- Kinh A Soa Mạt Bồ Tát
- Đức Phật vì Vua Rồng Biển Nói Pháp Âm
- Đức Phật nói Kinh Hư Không Tạng Bồ Tát Thần Chú
- Hoàng Đạo Quảng Hiển Tam Muội
- Hương giới đức
- Bồ Tát Di Lặc hỏi Phật về Bổn nguyện
- Kinh Bồ Tát quở trách sắc dục
- Kinh Chánh Đại Tập
- Kinh Công Đức Tin Phật
- Kinh Di Lặc Hạ Sanh
- Giáo trình về khóa tu học Thiền và Tịnh Độ
- Kinh Đại Báo Phụ Mẫu
- Kinh Đại Thông Phương Quảng
- Kinh A Di Đà
- Kinh Đại Thừa Bảo Nguyệt Đồng Tử Vấn Pháp
- Kinh Đại Thừa Đại Tập Địa Tạng Thập Luận
- Kinh Đế Thích Sở Vấn
- Kinh Giải Hạ
- Kinh Hiền Kiếp Thiên Phật Danh (bản dịch của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn)
- Kinh Hoa Nghiêm (Phẩm Hạnh Nguyện Phổ Hiền)
- Kinh Hồng Danh Sám Hối
- Kinh Hư Không Tạng Bồ Tát
- Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm
- Kinh Ngũ môn thiền pháp yếu dụng
- Kinh Nhân Quả Ba Đời
- Kinh Những Điều Phật Dạy
- Kinh Pháp Bảo Đàn
- Kinh Pháp Hoa
- Quyển hạ
- Kinh Phật Giáo Hóa Phạm Chí A Bạt
- Kinh Phật Lâm Niết Bàn Ký Pháp Trụ
- Kinh Phật Nói Về Tu Lại
- Kinh Phật Thuyết Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật
- Kinh Phật Thuyết Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện
- Kinh Phật Thuyết Đại Thừa Thập Pháp
- Kinh Phật Thuyết Đại Thừa Thiện Kiến Biến Hoá Văn Thù Sư Lợi Vấn Pháp
- Kinh Phật Thuyết Quán Di Lặc Bồ Tát Hạ Sanh
- Kinh Phật Thuyết Trưởng Giả Nữ Yêm Đề
- Kinh Phật Tỳ Bà Thi
- Kinh Quán Di Lặc Bồ Tát Thượng Sanh Đâu Suất
- Kinh Quán Hư Không Tạng Bồ Tát
- Kinh Quán Vô Lượng Thọ
- Kinh Sự tích Thiện Hữu Ác Hữu
- Kinh Tân Tuế
- Kinh Thập Thiện
- Kinh Thất Phật
- Kinh Thất Phật Phụ Mẫu tánh Tự
- Kinh Thi Ca La Việt Lạy Sáu Phương
- Kinh Thiện Sanh
- Kinh Thiện Sanh Tử
- Kinh Thọ Tân Tuế
- Kinh Thọ Trì Danh Hiệu Bảy Đức Phật Sinh Ra Công Đức
- Kinh Thủy Dụ
- Kinh Tịch Chí Quả
- Kinh Tỳ Kheo Chiêm Bà
- Kinh Vô Tự Bảo Khiếp
- Phật Nói Kinh A Na Luật, Bát Niệm
- Phật Nói Kinh A Nậu Phát
- Phật Nói Kinh Anh Võ
- Phật Nói Kinh Át Ba La Diên Vấn Chủng Tôn
- Phật Nói Kinh Bát Quan Trai
- Phật Nói Kinh Bệ Ma Túc
- Phật Nói Kinh Bổn Tương Ỷ Trí
- Phật Nói Kinh Chư Pháp Bổn 1
- Phật Nói Kinh Chư Pháp Bổn 2
- Phật Nói Kinh Con Của Bà La Môn Mạng Chung Thương Nhớ Không Nguôi
