Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tỉnh giấc, nhìn tương lai

22/05/201313:54(Xem: 8691)
Tỉnh giấc, nhìn tương lai
Con Đường Mây Trắng


Tỉnh Giấc, Nhìn Tương Lai

Nguyễn Tường Bách
Nguồn: Anagarika Govinda. Nguyễn Tường Bách dịch


Sáng hôm sau tôi dậy trong ánh mặt trời rực rỡ. Tối hôm trước tôi đã thu xếp hành lý để có thể lên đường ngay. Trong ánh dương hôm nay hầu như mọi sự đã biến đổi. Tôi định gặp và cám ơn vị lạt ma già đã cho tôi lưu trú và xin chào ông, nhưng xung quanh không có một bóng người. Tôi định đợi một lúc và dùng thì giờ để vẽ một bức tranh của sân và các tòa nhà trong tu viện. Thế nhưng vẽ xong rồi vẫn chưa thấy ai. Hầu như tu viện nằm trong ảo thuật là không hề thay đổi gì qua ngàn năm, mọi cái sống đều ngưng bặt, còn thiên nhiên xung quanh lại theo con đường đi của mình, nó để cho đá mọc ra những hình thù kỳ dị, xuyên thủng qua những gì con người đã gầy dựng.

Phải chăng tôi đang ở một nơi kỳ bí, nơi mà quá khứ đã chìm sâu thỉnh thoảng lại vươn lên, nơi mà kẻ du hành cô đơn nghe thấy những điều, mà điều đó lại biến mất như một ảo giác? "Dù sao?, tôi nghĩ, "tu viện" vẫn còn đó và nếu nó đột nhiên biến mất, ta vẫn còn bản vẽ đây".

Chầm chậm đi xuống theo lối hẹp giữa đá và vách, tôi ngẫm lại những gì mình đã nghe thấy nơi đây. Người nài ngựa đã tới để đỡ hành lý, nhìn khuôn mặt suy tư của tôi và nói: "Vị Kuscho Rimtposché không vui lòng với chỗ ngủ à?"

"Có chứ" tôi nói, "không có chỗ nào hơn chỗ này".

"Đâu có gì lạ", anh nói, "nếu được ở trong phòng đã được ban phép".

"Anh nói gì thế?" tôi hỏi và nghĩ mình nghe sai".

"Ông không nhớ sao, Kuschog, vị lạt ma dẫn ông vào phòng đã nói phòng nầy chưa có ai ở?".

"Nhớ chứ, tất nhiên rồi".

"Xin nói ông biết. Lúc ông ở trong đền thì các vị lạt ma bàn với nhau có nên để ông ở trong đó không, trong phòng đã được cúng hiến cho Tschamba, cho Phật Di Lặc".

Đột nhiên tôi có ýnghĩ kỳ lạ.

"Sao họ lại có ý nghĩ vị Phật Di Lặc mà phải xây cả một căn phòng riêng", tôi hỏi.

"Ông không biết là cả Tây Tạng, nhiều bảo tháp được xây dựng để thờ vị Phật tương lai nhờ uy lực của một vị đại uy lực của một vị đại lạt ma miền nam sao?"

"Anh biết tên vị lạt ma đó không?" tôi hỏi, cố giấu sự hồi hộp.

"Tôi không biết tên Ngài nhưng mọi người gọi là Tomo Géché".

"Đó là thầy tôi mà", tôi kêu lên "Tôi chưa nói với anh về Ngài hay sao?" – Và tôi sực nhớ anh có lần đã hỏi ai là "Tsawai-Lama" của mình, tôi trả lời mà không coi trọng lắm câu hỏi quá thường này tại Tây Tạng, "thầy tôi sống cách đây ngàn dặm, chắc anh không biết tên Ngài đâu".

Thế nhưng bây giờ thì cảnh tượng đêm hôm qua đã có một ý nghĩa mới – và đột nhiên vấn đề rõ ra với tôi: đó chính là lần quán đỉnh thứ hai của mình.

