Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bản dịch Thiền uyển tập anh (2)

05/04/201313:39(Xem: 8136)
Bản dịch Thiền uyển tập anh (2)
Văn Học Phật Giáo Việt Nam - Tập 3

Bản Dịch Thiền Uyển Tập Anh (2)

Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
Nguồn: Tiến sĩ Lê Mạnh Thát


30. THIỀN SƯ TỊNH GIỚI (?-1207)

Chùa Quốc Thanh, núi Bí Linh (1), phủ Nghệ An [26] (1) Người Mão Hương, Ngung Giang, Lô Hải (3), họ Chu, tên Hải Ngung.

Xuất thân trong gia đình hàn vi, nhưng tính tình thuần hậu. Lúc nhỏ theo học chữ Nho. Đến năm 26 tuổi Sư mang bệnh, mộng thấy thiên thần cho thuốc, tỉnh giấc bệnh lành ngay. Sư bèn quyết chí xuất gia, đến ở với (33b1) một vị kỳ túc trong làng, dần thọ được giới Cụ túc, chuyên thực hành giới luật. Nghe nói Lãng Sơn (4) thanh vắng, có thể ở được, Sư xách gậy đi về phương Đông. Trải 7 năm tham học, Sư gặp Bảo Giác chùa Viên Minh (5) qua một câu nói, Sư liền khai ngộ. Tháng 10 năm Quý Tỵ Chánh Long Bảo Ứng (1173), lúc Bảo Giác sắp tịch, gọi Sư đến dạy:

“Sanh, già, bệnh, chết, đời thường là thế, há ta riêng khỏi?”

Sư hỏi: “Hôm nay Tôn đức thế nào?”

Bảo Giác gật đầu mỉm cười, nói bài kệ rằng:

Muôn pháp về không chẳng chỗ vin
Chân như vắng lặng trước mắt duyên,
Lòng viên ngộ được không cần chỉ
Nước lặng trăng lòng dứt mọi xen(6)

Nói kệ xong, Bảo Giác truyền Pháp cụ cho Sư. Từ đó, Sư tùy phương giáo hóa, dần dần đến chùa Quốc Thanh, dừng lại ở đó cấm túc 6 năm, tu hạnh đầu đà, nên hàng long phục hổ, cảm hóa như thần. Châu mục Phạm Từ nghe Sư danh đức, càng thêm lễ chuộng, xin Sư cho đúc một quả hồng chung để trấn cửa núi.

Mùa hè năm Trinh Phù thứ 2 (1177), gặp hạn, vua ban chiếu cho danh tăng khắp thiên hạ cầu mưa, nhưng không ứng nghiệm. Vua Lý Cao Tông, lâu nghe danh Sư, sai sứ đón về (34a1) chùa Báo Thiên (7) ở kinh đô. Nửa đêm, Sư đứng giữa sân đốt hương, trời bèn mưa xuống. Vua rất khen sủng, thường gọi là Thầy mưa (8). Nhân đó triệu vào tiện điện, hỏi các pháp yếu, ban thưởng rất hậu. Năm Trinh Phù thứ 4 (1174), chùa Chân Giáo, núi Vạn Bảo làm thành (9), vua cho mời các bậc kỳ túc, đến làm lễ khánh tán. Sư vâng chiếu vào triều, ngụ tại gác Lâm Tiêu. Bây giờ trời bắt đầu mưa ròng rã, đường sá lầy lội, phương hại đến việc lễ hội, Sư khấn, liền tạnh. Hội xong 7 ngày thì trời lại mưa như xưa. Sau Sư trở về làng cũ trùng tu chùa Quảng Thánh và quyên tiền đúc chuông. Trong khi đốt lò thì mây kéo đến muốn mưa, Sư đứng giữa sân, dộng gậy trừng mắt giây lát, trời lại quang tạnh. Sau này, trải bao binh lửa, nhưng chuông Sư đúc đến nay vẫn còn. Rồi Sư trở về chùa cũ (34b1) dạy dỗ học trò.

Có vị Tăng hỏi Sư về Phật lý, Sư đáp: “Chính ta và ngươi”.

Lại thường nói: “Tâm là tính nên nói Như Lai tạng, tâm tức tính nên tự tính tâm là thanh tịnh”.

Ngày mồng 7 tháng 7 năm Trịnh Bình Long Ứng thứ 3 (1207), lúc sắp thị tịch, Sư nói kệ sau:

Thời nay giảng đạo hiếm tri âm
Chỉ bởi như kia đạo táng tâm
Sao giống Tử Kỳ đa sầu cảm
Nghe qua thấu rõ Bá Nha cầm

Lại nói:
Ngực áo thu về khí lạnh xâm
Tài ngang tám đấu đối trăng ngâm
Cười bấy khách thiền ai dại dột
Sao đem lời lẽ để truyền tâm(10)

Nói xong, Sư ngồi kiết già mà mất [27].


31. THIỀN SƯ GIÁC HẢI

Chùa Diên Phúc, Hải Thanh, người Hải Thanh, họ Nguyễn (1). Nhỏ thích đánh cá đi câu, thường dùng một chiếc thuyền con làm nhà, sống lênh đênh khắp sông biển. Năm 25 tuổi, Sư bỏ nghề, xuống tóc làm Tăng.

Ban đầu, Sư và Không Lộ cùng thờ Hà Trạch. Sau Sư lại kế thừa dòng pháp của Không Lộ.

Đời vua Lý Nhân Tông, Sư thường cùng Thông Huyền chân nhân, bị triệu vào nhà hóng mát Liên (35a1) manh hầu hạ, bỗng có tiếng tắc kè kêu nhau chối tai, đáng ghét. Vua khiến Huyền làm cho nó đừng kêu. Huyền bèn lâm râm niệm chú, làm rơi trước một con. Huyền cười Sư, Sư bảo: “Đang còn một con, để đó cho Sa môn”. Sư chú mục nhìn, trong giây lát, nó cũng rơi theo. Vua lấy làm lạ, làm một bài thơ khen:

Giác Hải tâm như biển
Thông Huyền đạo lại huyền
Thần thông cùng biến hóa
Một Phật, một thần tiên (2)

Từ đó, tiếng tăm Sư vang khắp thiên hạ, Tăng tục ngưỡng chuộng. Vua thường đối đãi Sư như bậc thầy. Mỗi lần ra chơi hành cung Hải Thanh, vua tất đến chùa Sư trước.