- Phật Nói Kinh Con Người Do Dục Sanh
- Phật Nói Kinh Cổ Lai Thế Thời
- Phật Nói Kinh Công Ðức Của Tam Quy, Ngũ Giới, Từ Tâm Và Yểm Ly
- Phật Nói Kinh Cù Ðàm Di Ký Quả
- Phật Nói Kinh Dụ Con Kiến
- Phật Nói Kinh Dụ Mũi Tên
- Phật Nói Kinh Dụ Nước Biển
- Phật Nói Kinh Duyên Bổn Trí
- Phật Nói Kinh Ðảnh Sanh Vương Cố Sự
- Phật Nói Kinh Ðại Sanh Nghĩa
- Phật Nói Kinh “Ðâu Ðiều”
- Phật Nói Kinh Hộ Quốc
- Phật Nói Kinh Khổ Ấm Nhân Sự
- Phật Nói Kinh Mười Cư Sĩ Người Bát Thành
- Phật Nói Kinh Năm Thiên Sứ Của Vua Diêm La
- Phật Nói Kinh Nhất Thiết Lưu Nhiếp Thủ Nhân
- Phật Nói Kinh Lại Tra Hòa La
- Phật Nói Kinh Lạc Tưởng
- Phật Nói Kinh Lậu Phân Bố
- Phật Nói Kinh Luân Vương Thất Bảo
- Phật Nói Kinh Ly Thùy
- Phật Nói Kinh Ma Nhiễu Loạn
- Phật Nói Kinh Nê Lê
- Phật Nói Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt Cho Trưởng Giả Thủ Ca
- Phật Nói Kinh Nhân Duyên Chấm Dứt Ðấu Tranh
- Phật Nói Kinh Nước Sông Hằng
- Phật Nói Kinh Phạm Chí Kế Thủy Tịnh
- Phật Nói Kinh Phạm Ma Dụ
- Phật Nói Kinh Phạm Võng 62 Tà Kiến
- Phật Nói Kinh Pháp Ðúng, Pháp Sai
- Phật Nói Kinh Phân Biệt Bố Thí
- Phật Nói Kinh Pháp Hải
- Phật Nói Kinh Phổ Pháp Nghĩa
- Phật Nói Kinh Phục Dâm
- Phật Nói Kinh Quả Báo Trưởng Giả Bố Thí
- Phật Nói Kinh Quảng Nghĩa Pháp Môn (kinh này rút ra một phẩm từ Trung A Hàm)
- Phật Nói Kinh Số
- Phật Nói Kinh Tà Kiến
- Phật Thuyết Ðại Tam Ma Nhạ Kinh (Phật Nói Kinh Ðại Tam Ma Nhã)
Những bản kinh ngắn dịch từ Hán Tạng
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu tánh Tự
Nguồn: Thích Chánh Lạc dịch, Hiệu-chú: Tuệ Sỹ – Đức Thắng
Nghe như vầy[2]:
Một thời, Phật ở nước Xá-vệ. Trong nước, có người phụ nữ có con trai tên là Vô Diên do đó được gọi là Mẹ Vô Diên[3]. Phật cùng năm trăm Tỳ-kheo[4] đến nhà bà Vô Diên, ngồi thọ trai trên điện. Sau khi thọ trai[5], có khoảng mười Tỳ-kheo, ở chỗ khuất[6], bàn luận với nhau: Phật là bậc chúng ta tôn kính, thần uy vô cùng, biến hóa tự tại theo ý muốn, lẽ nào Ngài không biết Phật quá khứ và Phật tương lai, với tuổi thọ, tên họ cha mẹ, bao nhiêu đệ tử, sự tu hành và giáo pháp của các Ngài.
Phật bằng thiên nhĩ nghe các Tỳ-kheo bàn luận về việc này; Ngài đến hỏi:
"Này các Tỳ-kheo, các thầy bàn luận về việc gì?"