Liệu đó là ảnh hưởng trực tiếp của thầy tôi (như trường hợp tại Tschorten Nyima hay các lần tương tự mà về sau tôi mới biết) hay là kết quả của chủng tử được thầy gieo đã chín trong tôi, tôi không chắc nhưng điều chắc chắn là những gì tôi trông thấy không phải là sự ngẫu nhiên.

Hơn bao giờ hết, tôi thấy mình gần đạo sư và tự thấy nội tâm mình được nâng lên, đến nỗi nhờ sự cố gắng leo lên đỉnh đèo nọ lần nỗi lo sợ ngày hôm qua mà bây giờ nó trở thành chuyện tầm thường. Tâm tư tôi trôi chảy triền miên và hầu như có một lời nội tâm ngỏ với tôi, dần dần hé cho thấy những giải pháp của nhiều vấn đề đã từng làm tôi phân vân.

Giờ tôi đã hiểu điều mà tôi chỉ thấy lờ mờ trong thời gian tại Yigah Tscholing là những hình tượng xung quanh tôi hồi đó không phải chỉ là những tác phẩm trang trí nghệ thuật. Đó là sự trình bày của một thực tại cao hơn, sinh ra từ sự quán sát nội tâm. Ngôn ngữ của những hình ảnh này chính xác như một tấm bản đồ hay một công thức khoa học, đồng thời tác động của nó lại tự nhiên và trực tiếp như vẻ đẹp của một cánh hoa hay cảnh mặt trời lặn.

Phải chăng ngôn ngữ của hình ảnh này, chính nó mở cánh cửa vào chốn ẩn mật của tâm thức và những năng lực tiềm ẩn của con người, là thứ ngôn ngữ mà ai cũng hiểu được, cho tất cả những ai thành tâm gõ lên cánh cửa sâu kín nhất, miễn là họ được chút hướng dẫn?

Phải chăng vì vị chân sư đã mở mắt cho tôi thấy sự huyền bí này mà tôi không nên cho người khác hay biết những gì mình đã cảm nhận?

Thật thế, bây giờ tôi thấy rõ thông điệp mà qua những linh ảnh đạo sư nhắn nhủ mình. Và cũng từ mong ước được trao truyền những gì mình đã chứng nghiệm cho người khác, một ý niệm chín dần trong tôi, theo gương vị lạt ma nọ trong quá khứ, để lại cho đời một cách trung thực bằng màu sắc và khôn tượng, bằng chữ nghĩa và hình vẽ, như chúng đã được giữ lại trong tu viện và nguyện đường của Tây Tạng.

Cũng từ chuyến đi này mà tôi đem về được những nét vẽ đơn giả khắc họa trên đá của Tám mươi bốn vị Tất địa(15) của thời Trung cổ Phật giáo. Những bức tranh này về sau được giữ ở bảo tàng viện của Allahabad trong một gian phòng đặc biệt.

Và như được một bàn tay vô hình hướng dẫn để đạt thành tựu ước mong đó, trong chuyến du hành, tôi gặp được một ngôi đền do vị Rintschen-Sangpo ngày xưa gây dựng nên; trong đó lần đầu tiên, tôi được thấy những bức bích họa vô song của thế kỷ thứ mười một.

Tôi xúc động được một bàn tay vô hình hướng dẫn để đạt thành tựu ước mong đó, trong chuyến du hành, tôi được gặp được một ngôi đền do vị Rintschen-Sangpo là một trong những nhà tiên phong lớn nhất của Phật giáo Tây Tạng: vừa là nhà học giả lớn, vừa là người sáng lập nhiều tu viện đền đài, vừa là ngệ nhân và thánh nhân. Một phần đáng kể của kinh sách Tây Tạng là do ông cùng với các học giả Ấn Độ dịch từ văn hệ Sanskrit ra, một công trình đã tôn ông lên hàng Lotsasa (nhà dịch thuật). Song song với việc truyền bá Pháp Phật bằng kinh sách, ông cho xây dựng đền đài, tu viện bảo tháp và trâng hoàng bằng những tác phẩm chọn lọc nhất về hình tượng và khắc họa mà về sau không có thòi kỳ nào vượt ngang được. Vùng hoạt động chủ yếu của ông là ở Tholing và Tsaparang. Thonling là tu viện quan trọng nhất và là trung tâm của đời sống tâm linh ở tây Tây Tạng. Ngược lại Tsaparang thì đã hoang tàn cả vìa trăm năm trước đây.

