quán chiếu về địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đạo và thức đại. Tất cả đều là Không mà Không chẳng khác có và có chẳng khác Không vậy. Nói một cách khác lửa chẳng khác Không và Không chẳng khác lửa.

Thêm nữa, khi Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát hiện các thân Phật, Bích Chi Phật, Phạm Vương…hay biến cả các thứ âm thanh to nhỏ thành tiếng Phật thì tất cả hiện tượng nầy đều là Sắc. Mà:”Tánh sắc chơn không, tánh không chơn sắc, thanh tịnh bản nhiên trang biến pháp giới tùy chúng sinh tâm ứng sở ứng tri lượng tuần nghiệp phát hiện”. Dù biết thân Phật, thân Bích Chi Phật, ngay cả âm thanh hay tiếng Phật là giả huyễn mà Bồ-tát vẫn biến hiện các hình tướng thích hợp với hoàn cảnh mà hoằng dương Phật pháp. Họ dùng phương tiện để giúp chúng sinh tìm về với cứu cánh giải thoát giác ngộ.

Nếu chúng sinh biết tư duy quán chiếu để thấy biết rằng vũ trụ là do sự tạo thành biến hiện của không gian và thời gian, nhưng không gian và thời gian là giả huyễn, là vô thường vô ngã, sanh sanh diệt diệt. Khác hẳn với hàng Thanh Văn vì thấy thế gian vũ trụ là sinh diệt nên họ cố tu để mong chứng quả vị Bồ-đề và cầu sự tịch diệt an lạc của Niết bàn nên họ còn chấp Pháp có và các vị Bồ-tát thì chấp Không vì đối với họ vạn pháp giai Không tức là không có gì trên đời là thật có cả. Ở đây chúng sinh nên bắt chước chư Phật để xóa tan những tư tưởng về chấp Pháp và chấp Không mà nhận biết rằng vạn pháp tuy là Có nhưng không phải là Có thật, còn Không nhưng không phải là không của cái trống không. Khi nhân duyên hòa hợp thì vạn pháp sanh và khi nhân duyên tan rã thì vạn pháp diệt cho nên tuy vạn pháp sanh sanh diệt diệt, diệt diệt sanh sanh mà chúng sinh vẫn luôn luôn tự tại trước sự sanh diệt, diệt sanh nầy. Cùng lối nhìn như Bồ-tát để thấy rằng con người, vạn pháp là Không nghĩa là không thật có mà hiện giờ nó vẫn có vì thế con người nên làm bất cứ cái gì cần làm để giúp đở cho tất cả chúng sinh mặc dù họ là không có thật.

Nếu biết áp dụng huyền nghĩa của đoạn kinh nầy vào trong cuộc sống thì con người sẽ không còn chấp Tướng tức là hình sắc, âm thanh, ngôn ngữ, lời nói, văn tự…thì cuộc sống sẽ an vui tự tại, không còn ràng buộc khổ đau. Nếu không chấp vào hình tướng thì con người sẽ không còn quan trọng đến nhà sang, xe đẹp, áo lụa quần là, se sua chưng diện xa hoa…mà chỉ cần đứng đắn chỉnh tề, tâm tư thanh thoát và ung dung tự tại. Nếu không chấp âm thanh, lời nói, văn tự vì chúng là giả huyễn, là sinh diệt thì con người sẽ dững dưng trước lời khen tiếng chê và xem những tiếng thị phi như gió thoảng ngoài tai mà hướng tâm thanh tịnh để thấy rằng:”Nhất thế sắc giai thị Phật sắc, nhất thế thanh giai thị Phật thanh” nghĩa là nếu có tâm thanh tịnh thì tất cả hình tướng đều là hình tướng Phật và tất cả âm thanh đều là âm thanh Phật.

Ngài Đại Ca Diếp sau khi nghe pháp môn bất khả tư nghì giải thoát, rất hoan hỉ, tán thán và nói với ông Xá Lợi Phất rằng:

- Ví như sắc tượng hiện hữu ngay trước mắt người mù nhưng người mù không sao thấy được. Cũng vậy, với pháp môn bất khả tư nghì giải thoát, hàng Thanh Văn dù có nghe nhưng cũng không hiểu rõ được.

Người trí ai nghe mà chẳng phát tâm vô thượng Bồ-đề.

Hàng Thanh Văn chúng ta vì sao lại dứt hẳn hạt giống đại thừa để cho mầm tược cháy khô. Tất cả hàng Thanh Văn nghe pháp môn bất khả tư nghì giải thoát, nên khóc rống lên đi! Khóc cho vang động cả ba ngàn đại thiên thế giới! Còn tất cả các Bồ-tát, những người chủng tánh đại thừa nên hân hoan tiếp thụ, kê đầu đội lấy pháp môn nầy.

Bồ-tát tin và hiểu pháp môn bất khả tư nghì giải thoát, tất cả các ma dù có thể lực bao nhiêu đi nữa cũng không làm gì động chuyển.

Ngài Đại Ca Diếp nói xong. Khi bấy giờ có ba muôn hai ngàn thiên tử phát tâm vô thượng Bồ-đề.

Các vị Thanh văn tuy chứng quả A La Hán và được ra khỏi sinh tử luân hồi nhưng tâm vẫn còn chấp trước nơi pháp Tiểu thừa nên chưa được giải thoát rốt ráo. Sau khi nghe Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát làm Bất tư nghì sự và trình diễn Bất tư nghì cảnh giới thì như người mê chợt tỉnh, bỏ tối tìm sáng mà phát tâm vô thượng Bồ-đề để quay về với chân lý liễu nghĩa tối thượng đại thừa.