Các Tỳ-kheo thưa:
"Chúng con nghĩ rằng Phật có thần thông tối thượng, đạo đức vi diệu, hiểu biết cao xa, không ai có thể hơn Ngài được. Phật biết rõ chư Phật quá khứ, chư Phật tương lai, với tuổi thọ, tên họ cha mẹ, bao nhiêu đệ tử, sự tu hành và ý chí giáo lệnh."
Phật nói:
"Lành thay! Lành thay! Đúng như vậy. Các thầy hành pháp Sa-môn, nên nhớ nghĩ những việc lành như vậy. Các thầy muốn nghe tên họ chư Phật quá khứ với cha mẹ, đệ tử các Ngài không?"
Các Tỳ-kheo thưa:
"Chúng con muốn nghe."
Phật dạy:
"Các Thầy hãy lắng nghe! Đức Phật thứ nhất tên Duy-vệ[7], nhập Niết-bàn đến nay đã chín mươi mốt kiếp. Phật thứ hai tên Thức[8], nhập Niết-bàn đến nay cũng đã ba mươi mốt kiếp. Phật thứ ba tên Tùy-diệp[9], nhập Niết-bàn đến nay đã ba mươi mốt kiếp. Trong kiếp Phi-địa-la[10] sẽ có một ngàn Phật, thứ nhất tên Phật Câu-lâu-tần[11], đức Phật thứ hai tên Phật Câu-na-hàm Mâu-ni[12], thứ ba tên Phật Ca-diếp [13], thứ tư là Ta, Phật Thích-ca Văn-ni.
"Phật Duy-vệ họ Câu-lân[14]. Phật Thức cũng họ Câu-lân. Phật Tùy-diệp cũng họ Câu-lân. Phật Câu-lâu-tần họ Ca-diếp. Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, cũng họ Ca-diếp, Phật Ca-diếp cũng họ Ca-diếp. Nay, Ta, Phật Thích-ca Văn-ni họ Cù-đàm[15].
"Phật Duy-vệ dòng Sát-lợi. Phật Thức cũng dòng Sát-lợi. Phật Tùy-diệp cũng dòng Sát-lợi. Phật Câu-lâu-tần dòng Bà-la-môn. Phật Câu-na-hàm Mâu-ni cũng dòng Bà-la-môn. Phật Ca-diếp cũng dòng Bà-la-môn. Đến nay, Ta, Phật Thích-ca Văn-ni dòng Sát-lợi.
"Phật Duy-vệ, cha tên Bàn-biểu,[16] vua dòng Sát-lợi; mẹ tên Bàn-đầu-mạt-đà[17], trị vì đất nước tên Sát-mạt-đề[18].
"Phật Thức, cha tên A-luân-noa[19], vua dòng Sát-lợi; mẹ tên Ba-la-ha-việt-đề[20], trị vì đất nước tên A-lâu-na-hòa-đề[21].
"Phật Tùy-diệp, cha tên Tu-ba-la-đề-hòa[22], vua dòng Sát-lợi; mẹ tên Da-xa-việt-đề[23], trị vì đất nước tên A-nâu-ưu-ma[24]. Phật Câu-lâu-tần, cha tên A-chi-vi-đâu[25], dòng Ba-la-môn; mẹ tên Tùy-xá-ca[26]. Quốc gia tên Luân-ha-lợi-đề-na[27]. Quốc vương hiệu Tu-ha-đề[28].
"Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, cha tên Gia-thiểm-bát đa[29], dòng Bà-la-môn; mẹ tên Uất-đa-la[30], nước tên Sai-ma-việt-đề[31]. Quốc vương hiệu Sai-ma[32].
"Phật Ca-diếp, cha tên A-chi-đạt-da[33], dòng Bà-la-môn; mẹ tên Đàn-na-việt-đề-da[34], nước hiệu Ba-la-tư[35]. Quốc vương hiệu Kỳ-thậm-đọa[36].