Một hôm, vua hỏi Sư: “Phép ứng chân thần túc, có thể được nghe chăng?”

Sư bèn làm tám phép thần biến rồi vung thân lên hư không, cách đất vài trượng chợt lại hạ xuống. Vua và các quan đều vỗ tay khen ngợi. Do đó, vua ban cho Sư một kiệu vai, để ra vào cửa khuyết.

Đến đời Thần Tông, nhiều lần triệu vào, nhưng Sư từ chối, viện cớ già bệnh mà không tới.

Có vị Tăng hỏi: “Phật và chúng sanh ai khách, ai chủ?”.

Sư dùng bài kệ đáp:
Gái tơ chỏm tóc trắng (3)
Báo ngươi tác giả biết
(35b1) Nếu hỏi cảnh giới Phật
Long môn gặp điểm trán (4)
Lúc sắp tịch, Sư gọi chúng đến dạy kệ.
Xuân đến bướm hoa khéo biết thì,
Cần nhau hoa bướm biết nhau khi
Bướm hoa vốn thảy đều hư huyễn
Chớ đem hoa bướm giữ lòng chi

Đêm ấy có ngôi sao lớn rớt ngay góc Đông nam phương trượng của Sư. Nói xong, Sư ngồi ngay ngắn mà mất (5). Vua xuống chiếu cho thuế 30 hộ để cúng hương hỏa và cho hai người con của Sư làm quan để tỏ lòng khen thưởng.(6)


32. THIỀN SƯ NGUYỆN HỌC (1) (?-1181)

Chùa Quảng Báo, làng Chân Hộ, Như Nguyệt (2). Người Phù Cầm (3), họ Nguyễn. Thuở nhỏ Sư thọ pháp với Viên Trí chùa Mật Nghiêm (4). Khi được yếu chỉ, trước tiên Sư đến ẩn ở núi Vệ Linh (5) chuyên tu phạm hạnh trải 12 năm. Mỗi khi nhập thiền quán đến 3 ngày mới dậy. Sư thường trì Hương hải đại bi đà la ni, nên việc cầu mưa, trị bệnh, không gì là không hiệu nghiệm tức khắc.

Vua Lý Anh Tông, thấy các điều thần hiệu của Sư, ban chiếu cho vào ra cung cấm, để dùng chú trị bệnh.

Sau Sư cáo lão về trụ trì chùa Quảng Báo. Môn đồ không dưới 100 người (36a1). Đến ngày 11 tháng 6 năm Thiên Cảm Chí Bảo thứ 2 (1175) (6), lúc sắp thị tịch Sư gọi chúng đến dạy:

Đạo không hình tượng
Trước mắt chẳng xa,
Xoay lại tìm kiếm,
Chớ cầu người ta
Dẫu cho cầu được (7)
Được chẳng thật đâu,
Ví có được thật
Thật đó vật nào?
Vì thế chư Phật ba đời
Lịch đại sư tổ
Ấn thọ tâm truyền
Cũng nói thế cả.

Hãy nghe ta nói kệ:
Rõ hiểu thân, tâm mắt tuệ khơi
Linh thông biến hóa, hiện thật tướng
Ngồi, nằm, đi, đứng riêng siêu nhiên
Ứng hiện hóa thân chẳng thể lượng.
Hư không đầy dẫy tuy lấp khắp,
Xem qua chẳng thấy như có bóng
Thế gian không vật hay kịp sánh
Mãi hiện ánh thiêng sáng rạch ròi
Thời thường dạy dỗ bất tư nghị
Không được một câu đáng làm lời(8)

Nói kệ xong, Sư ngồi kiết già mà mất. [28]


THẾ HỆ THỨ MƯỜI MỘT (GỒM CHÍN NGƯỜI, TÁM NGƯỜI KHUYẾT LỤC)

33. THIỀN SƯ QUẢNG NGHIÊM (1122-1190)

Chùa Tịnh Quả, Trung Thụy, Trương Canh (1). Người Đan Phụng, họ Nguyễn (36b1). Sớm mất cha mẹ, Sư theo người cậu là Bảo Nhạc thọ nghiệp, đấy là bước đầu phát tâm. Nghe Trí Thiền (2) giáo hóa ở chùa Phúc Thánh tại Điển Lãnh, Sư liền đến đó tham vấn.

Một hôm, nghe Thiền giảng Tuyết đậu ngữ lục (3) đến chuyện hai vị tôn túc Đạo Ngô và Tiệm Nguyên, tới nhà người chết hỏi việc sống chết (4), Sư như có điều tỏ ngộ, liền hỏi:

“Một câu thoại đầu ấy, cổ nhân nói, nhân trong sống, chết còn có lý không?”.

Thiền đáp: “Người thể nhận được lý đó chăng?”.

Sư thưa: “Thế nào là lý không sinh tử?”.

Thiền đáp: “Chỉ ở trong sinh tử, mới khéo hiểu được nó”.

Sư thưa: “Thế đã là vô sinh rồi”.

Thiền bảo: “Tức cũng tự mình hiểu lấy”.

Nghe xong, Sư hoàn toàn được giải đáp, bèn hỏi: “Làm cách nào để quyết chắc?”.

Thiền đáp: “Rõ rồi cũng giống như chưa rõ”.

Sư sụp lạy. Từ đấy, tiếng tăm Sư vang khắp thiền lâm.

Lúc đầu, Sư đến chùa Khánh Ân tại tại Siêu Loại trác tích. Binh bộ Thượng thư Bằng Giáng Tường nghe danh kính mộ, thỉnh Sư về trụ trì chùa Tịnh Quả. Sư nêu cao tôn chỉ, thiền (37a1) lữ đến học đều không đến suông (5).

Một hôm có đệ tử nhập thất là Thường Chiếu, nêu kinh Kim cang ra hỏi:

“Pháp mà Như Lai đạt được, pháp đó không thật, không hư, vậy nó là pháp gì?”.