Những điều này kích thích sự quan tâm của tôi vì với một thời tiết như ở Tây Tạng, tôi nghĩ có thể tìm lại được một phần quan trọng của nghệ thuật cổ xưa bị chôn vùi, và chính sự hẻo lánh và cô độc của vùng này làm tôi tin có thể nghiên cứu và hơn thế nữa. Có khả năng giữ lại cho hậu thế vài nét hoằng kim của quá khứ. Thế nên trong tôi nẩy sinh ý định đi Tsaparang, mặc dù phải nhiều năm sau tôi mới thực hiện được ước mơ này.




CHÚ THÍCH
[1] Padmasambhava, đại sư Ấn Độ, sống khoảng thế kỷ thứ 8 sau Công nguyên. Sư là người đưa Phật giáo vào Tây Tạng và sáng lập tông phái Nyigmapa. Sư thường sử dụng thần thông, nhiếp phục ma quái, được xem là vị Phật thứ hai sau Thích-Ca Mâu-Ni (ND).
[2] Suragama Sutra
[3] Bài thơ trích từ Madala, Meditations gedichte und Betrachtungen của Lama Anagarika Govinda. Những dòng thơ này sinh ra từ một buổi thiền định, được viết lúc tác giả chưa biết đoạn kinh Lăng Nghiêm ở trên (TG)
[4] Điều này làm ta nhớ đến phép lạ Madonna Fatima xảy ra gần đây, được một số lớn người ghi nhận, trong đó có sự xuất hiện của ánh sáng kỳ diệu tương tự. (TG)
[5] Đây là một đoạn hay được ghi lại trong kinh sách của văn hệ Pali, đặc trưng của tinh thần hỉ lạc trong Phật giáo, từ chối mọi dạng ép buộc. (TG)
[6] Mantra
[7] Đó là điều dễ xảy ra vì các tờ không đóng lại thành tập và vì những trang theo nhau của một tờ được in hay viết ngược lại, nên qua mỗi trang, người ta phải quay ngược tờ giấy (TG)
[8] Một hiện tượng không lý giải được cũng như bản chất của điện, hầu như không phải chỉ là một hiện tượng vật lý mà đường như một năng lực sống động, đóng một vai trò quan trọng trong các thể hữu cơ và vận hành của trí nào (TG)
[9] Tiếng Hindu có nghĩa là đáng kính. Từ đây Guru được dịch là đạo sư (ND)
[10] Archetypische Lautelemente
[11] Khi rời tu viện đi nơi khác thường ông chỉ mang theo một số thật ít đồ dùng. Đối với ông, hang động cũng tốt như lâu đài, lâu đài cũng như hang động. Giàu sang và tiện nghi vô nghĩa đối với ông, thế nhưng nếu cần ông cũng không ngại sử dụng. Ông không bám giữ vào tiện nghi lẫn đời sống khổ hạnh vì biết rõ, danh hiệu của khổ hạnh cũng chướng ngại như danh hiệu của của cải. Khi nhận được tặng phẩm của nhiều người, thường ông tặng lại kẻ cần thiết hay dùng để sửa đền thờ, tu viện, thư viện… (TG)
[12] Bohicaryavatara, tác phẩm của Tịch Thiên (Santideva), người sống khoảng thế kỷ thứ 7, 8 sau Công nguyên. Tác phẩm này rất phổ biến trong Phật giáo Tây Tạng (ND)
[13] Satipatthana-Sutra
[14] Govida, Grundlagen tibetischer Mystik (Cơ sở đạo học Tây Tạng), Rascher Zurich 1966.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567