"Nay, Ta Phật Thích-ca Văn-ni, cha tên Duyệt-đầu-đàn[37], vua dòng Sát-lợi; mẹ tên Ma-ha Ma-da[38]. Nước tên Ca-duy-la-vệ [39], Đại vương đời trước tên Bàn-đề.[40]
"Phật Duy-vệ thọ tám vạn tuổi[41]. Phật Thức thọ bảy vạn tuổi[42]. Phật Tùy-diệp thọ sáu vạn tuổi[43]. Phật Câu-lâu-tần thọ bốn vạn tuổi[44]. Phật Câu-na-hàm Mâu-ni thọ ba vạn tuổi[45]. Phật Ca-diếp thọ hai vạn tuổi[46]. Ta, Phật Thích-ca Văn thọ trên dưới một trăm tuổi.
"Con Phật Duy-vệ tên Tu-viết-đa-kiện-đa[47]. Con Phật Thức tên A-đâu-la[48]. Con Phật Tùy-diệp tên Tu-ba-la-viết[49]. Con Phật Câu-lâu-tần tên Uất-đa-la[50]. Con Phật Câu-na-hàm Mâu-ni tên Đọa-di-đa-tiên-na[51]. Con Phật Ca-diếp tên Sa-đa-hòa[52]. Nay, con Ta, Phật Thích-ca Văn-ni tên La-vân[53].
"Phật Duy-vệ đắc đạo thành Phật dưới cây Ba-đa-la[54]. Phật Thức đắc đạo thành Phật dưới cây Phân-đồ-lợi[55]. Phật Tùy-diệp đắc đạo thành Phật dưới cây Tát-la[56]. Phật Câu-lâu-tần đắc đạo thành Phật dưới cây Tư-lợi[57]. Phật Câu-na-hàm Mâu-ni đắc đạo thành Phật dưới cây Ô-tạm[58]. Phật Ca-diếp đắc đạo thành Phật dưới cây Ni-câu-loại[59]. Nay, Ta thành Phật Thích-ca Văn-ni dưới cây A-bái-đa[60]. Thị giả Phật Duy-vệ tên A-luân[61]. Thị giả Phật Thí tên Sai-ma-yết[62]. Thị giả Phật Tùy-diệp tên Phục-chi-diệp[63]. Thị giả Phật Câu-lâu-tần tên Phù-đề[64]. Thị giả Phật Câu-na-hàm Mâu-ni tên Tát-chất[65]. Thị giả Phật Ca-diếp tên Tát-ba-mật[66]. Ta, Phật Thích-ca Văn-ni, thị giả tên A-nan [67].[68]
"Phật Duy-vệ có đệ tử đệ nhất tên Tắc, đệ nhị tên Chất-hàm[69]. Phật Thức có đệ tử đệ nhất tên A-tỷ-vụ, đệ nhị tên Tam-tham[70]. Phật Tùy-diệp có đệ tử đệ nhất tên Phật-đề, đệ nhị tên Uất-đa[71]. Phật Câu-lâu-tần có đệ tử đệ nhất tên Tăng-kỳ, đệ nhị tên Duy-lưu[72]. Phật Câu-na-hàm Mâu-ni có đệ tử đệ nhất tên Chuyển Luân, đệ nhị tên Uất-đa[73]. Phật Ca-diếp có đệ tử đệ nhất tên Chất-da-luân, đệ nhị tên Ba-đạt-hòa[74]. Nay đệ tử đệ nhất của Ta, Phật Thích-ca Văn-ni là Xá-lợi-phất-la, đệ nhị tên Ma-ha Mục-kiền-liên[75].
"Phật Duy-vệ thuyết ba hội kinh cho các Tỳ-kheo. Hội thuyết kinh thứ nhất có mười vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán. Hội thuyết kinh thứ hai có chín vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán. Hội thuyết kinh thứ ba có tám vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.
"Phật Thức cũng có ba hội thuyết kinh. Hội thuyết Kinh thứ nhất có chín vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán. Hội thuyết kinh thứ hai có tám vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán. Hội thuyết kinh thứ ba có bảy vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.