Sư đáp: “Người đừng có chê khéo đức Như Lai”.

Chiếu đáp: “Hòa thượng đừng có chê khéo lời kinh”.

Sư hỏi: “Kinh đó do ai nói?”.

Chiếu đáp: “Hòa thượng đừng có đùa lâu với con, há chẳng phải Phật nói sao?”.

Sư đáp: “Nếu là Phật nói, tại sao trong kinh lại bảo: Nếu nói Như Lai có chỗ thuyết pháp, tức là hủy báng Như Lai” (7).

Chiếu không nói được.

Có vị Tăng đến hỏi: “Pháp thân là gì?”

Sư đáp: “Pháp thân vốn không tướng”.

Lại hỏi: “Thế nào là Bát nhã?”.

Sư đáp: “Bát-nhã không hình”.

Hỏi: “Thế nào là cảnh Tịnh quả?”.

Sư đáp:“Cây thông, cây thu bên bãi tha ma xưa”.

Hỏi: “Thế nào là người trong cảnh?”.

Đáp: “Một mình ngồi bít miệng bình”.

Lại thưa: “Chợt gặp tri âm, làm sao tiếp đây?”.

Sư đáp: “Tùy duyên nhướng đôi mày”.

Lại thưa: “Làm sao mới là con cháu Kiến Sơ và dòng dõi Âu Công?” (8)

Sư đáp: “Người ngu nước Sở”.

Vị Tăng không đáp được.

Đến ngày rằm tháng 2 năm Canh Tuất Thiên Tư Gia Thụy thứ 5 (1190), lúc sắp tịch, Sư nói bài kệ sau:

Lìa tịch mới bàn câu tịch diệt
Được vô sinh sau nói vô sinh
Làm trai có chí xông trời ấy
Chớ hướng Như Lai hành xứ hành (9)

Nói kệ xong, Sư chấp tay ngay ngắn mà mất, thọ 69 tuổi. Bằng Công làm lễ hỏa táng, dựng tháp thờ.


THẾ HỆ THỨ MƯỜI HAI (CÓ BẢY NGƯỜI, SÁU NGƯỜI KHUYẾT LỤC)

34. THIỀN SƯ THƯỜNG CHIẾU (?-1203)

Chùa Lục Tổ, hương Dịch Bảng, phủ Thiên Đức (1). Người làng Phù Ninh (2), họ Phạm. Triều Lý Cao Tông, Sư làm quan Lệnh đô tào ở cung Quảng Từ (3). Sau từ quan, đi học pháp xuất thế với Quảng Nghiêm chùa Tịnh Quả, bèn chính thân được tâm ấn. Sư hầu thầy nhiều năm, rồi đến ở ngôi chùa xưa tại làng Ông Mạc (4) để giảng diễn giáo chỉ. Sau đó dời sang chùa Lục Tổ. Môn đồ Sư càng ngày càng đông. Có vị tăng hỏi: “Khi vật và ta duyên nhau thì làm thế nào?”.

Sư đáp:
Ta vật (38a1) đều quên,
Tâm tính vô thường
Dễ sinh dễ diệt
Giây phút không ngừng,
Ai kẻ vin bắt?
Sinh thì vật sinh
Diệt thì vật diệt
Pháp kia có được

Thường không sinh diệt

Vị Tăng thưa: “Người học chưa hiểu, xin thầy dạy lại”.

Sư bảo: “Rõ tâm mình mà tu đạo, thì ít sức mà dễ thành; không rõ tâm mà tu đạo, thì chỉ phí công vô ích mà thôi”.

Lại hỏi: “Pháp thân biến khắp mọi nơi là thế nào?”.

Sư đáp: “Như một lỗ chân lông, biến khắp cả pháp giới, tất cả lỗ chân lông thảy đều như thế. Nên biết không có một chút nào mà không có thân Phật. Vì cớ sao? Vì pháp thân ứng hóa thành Đẳng chánh giác, không chỗ nào không đến. Phải biết như vầy: Đức Như Lai dùng sức tự tại của tâm, không khởi, không chuyển mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp thường không khởi. Dùng ba thứ pháp nói đoạn nên không đoạn, mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp đều lìa biên kiến. Lìa cõi Dục và cõi Phi dục mà chuyển pháp luân, vì vào cõi hư không của tất cả các pháp (38b1). Không có ngôn thuyết mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả các pháp đều không thể nói. Rốt ráo tịch diệt mà chuyển pháp luân, vì biết rõ tất cả các pháp là tính niết bàn (5). Ấy gọi là không có tính tướng, không có tính tận, không có tính sinh, không có tính diệt, không có tính ngã, không có tính phi ngã, không có tính chúng sinh, không có tính phi chúng sinh, không có tính Bồ-tát, không có tính pháp giới, không có tính hư không cũng không có tính thành Đẳng chánh giác (6).

Bèn nói tiếp bài kệ:
Tại thế thân làm người
Tâm là tạng Như Lai
Chiếu ngời khắp mọi cõi
Vắng bóng lúc tìm tòi

Đến ngày 24 tháng 9 năm Thiên Gia Bảo Hựu thứ 2 (1203), Sư tỏ ra đau tim, nhóm chúng nói kệ rằng:

Đạo vốn không nhan sắc
Ngày ngày mới mới khoe
Ngoài đại thiên sa giới
Nơi đâu chẳng phải nhà

Nói kệ xong, Sư ngồi kiết già mà mất. Đệ tử Thần Nghi... làm lễ trà tỳ, thu thập xá lợi, dựng tháp phụng thờ. Sư thường soạn Nam tông tự pháp đồ 1 quyển (7), còn lưu hành ở đời.


(39a1) THẾ HỆ THỨ MƯỜI BA (CÓ NĂM NGƯỜI, BA NGƯỜI KHUYẾT LỤC)

35. CƯ SĨ THÔNG SƯ (1) (?-1228)

Ốc Hương, An La (2). Người Ốc Hương, họ Đặng. Ban đầu Sư cùng Quách Thần Nghi, chùa Thắng Quang, thờ Thường Chiếu chùa Lục Tổ làm thầy.