Bấy giờ ông Duy Ma Cật nói với ngài Đại Ca Diếp:

- Thưa nhân giả! Trong thập phương vô lượng A tăng kỳ thế giới, những người làm ma vương phần nhiều là Bồ-tát trụ bất khả tư nghì giải thoát, dùng sức phương tiện giáo hóa chúng sinh mà hiện làm ma vương như vậy.

Lại nữa, thưa ngài Ca Diếp! Bồ-tát trong mười phương nhiều vô số. Có khi người ta theo các ngài để xin mắt, mũi, tay, chân, máu thịt, xương tủy, đầu óc…Xin quốc thành thê tử, tượng mã, kim ngân…xin cả y phục và thức ăn. Người xin như vậy, phần nhiều là Bồ-tát trụ bất khả tư nghì giải thoát dùng sức phương tiện để thử thách hạnh sở hành của Bồ-tát khiến cho sức kiên cố càng thêm kiên cố.

Thử thách như vậy để làm gì?

Bởi vì Bồ-tát trụ bất tư nghì giải thoát có nghị lực và uy đức lớn lao cho nên dùng những hành động bức bách dồn ép làm những việc khó làm để biểu thị sức tinh tấn, chỉ bày đức nhẫn nhục…vì sự nghiệp giáo hóa chúng sinh.

Hạng phàm phu hạ liệt không có uy lực, không thể kham chịu những sự bức bách nghiệt ngã như Bồ-tát được. Ví như sức lừa không chịu nổi sự dẫm đạp của long tượng.

Thông thường ma quỷ là những hình bóng, hiện tượng kỳ quái xuất hiện khiến cho con người lo sợ, khiếp đảm làm cản trở chướng ngại sự tu hành. Nhưng ở đây chính các vị Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát lại thị hiện làm ma vương để dùng phương tiện mà giáo hóa chúng sinh. Thí dụ như có người phát nguyện tu bố thí ba-la-mật để phát triển chủng tử từ bi đại thừa thì ma vương thị hiện đến xin từ ngoại tài như vàng bạc, châu báu, thức ăn, áo mặc cho đến nội thân như chân tay, mắt, mũi…cốt là để thử thách người đó có thực hành hạnh bố thí như họ đã phát nguyện không. Ma vương cũng thị hiện đến quấy phá những người tu hạnh nhẫn nhục, quấy nhiễu những kẻ tu thiền, làm phân tâm những người niệm Phật. Ngày xưa lúc Đức Phật tu dưới cội Bồ-đề sắp thành ngôi Chánh giác thì Ma Nữ cũng xuất hiện rất nhiều để thử thách lòng kiên cố, tâm kiên nhẫn và ý chí sắc đá của Ngài.

Thật ra ma vương mà kinh nầy muốn ám chỉ chính là lục dục thất tình núp thật sâu vào trong tâm thức của tất cả chúng sinh. Đó chính là tham-sân-si, mạn, nghi, tà kiến…những ảo tưởng của thị dục, những thói hư tật xấu luôn thúc đẩy con người lún sâu vào vòng tăm tối, xấu xa. Khác hẳn với hàng Thanh văn hay phàm nhân thì sợ nghịch cảnh, không dám đối diện với cảnh trái ý nghịch lòng, ở đây Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát thị hiện làm ma vương để giáo hóa chúng sinh tu trong nghịch cảnh. Có đối diện với nghịch cảnh, biết mặt thật của cuộc đời thì con người mới nung nấu chí nguyện của mình trở thành sắc đá, tăng trưởng tâm nhẫn nhục, phát huy lòng từ bi, đạo đức làm nền tảng cho tâm được thanh tịnh mà có trí tuệ sáng suốt. Vì thế người xưa cũng có câu:”Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai”. Thật vậy, lửa có cao mới biết vàng nhiều tuổi, có vào hang cọp mới bắt được cọp con. Bồ-tát thì phải làm cho được những việc khó làm. Cố gắng tích cực chế ngự nghịch cảnh, vượt qua mọi khó khăn, cứu giúp tất cả chúng sinh mà không chán nản mệt mỏi và không hề bị dòng đời lôi cuốn. Bồ-tát luôn vận dụng trí tuệ để đáp ứng mọi yêu cầu, sang bằng mọi thử thách để hoàn thành hạnh nguyện. Khác với các vị A La Hán thấy đời vô thường vô ngã sinh sinh diệt diệt nên cố tu tìm giải thoát tịch diệt Niết bàn và mong chứng quả vị Bồ-đề, ông Duy Ma Cật vạch ra một con đường sáng là lấy gia đình xã hội làm đạo tràng tu thanh tịnh, lấy chúng sinh làm đối tượng tu học, lấy nghịch cảnh làm phương châm giáo hóa. Ngay trong cảnh phiền não ô trược, xã hội phức tạp mà chúng sinh vẫn có được Niết bàn cũng như hoa sen thơm ngát vươn lên trong bùn tanh hôi hám. Còn quả vị Vô thượng Bồ-đề thì chúng sinh cũng không cần mong cầu trông đợi vì tự tánh Bồ-đề thì lúc nào cũng có sẳn trong mọi chúng sinh. Nếu con người chịu lìa xa vọng chấp, tâm không còn dính mắc và hướng về sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình tức là hồi đầu thị ngạn để quay thuyền trở lại bến thì ai ai cũng có ngay Phật tánh, chơn tâm nghĩa là Bồ-đề hiễn hiện vậy.

Đó là pháp môn phương tiện và trí tuệ của Bồ-tát trụ Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát pháp môn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567