"Phật Tùy-diệp có hai hội thuyết kinh. Hội thuyết kinh thứ nhất có bảy vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán. Hội thuyết kinh thứ hai có sáu vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.
"Phật Câu-lâu-tần thuyết pháp một hội, có bốn vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.
"Phật Câu-na-hàm Mâu-ni thuyết pháp một hội, có ba vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.
"Phật Ca-diếp thuyết pháp một hội, có hai vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.
"Ta, Phật Thích-ca Văn-ni thuyết pháp một hội, có một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo đều đắc quả A-la-hán."
Phật bảo các Tỳ-kheo:
"Không thể đo lường và xưng tán hết trí của Phật. Các Thầy nên thọ trì về sự xuất hiện, cha mẹ, Quốc vương, sự giáo hóa của bảy đức Phật."
Phật lại dạy các Tỳ-kheo:
"Kinh luật không thể không học. Đạo pháp không thể không hành trì. Đức Phật như người lái chiếc thuyền trong biển lớn, cả ngàn vạn người đều nương nhờ vào người lái để đi qua biển. Đức Phật dạy mọi người hành pháp thiện, đắc đạo quả và hóa độ thế gian cũng như vậy."
Các Tỳ-kheo nghe kinh này vui mừng, làm lễ rồi lui ra.
CHÚ THÍCH
[1]. Bản hán: Thất Phật phụ mẫu tánh tự kinh, Vô danh dịch, thời Tiền Ngụy. Đại I, No. 4 , tr. 159a-160a. Tham chiếu: Phật thuyết Trường A-hàm kinh, Hậu Tần Hoằng thỉ niên, Phật-đà-da-xá cọng Trúc Phật Niệm dịch, 'Đệ nhất phần sơ đại bản kinh đệ nhất.' Đại I, No. 1(1) tr. 1a- 10c.
[2]. Nguyên Hán: Văn như thị 聞 如 是.
[3]. Vô Diên Mẫu 無 延 母, phiên âm của Mṛgāramātṛ (Pāli: Migāramātu), dịch Lộc Tử Mẫu 廘 子 母, tức bà Tỳ-xá khư (Pāli: Visākā).
[4]. Ngũ bách Tỳ kheo, 五 百 比 丘 (năm trăm Tỳ kheo); No. 1(1): Tỳ-kheo chúng thiên ngũ bách nhị thập nhơn, 大 比 丘 眾 千 二 百 五 十人 (chúng đại Tỳ-kheo một nghìn hai trăm năm mươi người).
[5]. Hán: phạn dĩ, 飯 已, (sau khi thọ trai); No. 1(1): Ư khất thực hậu, 於 乞 食 後, (sau khi khất thực).
[6]. Hán: ư bình xứ, 於 屏 處 (ở chỗ khuất ); No. 1(1): ở Hoa lâm đường 花 林 堂 .
[7]. Duy-vệ, 維 衛; No. 1(1): Tỳ-Bà-Thi, 毗 婆 尸.
[8]. Thức, 式; No. 1(1): Thi-khí, 尸 棄.
[9]. Tùy-diệp, 隨 葉; No. 1(1): Tùy-xá-bà, 毗 舍 婆.
[10]. Phi-địa-la kiếp, 披 地 羅 劫; No. 1(1): Hiền kiếp,賢 劫.
[11]. Câu-lâu-tần, 拘 樓 秦; No. 1(1): Câu-lâu-tôn 拘 樓 孫.
[12]. Câu-na-hàm-Mâu-ni 拘 那 含 牟 尼.
[13]. Ca-diếp, 迦 葉.
[14]. Câu-lân 拘 鄰; No. 1(1): Câu-lị-nhã, 拘 利 若.
[15]. Cù-đàm, 瞿 曇; Pāli: Gotama.
[16]. Bàn-biểu, 槃 裱; No. 1(1): Bàn-đầu, 槃 頭.
[17]. Bàn-đầu-mạt-đàø 槃 頭 末 陀; No. 1(1), Bàn-đầu-bà-đề; 槃 頭 婆 提.