Một hôm, Sư vào thất, hỏi thỉnh ích (3) rằng: “Làm thế nào để hiểu rõ Phật pháp?”

Thường Chiếu đáp: “Phật pháp không thể hiểu được. Rõ được điều đó thì cần gì hiểu Phật pháp. Chư Phật như vậy tu hành. Tất cả các pháp vốn là bất khả đắc”.

Sư nhờ câu nói ấy mà lĩnh hội yếu chỉ.

Sau đó Sư trở về làng mình giảng pháp. Học giả theo học rất đông. Phàm có ai hỏi, Sư đều lấy tâm ấn mà ấn truyền.

Hoặc có kẻ hỏi: “Thế nào là người xuất thế?”

Sư đáp: “Há không thấy người xưa nói: Chỉ xem ngũ uẩn đều không, tứ đại vô ngã, chân tâm không tướng, không đi không lại, khi sinh tánh không đến, khi chết tánh không đi, tròn đầy vắng lặng, tâm cảnh như một. Chỉ cần trực nhận tức khắc như thế thì không còn bị ba đời ràng buộc. Đó là bậc xuất thế, dứt khoát không được có chút gì (39b1) nhắm tới nữa”.

Lại hỏi: “Nghĩa vô sinh là gì?”

Sư đáp:
Phân biệt các uẩn đây
Tính nó vốn vắng trơn
Trống không, nên không diệt
Đấy là nghĩa vô sinh
Lại hỏi: “Thế nào là lý vô sinh?”

Sư đáp:
Điều phục được các uẩn
Mới tỏ được tánh không
Tánh không, không thể diệt,
Đấy là lẽ vô sinh
Tăng hỏi: “Phật là?”.

Sư đáp: “Bản tâm là Phật, cho nên Đường Tam Tạng Huyền Trang (4) nói:

Chỉ rõ tâm địa
Nên gọi Tổng trì,
Hiểu pháp vô sinh
Tên gọi Diệu giác

Sau đó, vào tháng 7 năm Mậu Tý Kiến Trung thứ 4 (1228) của Hoàng triều (5), Sư viên tịch.


36. THIỀN SƯ THẦN NGHI (?-1216)

Chùa Thắng Quang, làng Thị Trung, Kim Bài (1). Người Ngoại Trại (2), họ Quách, con nhà đời đời phạm hạnh. Lúc mới xuống tóc, Sư thờ Thường Chiếu chùa Lục Tổ làm thầy. Đến khi Chiếu sắp tịch,

Sư hỏi: “Người ta tới giờ phút đây, làm sao lại chết theo lối thế tục?”.

Chiếu đáp: “Ngươi nhớ được mấy người, mà không chết theo lối thế tục?”.

Sư thưa: “Chỉ có Đạt Mạ (40a1), một người”.

Chiếu hỏi: “Ngài có cái gì lạ lùng đâu?”.

Sư thưa: “Một mình thong dong về Tây”.

Chiếu hỏi: “Thế Hùng Nhĩ là cái gì?” (3).

Sư thưa: “Là chỗ chôn quan tài của chiếc giày”.

Chiếu nói: “Gạt kiếm lời là Thần Nghi”.

Sư thưa: “Chớ bảo Tống Vân truyền nhảm, đến khi Trang Đế quật mồ thì sao?”(4)

Chiếu quát lớn: “Đó là chuyện chó sủa suông” (5)

Sư thưa: “Hòa thượng cũng theo thế tục sao?”.

Chiếu nói: “Theo thế tục”.

Sư thưa: “Vì sao như thế?”.

Chiếu nói “Để cho giống với mọi người”.

Sư hốt nhiên tỉnh ngộ, liền sụp lạy thưa: “Con đã hiểu lầm rồi”.

Chiếu liền hét.

Sư lại thưa: “Con hầu hòa thượng đã nhiều năm, mà không biết người truyền đạo này đầu tiên là ai, cúi xin chỉ dạy thứ lớp truyền pháp, khiến cho người học biết được nguồn gốc”.

Chiếu khen Sư có lòng tha thiết thành khẩn, bèn đem Chiếu đối bản (6) của Thông Biện ra và ghi lại những điều về tông phái, để làm đồ biểu phân tôn tự pháp, đưa cho Sư xem.

Sư xem xong, liền hỏi: “Sao không thấy nói đến hai phái Nguyễn Đại Điên và Nguyễn Bát Nhã?”.

(40b1) Chiếu nói: “Ắt Thông Biện có một ức ý nào đó”.

Ngày 18 tháng 2 năm Bính Tý Kiến Gia thứ 6 (1216), Sư đem Nam tông tự pháp đồ và Chiếu đối bản do Thường Chiếu trao (8) mà dặn lại đệ tử là Ẩn Không rằng:

“Ngày nay tuy loạn lạc, nhưng ngươi khéo giữ gìn chúng, cẩn thận chớ để cho binh hỏa thiêu hủy, thì Tổ phong ta mới không bị suy sụp vậy”.

Nói xong Sư vĩnh viễn ra đi. [29]


THẾ HỆ THỨ MƯỜI BỐN (GỒM NĂM NGƯỜI, BA NGƯỜI KHUYẾT LỤC)

37. THIỀN SƯ TỨC LỰ [30]

Chùa Thông Thánh, làng Chu Minh (1), phủ Thiên Đức, người làng Chu Minh. Lúc nhỏ thông minh, đọc khắp sách đời. Một hôm Sư bỏ sở học của mình đếỳn thờ cư sĩ Thông Thiền (2) làm thầy, học hỏi chỗ huyền yếu. Thường vào ngày giải hạ, Sư đặt bẫy bắt được một con chim Mãi quỷ (3) đem vào dâng thầy.

Thiền kinh ngạc hỏi: “Ngươi đã làm thầy tu, sao lại phạm sát? Quả báo ngày sau thời sao?”.

Sư thưa: “Chính khi ấy con chẳng thấy có con vật đó, cũng chẳng thấy có thân con và cũng chẳng biết có quả báo sát sinh, cho nên mới làm như thế”.

(41a1) Thiền biết Sư là pháp khí, bèn cho vào hàng nhập thất, mật truyền tâm ấn rằng: “Ông nếu dùng đến chỗ đất ấy, thì dù có tạo tội ngũ nghịch, thất già cũng được thành Phật”.(4)

Có vị Tăng bên cạnh trộm nghe lời này, bèn kêu to lên rằng: “Khổ thay! Dẫu có việc như thế tôi cũng không thể tin được!”.

Thiền lên tiếng quát: “Đồ giặc! Đồ giặc! Đâu để cho loài phi nhân (5) được sự tiện lợi của nó?”.

Sư nghe câu nói ấy liền giác ngộ. Sau Sư trở về chùa mình, nghiên giảng tôn chỉ Thiền để dạy học trò. cư sĩ Ấn Thuận là kẻ kế thừa Sư vậy.


38. THIỀN SƯ HIỆN QUANG (?-1221)

Núi Yên Tử (1), người Kinh Sư, họ Lê, tên Thuần. Là người có tiếng nói dịu dàng, dung mạo đẹp đẽ, mồ côi từ bé, trải nhiều gian khổ.

Năm vừa 11 tuổi, Thường Chiếu chùa Lục Tổ thấy đem về nuôi, cho làm đệ tử. Sư học vấn thông tuệ, mỗi ngày học hàng vạn chữ, không đầy 10 năm, gồm thông Tam học. Nhưng tông chỉ môn thiền sư chưa kịp suy cứu thì Thường Chiếu đã quy tịch. Về sau, cùng người biện luận (41b1) tâm yếu tất bị bắt bẻ, Sư thường tự trách mình rằng: “Ta đây ví như con nhà giàu, lúc cha mẹ còn sống, ăn chơi lêu lổng, đến khi cha mẹ chết thì mờ mịt ngu muội, không biết châu báu trong nhà nằm ở đâu, đến nỗi cuối cùng thành nghèo thiếu”(2).

Từ đó, Sư dạo khắp tòng lâm, tham học các hàng tri thức, gặp Trí Thông chùa Thánh Quả dạy cho một câu, Sư chợt rõ tâm địa mình, bèn ở lại đấy hầu hạ Thông. Sau vì nhân sự cúng dường của công chúa Hoa Dương (3) mà tiếng đời phỉ báng nổi lên như ong. Sư nghe được, nói: “Phàm được người thế tục ngưỡng mộ tất không tránh khỏi bị hủy nhục. Nay ta là như thế sao? Vả, con đường Bồ tát thì rộng lớn, còn pháp Phật thì vô lượng, kẻ sĩ giữ đạo trung dung còn nhiều khi phải buồn tẻ khóc thầm. (4) “Nếu như không dõng mãnh tự xét, dùng sự nhẫn nhục làm giáp trụ, lấy việc tinh tấn làm pháp giới, thì làm sao tránh được ma quân, phá được phiền não, cầu được giác ngộ vô thượng?”

Rồi Sư vào thẳng trong núi Uyên Trừng, phủ Nghệ An, theo thiền sư Pháp Giới thọ giới Cụ túc. Một hôm, Sư thấy thị giả dâng cơm, sẩy tay làm đổ xuống đất. Sợ quá, thị giả lấy tay hốt cơm lộn đất (42a1), Sư tự hối nói: “Ta sống vô ích cho người, chỉ nhọc cho họ cúng cấp để đến nỗi như thế kia”.

Từ đấy bèn mặc áo lá, thôi nhận lương, trải hơn 10 năm. Lúc sắp tìm chỗ riêng để an dưỡng tuổi già, Sư bèn vào sâu trong núi ấy, kết cỏ làm am mà ở. Mỗi khi xuống núi kinh hành, Sư tất dùng gậy quảy một đẫy vải (5). Đến ngồi nằm nơi nào, thú rừng trông thấy không con nào là không thuần phục.

Lý Huệ Tông khâm phục đời sống cao thượng của Sư, đã nhiều lần sắp lễ đi đón. Sư lánh mặt, sai thị giả bảo lại với sứ giả rằng: “Bần đạo sinh trên đất vua, ăn lộc vua, ở trong núi thờ Phật trải đã nhiều năm, mà công đức chưa thành, rất lấy làm thẹn. Nay nếu về thăm vua thì không những không có ích gì cho việc trị an, mà lại bị chúng sinh bài báng. Huống chi bây giờ Phật pháp đang thịnh hành, Sư trưởng trong Đạo đã nhóm cấm túc ở gác điện Vũ nghi (6) thì sao phải chiếu cố một ông thầy tu thô hèn gởi mình trong núi đến thế?” Từ đó, Sư quyết không xuống núi nữa.

Có vị Tăng hỏi: “Hòa thượng ở trong núi bấy lâu làm được những việc gì?” (42b1).

Sư đáp:
Dùng đức Hứa Do (7) ấy
Sao biết đời mấy xuân
Vô vi sống đồng rộng
Tự tại người thênh thang

Mùa xuân năm Tân Tỵ Kiến Gia thứ 11 (1221), khi sắp thị tịch, Sư ngồi trên một tảng đá nói kệ:

Pháp huyễn đều là huyễn,
Tu huyễn cũng là huyễn,
Chẳng là hai huyễn ấy,
Tức trừ được mọi huyễn

Nói xong, Sư an nhiên mà tịch. Môn đồ Đạo Viên sắm đủ lễ táng Sư trong hang núi. [31]


THẾ HÊ THỨ MƯỜI LĂM (CÓ BẢY NGƯỜI)
(Ở đây chỉ có 1 người)

39. CƯ SĨ ỨNG VƯƠNG (1)

Người phường Hoa Thị (2), kinh đô Thăng Long, họ Đỗ, tên Văn, tính tình giản dị, khoáng đạt, không bôn chôn theo việc đời. Ban đầu làm quan dưới triều Chiêu Lăng ta (3), chức đến Trung phẩm phụng ngự. Những khi rảnh việc quan, ông dốc chí học thiền, tay không rời sách, tìm hết ý Tổ, hiểu rõ tâm tông. Ở cửa trường của Tức Lự chùa Thông Thánh, ông thấu hết bí quyết của Lự. Do đó, Sư gió thiền không nghẽn, mắt đạo càng cao.