[18]. Sát-mạt-đề, 殺 末 提; No. 1(1): Bàn-đầu-bà-đề, 槃 頭 婆 提.
[19]. A-luân-noa, 阿 輪 拏; No. 1(1), Minh Tướng, 明 相.
[20]. Ba-la-ha-việt-đề 波 羅 呵 越 提; No. 1(1), Quang Diệu,光 妙.
[21]. A-lâu-na-hòa-đề 阿 樓 那 惒 提; No. 1(1), Quang Tướng 光 相.
[22]. Tu-ba-la-đề-hòa, 須 波 羅 提 惒; No. 1(1)d, Thiện Đăng, 善 燈.
[23]. Da-xá-việt-đề, 耶 舍 越 提; No. 1(1) , Xứng Giới, 稱 戒.
[24]. A-nâu-ưu-ma, 阿(...)憂 摩; No. 1(1), Vô Dụ, 無 喻.
[25]. A-chi-vi-đâu, 阿 枝 違 兜; No. 1(1), Tự Đắc, 祀 得.
[26]. Tùy-xá-ca 隨 舍 迦; No. 1(1) , Thiện Chi, 善 枝ø.
[27]. Luân-ha-lợi-đề-na 輪 訶 唎 提 那; No. 1(1), An Hòa thành, 安 和 城.
[28]. Tu-ha-đề, 須 訶 提, No. 1(1), An Hòa, 安 和.
[29]. Da-thiểm-bát-đa 耶 睒 鉢 多; No. 1(1)d, Đại Đức, 大 德.
[30]. Uất-đa-la, 鬱 多 羅; No. 1(1), Thiện Thắng 善 勝.
[31]. Sai-ma-việt-đề, 差 摩 越 提 (có lẽ Skt. Kṣemavatī; Pāli: Khemavātī); No. 1(1): Thanh Tịnh thành, 清 淨 城.
[32]. Sai-ma 差 摩 (có lẽ Skt. Kwema; Pali: Khema ); No. 1(1), Thanh Tịnh, 清 淨.
[33]. A-chi-đạt-da, 阿 枝 達 耶; No. 1(1), Phạm Đức, 梵 德.
[34]. Đàn-na-việt-đề-da, 檀 那 越 提 耶; No. 1(1): Tài Chủ, 財 主.
[35]. Ba-la-tư, 波 羅 私; No. 1(1), Ba-la-nại, 波 羅 奈 城.
[36]. Kỳ-thậm-đọa, 其 甚 墮; No. 1(1), Cấp-tỳ, 汲 毗.
[37]. Duyệt-đầu-đàn, 閱 頭 檀, No. 1(1), Tịnh Phạn, 淨 飯.
[38]. Ma-ha Ma-da, 摩 訶 摩 耶; No. 1(1), Đại Thanh Tịnh Diệu, 大 清 淨 妙.
[39]. Ca-duy-la-vệ, 迦 維 羅 衛; No. 1(1), Ca-tì-la-vệ, 迦 毗 羅 衛.
[40]. Bàn-đề 槃 提 , không rõ.
[41]. No. 4, tuổi thọ của Phật; nhưng No. 1(1), tuổi thọ loài người đương thời.
[42]. Xem cht.41.
[43]. No. 1(1), người thời bấy giờ thọ bảy vạn tuổi.
[44]. Xem cht. 41.
[45]. Xem cht. 41.
[46]. Xem cht. 41.
[47]. Tu-viết-đa-kiện-đa, 須 曰 多 鞬 陀; No. 1(1), Phương Ưng, 方 膺.
[48]. A-đâu-la, 阿 兜 羅; No. 1(1) sđd.: Vô Lượng, 無 量.
[49]. Tu-ba-la-viết, 須 波 羅曰; No. 1(1) sđd.: Diệu Giác, 妙 覺.
[50]. Uất-đa-la, 鬱 多 羅; No. 1(1) sđd.: Thượng Thắng, 上 勝.