(43a1) Khi được truyền tâm ấn rồi, ông là người tai mắt của tòng lâm, như những vị Quốc sư Nhất Tông, thiền sư Tiêu Diêu (4), Giới Minh và Giới Viên ấy vậy.


(44a1) THIỀN UYỂN TẬP ANH NGỮ LỤC QUYỂN HẠ

40. THIỀN SƯ TỲ NI ĐA LƯU CHI (1) (?-594)

Chùa Pháp Vân, làng Cổ Châu, Long Biên (2). Người nước Nam Thiên Trúc (3), dòng Bà La Môn. Nhỏ đã mang chí xuất tục, đi khắp Tây Trúc, cầu tâm ấn Phật. Nhân duyên đạo chưa gặp, bèn cầm gậy sang Đông nam.

Triều Trần Đại Kiến thứ 6 (574), năm Giáp Ngọ (4), lúc mới đến Trường An, lúc Chu Võ Đế phá diệt Phật pháp (5), Sư muốn sang đất Nghiệp (6). Bấy giờ đệ Tam Tổ Tăng Xán vì tị nạn, nên mang y bát ở ẩn trong núi Tư Không (7). Sư đến gặp Tổ, thấy cử chỉ phi phàm, trong lòng phát niềm kính mộ, bèn đến trước, chấp tay đứng ba lần. Tổ vẫn ngồi yên không nói. Sư suy nghĩ giây lát, bỗng nhiên như có sở đắc, liền sụp lạy ba lạy. Tổ gật đầu ba cái mà thôi. Sư lùi ba bước, thưa rằng: “Đệ tử bấy lâu không gặp thuận tiện, nhờ hòa thượng đại từ bi, xin cho con theo hầu hạ hai bên”.

Tổ dạy: “Ngươi nên mau qua phương Nam (44b1) tiếp xúc, không nên ở đây lâu”.

Sư từ biệt ra đi, đến Quảng Châu trác tích chùa Chế Chỉ. Đại để 6 năm, dịch được các kinh Tượng đầu (8) và Báo nghiệp sai biệt (9). Đến tháng 3 năm Canh Tý đời Chu Đại Tường thứ 2 (580), Sư đến nước ta ở tại chùa đó, lại dịch ra kinh Tổng trì, 1 quyển (8).

Một hôm, Sư gọi đệ tử nhập thất là Pháp Hiền dạy rằng:

Tâm ấn chư Phật
Tất không lừa dối
Tròn đồng thái hư
Không thiếu không dư (10)
Không đi không đến
Không được không mất
Chẳng một chẳng khác
Chẳng thường chẳng đoạn
Vốn không chỗ sinh
Cũng không chỗ diệt
Cũng chẳng lìa xa
Chẳng không lìa xa
Vì đối vọng duyên.
Nên giả dặt tên
Bởi thế chư Phật ba đời
Cũng dùng như thế mà được
Tổ sư nhiều đời
Cũng dùng như thế mà được
Ta cũng dùng như thế mà được
Ngươi cũng dùng như thế mà được
Cho đến hữu tình, vô tình
Đều dùng như thế mà được
Vả, Tổ ta Xán công
Ấn chứng cho ta tâm đó
Bảo ta mau Nam hành giáo hóa
Không nên (45a1) ở lại đây lâu
Trải nhiều
Đến đây
Nay gặp phải ngươi
Quả hợp huyền ký
Ngươi khéo giữ gìn
Giờ đi ta đến.

Nói xong, Sư chấp tay mà mất. Pháp Hiền làm lễ trà tỳ, thu xá lợi 5 sắc, xây tháp để thờ. Khi ấy là năm Giáp Dần, đời Tùy Khai Hoàng thứ 14 (594).

Vua Lý Thái Tông có làm bài kệ truy tán:
Mở lối sang nước Nam
Nghe ông lâu tập Thiền
Mở bày niềm tin Phật
Xa hợp một nguồn tim
Trăng Lăng già vằng vặc
Sen Bát nhã ngát thơm
Lúc nào đến chẳng gặp
Cùng nhau bàn đạo huyền (14).
Và tặng phong.


DÒNG PHÁP CỦA TỲ NI ĐA LƯU CHI CHÙA PHÁP VÂN THẾ HỆ THỨ NHẤT (MỘT NGƯỜI)

41. THIỀN SƯ PHÁP HIỀN (?-626)

Chùa Chúng Thiện, núi Thiên Phúc (1), Tiên Du, người Châu Diên (2), họ Đỗ. Thân Cao 7 thước 3 tấc. Ban đầu, Sư đến thọ giới Cụ túc với đại sư Quán Duyên, chùa Pháp Vân. Hằng ngày cùng với đồ chúng nghe giảng về yếu chỉ của thiền. Khi Tỳ Ni Đa Lưu Chi (45b1) từ Quảng Châu đến ở chùa đó, thấy Sư, nhìn kỹ rồi hỏi: “Ngươi họ gì?”.

Sư hỏi lại: “Hòa thượng họ gì?”.

Lưu Chi nói: “Ngươi không có họ sao?”.

Sư đáp: “Họ thì không phải không có, nhưng làm sao hòa thượng biết?”.

Tỳ Ni Đa Lưu Chi quát: “Biết để làm gì?” (3)

Sư bỗng nhiên tự tỉnh, liền sụp lạy, bèn được thiền chỉ. Khi Chi tịch rồi, Sư thẳng vào núi ấy, tu tập thiền định, hình như cây khô, vật, ngã đều quên, chim bay đến chầu, dã thú vây quanh. Người đương thời nghe tiếng đến học, không thể đếm xiết. Nhân đó, Sư lập chùa, dạy dỗ học trò. Tăng chúng đến ở thường hơn 300. Thiền học phương Nam nhờ thế mà thịnh.

Thứ sử Lưu Phương nhà Tùy đem tâu. Vua Cao Tổ lâu nghe phương này sùng kính Phật giáo, lại trọng Sư đức độ tiếng tăm, sai sứ ban cho 5 hòm xá lợi của Phật cùng điệp sai Sư dựng tháp cúng dường (4). Sư bèn tại chùa Pháp Vân ở Luy Lâu (5) và những chùa danh tiếng ở các châu Phong (6), Hoan (7), Trường (8), Ái (9) mỗi nơi dựng tháp thờ.

Sau này, năm Bính Tuất Đường Vũ Đức thứ 9 (626) (46a1), Sư thị tịch [32].


THẾ HỆ THỨ HAI (MỘT NGƯỜI)
THẾ HỆ THỨ BA (MỘT NGƯỜI)
THẾ HỆ THỨ TƯ (MỘT NGƯỜI)

42. THIỀN SƯ THANH BIỆN (?-686)

Chùa Kiến Dương, làng Hoa Lâm, phủ Thiên Đức (1). Người Cổ Giao (2), họ Đỗ. Năm 12 tuổi theo Pháp Đăng chùa Phổ Quang (3) tu học. Khi Đăng sắp tịch, Sư hỏi: “Sau khi hòa thượng đi, con sẽ nương tựa vào đâu?”.

Đăng dạy: “Con chỉ Sùng Nghiệp mà thôi”.

Sư hoang mang không hiẻu. Pháp Đăng tịch rồi, Sư chuyên trì kinh Kim cang làm sự nghiệp.

Một hôm, có thiền khách đến viếng hỏi: “Kinh này là mẹ của ba đời các đức Phật. Vậy thì nghĩa của mẹ Phật là thế nào?

Sư đáp: “Lâu nay tôi trì tụng nhưng chưa hiểu được ý kinh”.

Thiền khách hỏi: “Thầy trì kinh đã bao lâu?”

Sư đáp: “Đã tám năm”.

Thiền khách hỏi: “ (46b1) Trì kinh cái gì mà tám năm ý một kinh cũng không hiểu, thì dầu bỏ công cả trăm năm cũng không làm được gì?”.

Sư bèn đảnh lễ, lại hỏi về chỗ tiến ích.

Khách bảo nên đến Huệ Nghiêm chùa Sùng Nghiệp để được giải quyết. Sư sực tỉnh nói: “Ta nay mới biết lời nói của Pháp Đăng, quả thật phù hợp”. Bèn liền làm theo.

Vừa đến chùa, Huệ Nghiêm hỏi: “Ngươi đến đây có việc gì?”

Sư thưa: “Lòng con có chỗ chưa ổn”.

Nghiêm hỏi: “Ngươi chưa ổn cái gì?”

Sư liền đem việc trước thuật lại. Nghiêm bèn than rằng: “Ngươi tự quên mất rồi. Không nhớ trong kinh nói: ‘Ba đời các Đức Phật cùng giáo pháp A nậu đa la tam miệu tam bồ đề của các Đức Phật, đều từ kinh ấy ra’. (4) Há đó chẳng phải là ý nghĩa của mẹ Phật sao?”.

Sư thưa: “Phải, phải, đó là chỗ con đã mê muội vậy”.

Nghiêm lại hỏi: “Kinh đó là người nào nói?”.

Sư đáp: “Há không phải Như Lai nói sao?”.

Nghiêm hỏi: “Trong kinh nói: Nếu ai nói Như Lai có chỗ thuyết pháp tức là hủy báng Phật, người ấy không (47a1) thể hiểu nghĩa ta nói. Ngươi nên khéo suy nghĩ, nếu bảo kinh này không phải là Phật nói tức là hủy báng kinh; nếu bảo do Phật nói tức là hủy báng Phật. Ngươi phải làm sao? Nói mau! Nói mau!”(5) Sư sắp mở miệng, Nghiêm cầm cái phất trần đánh ngay vào miệng. Sư bỗng nhiên tỉnh ngộ, bèn sụp xuống lạy. Sau Sư đến chùa Kiến dương, dạy dỗ đồ chúng.

Hóa duyên hoàn tất, Sư tịch vào năm Bính Tuất, đời Đường Thùy Củng thứ 2 (686).


THẾ HỆ THỨ NĂM (MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
THẾ HỆ THỨ SÁU (MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
THẾ HỆ THỨ BẢY (MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
THẾ HỆ THỨ TÁM (BA NGƯỜI, HAI NGƯỜI KHUYẾT LỤC)

43. THIỀN SƯ ĐỊNH KHÔNG (730-808)

Chùa Thiền Chúng (1), hương Dịch Bảng, phủ Thiên Đức. Người Cổ Pháp (2), họ Nguyễn, mấy đời là vọng tộc. Con người Sư sâu rõ thế số, hành động đúng phép (47b1). Người làng tôn thờ, đều gọi là trưởng lão.

Về già, Sư đến Pháp hội của Nam Dương ở Long Tuyền, nghe giảng, hiểu được ý chỉ, do đó Sư trở tâm theo Phật.

Trong khoảng Đường Trinh Nguyên (785-804), Sư dựng chùa Quỳnh Lâm ở làng mình. Khi mới đào đất đắp nền, gặp một lư hương và 10 cái khánh. Sư sai người đem xuống sông rửa. Một cái lặn mất đi, đến đáy mới dừng. Sư giải thích rằng: Thập và khẩu là chữ cổ, thủy và khứ thành chữ pháp, thổ là bản thổ chỉ chỗ ta ở. Nhân đó, Sư đổi tên làng mình làm Cổ Pháp. [33] Sư lại làm bài tụng rằng:

Đất trình pháp khí,
Một món đồng ròng
Để Phật pháp được hưng long
Đặt tên làng là Cổ Pháp

Sư lại nói:
Hiện ra pháp khí
Mười khẩu chuông đồng.
Họ Lý làm vua
Ba phẩm thành công

Sư lại nói:
Mười chiếc xuống nước đất
Cổ Pháp ấy tên làng
Gà sau tháng chuột ở (3)
Chính lúc Tam bảo hưng

Khi sắp tịch, Sư gọi đệ tử Thông Thiện dạy rằng: “Ta muốn mở rộng làng xóm, nhưng e nửa chừng gặp họa nạn (48a1), chắc có kẻ lạ đến phá hoại đất nước ta [34]. Sau khi ta mất, con khéo giữ pháp này, gặp người họ Đinh thì truyền, nguyện ta mãn vậy”.