[51]. Đọa-di-đà-tiên-na, 墮 夷 陀 先 那; No. 1(1) sđd.: Đạo Sư, 道 師.
[52]. Sa-đa-hòa, 沙 多 和; No. 1(1) sđd.: Tập Quân, 集 軍.
[53]. La-vân, 羅 云; No. 1(1) sđd.: La-Hầu-La, 羅 候 羅.
[54]. Ba-đà-la, 波 陀 羅; No. 1(1) sđd.: Ba-ba-la, 波 波 羅.
[55]. Phân-đồ-lị, 分 塗 利; No. 1(1) sđd.: Phân-đà-lị, 分 陀 利.
[56]. Tát-la, 薩 羅; No. 1(1) sđd.: Bà-la, 婆 羅.
[57]. Tư-lợi, 斯 利; No. 1(1) sđd.: Thi-lị-sa, 尸利 沙.
[58]. Ô-tạm, 烏 暫; No. 1(1) sđd.: Ô-tạm-bà-la, 烏 暫 婆 羅.
[59]. Ni-câu-loại, 尼 拘 纇; No. 1(1) sđd.: Ni-câu-luật, 尼 拘 律.
[60]. A-bái-đa, 阿 沛多; No. 1(1) sđd.: Bát-đa, 鉢 多.
[61]. A-luân, 阿 輪; No. 1(1), sđd.: Vô Ưu, 無 優.
[62]. Sai-ma-yết, 差 摩 竭; No. 1(1) sđd.: Nhẫn-Hành, 忍 行.
[63]. Phục-chi-diệp, 復 枝 葉; No. 1(1) sđd.: Tịch Diệt, 寂 滅.
[64]. Phù-đề, 浮 提; No. 1(1) sđd.: Thiện Giác, 善 覺.
[65]. Tát-chất, 薩 質; No. 1(1) sđd.: An Hòa, 安 和.
[66]. Tát-ba-mật, 薩 波 蜜; No. 1(1) sđd.: Thiện Hữu, 善 友.
[67]. A-nan, 阿 難; No. 1(1) sđd.: A-nan, 阿 難.
[68]. No. 4, đoạn văn này (từ Thị giả đến A-nan) đề cập đến những người hầu cận của các đức Phật. Nhưng theo bản No. 1(1) lại đề cập đến con của các đức Phật. Ở đây, nếu đem đối chiếu hai đoạn của chủ đề này, thì chúng ta thấy có những điểm đồng dị như trên.
[69]. Tắc và Chất-hàm, 塞, và 質 含; No. 1(1) sđd.: Khiên-trà và Đề-xá, 騫 茶, và 提 舍.
[70]. A-tỷ-vụ và Tam-tham, 阿 比 務 và 三 參; No. 1(1) sđd.: A-tỳ-phù và Tam-bà-bà, 阿 毗 浮 và 三 婆 婆.
[71]. Phật-đề và Uất-đa, 佛 提 và 鬱 多; No. 1(1) sđd.: Phò-du và Uất-đa-ma, 扶 遊 và 鬱 多 摩.
[72]. Tăng-kỳ và Duy-lưu, 僧 耆 và 維 留; No. 1(1) sđd.: Tát-ni và Tì-lâu, 薩 尼 và 毗 樓.
[73]. Chuyển Luân và Uất-đa, 轉 輪 và 鬱 多; No. 1(1) sđd.: Thư-bàn-na và Uất-đa-lâu, 舒 盤 那 và 鬱 多 樓.
[74]. Chất-da-luân Ba-đạt-hòa, 質 耶 輪 và 波 達 和; No. 1(1) sđd.: Đề-xá và Bà-la-bà, 提 舍 và 婆 羅 婆.
[75]. Xá-lợi-phất-la và Ma-ha Mục-kiền-liên, 舍 利 弗 羅 và 摩 訶 目 乾 連; No. 1(1) sđd.: Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, 舍 利 弗 và 目 乾 連 .