Nói xong, Sư cáo biệt mà tịch, thọ 79 tuổi. Lúc ấy là năm Mậu Tý Đường Nguyên Hòa thứ 3 (808) (4). Thông Thiện dựng tháp ở phía tây chùa Lục Tổ (5) và ghi lời phú chúc của Sư mà chôn dấu đi.


THẾ HỆ THỨ CHÍN (BA NGƯỜI ĐỀU KHUYẾT LỤC)
THẾ HỆ THỨ MƯỜI (BỐN NGƯỜI, MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)

44. TRƯỞNG LÃO LA QUÝ (852-936)

Chùa Song Lâm, hương Phù Ninh, phủ Thiên Đức (1). Người An Chân (2), họ Đinh. Thuở nhỏ du phương, học khắp thiền đức. Trải qua nhiều năm không gặp duyên đạo, bèn sắp thối chí. Sau tại pháp hội của Thông Thiện chùa Thiền Chúng nghe nói một lời, lòng liền khai ngộ, bèn chịu phục thờ làm thầy.

Khi Thiện sắp tịch, gọi Sư đến dạy: “Xưa thầy ta là Định Công, thường dặn ta rằng: ngươi giữ pháp ta, gặp người họ Đinh thì truyền. Con đúng là người đó. Ta nay (48a1) đi vậy”.

Khi đã đắc pháp, Sư tùy phương diễn hóa, chọn đất dựng chùa. Mỗi khi nói ra lời nào tất là phù sấm. Thường ở chùa Lục Tổ, đúc tượng Lục Tổ bằng vàng, sau sợ trộm lấy đi, bèn đem chôn ở cửa chùa và dặn: “Gặp vua sáng lấy ra, đụng chúa tối thì dấu”.

Khi sắp thị tịch, Sư bảo đệ tử Thiền Ông rằng: “Trước kia, Cao Biền (1) xây thành ở Tô Lịch, biết đất Cổ Pháp ta có khí tượng đế vương, nên đã đào đứt sông Điềm (4)và những ao Phù Chẩn (5) v.v... đến 19 chỗ để trấn yểm. Nay ta đã khuyên Khúc Lãm lấp lại như xưa. Lại ở chùa Châu Minh (6) ta có trồng một cây bông gạo để trấn chỗ đứt, biết đời sau ắt có kẻ hưng vương ra đời để phò dựng chánh pháp của ta. Sau khi ta tịch, con khéo xây một ngọn tháp bằng gạch đất, dùng phép yểm dấu trong đó, chớ cho người thấy”.

Nói xong Sư tịch, thọ 85 tuổi.

Lại nói đó là vào năm Bính Thân đời Đường Thanh Thái thứ 3 (936) Sư trồng cây bông gạo, thường có bài kệ rằng:
(49a1) Đại sơn đầu rồng ngửng
Đuôi cù ẩn Châu Minh
Định thành thập bát tử
Cây gạo hiện long hình
Thỏ gà trong tháng chuột
Nhất định thấy trời lên (49a1) (7)


45. THIỀN SƯ PHÁP THUẬN (925-990)

Chùa Cổ Sơn, làng Thừ, quận Ải (1). Không biết người đâu. Sư họ Đỗ, học rộng, thơ hay, có tài giúp vua, rõ việc đương thời. Nhỏ đã xuất gia, thờ thiền sư Phù Trì chùa Long Thọ làm thầy. Khi đã đắc pháp, Sư nói ra lời nào cũng hợp với sấm ngữ.

Đang vào lúc nhà Lê mới dựng nghiệp, trù kế hoạch định sách lược, Sư tham dự đắc lực. Đến khi thiên hạ Thái Bình, Sư không nhận phong thưởng. Vua Lê Đại Hành càng kính trọng, thường không gọi tên, chỉ gọi Đỗ pháp sư, đem việc văn thư giao phó cho Sư (2).

Năm Thiên Phúc thứ 7 (986) người Tống là Nguyễn Giác sang sứ, vua sai Sư cải trang làm quan coi bến để theo dõi hành động của y. Gặp khi có hai con ngỗng bơi trên sông, Giác ngâm chơi rằng:

Song song ngỗng một đôi
Ngửa mặt ngó ven trời

Sư đang cầm chèo, ngâm theo cho đủ:
Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân hồng (49b1) bơi
Giác do đó thán phục (3).

Vua thường đem vận nước dài ngắn hỏi Sư. Sư đáp:
Vận nước như mây quấn
Trời Nam mở Thái Bình
Vô vi trên điện các
Xứ xứ hết đao binh

Năm Hưng Thống thứ 2 (990) sư tịch, thọ 76 tuổi. Sư thường viết Bồ tát hiệu sám hối văn 1 quyển, lưu hành ở đời.


46. THIỀN SƯ MA HA [35]

Chùa Quan Ái, làng Đào Gia, Cổ Miệt (1). Tổ tiên là giống người Chiêm Thành, sau mạo tánh họ Dương. Cha tên Bối Đà, rành về sách bối, làm quan dưới triều Lê với chức Bối [36] (2). Lớn lên, Sư là người có hiểu biết thấu đáo, học thông tiếng Hán và Phạn.

Năm 24 tuổi, Sư nối nghiệp cha, tiếp tục trụ trì ngôi chùa cũ. Thường những lúc diễn tập kinh bối, Sư thấy Hộ pháp, Thiện thần quở rằng: “Sao dùng cái học bên ngoài đó (3), chắc chắn không thể hiểu được nghĩa lý”. Sư do đó bị mù, rất tự hối lỗi. Khi sắp gieo mình xuống vực sâu mà chết thì gặp Viễn Biệt chùa Đông Lâm (50a1) ngăn rằng: “Đừng! Đừng!”. Sư nghe lời đó liền tỉnh ngộ.

Về sau, Sư đến chùa Cổ Sơn thọ giáo với Đỗ Pháp Thuận. Sư chuyên việc sám hối và trì tụng Đại bi tâm chú (4), trải ba năm chưa từng một chút biếng trễ. Bèn được Bồ tát Quan Âm lấy nước sạch cành dương rưới lên đầu mặt, mắt bỗng nhiên sáng lại và lòng càng thêm thanh tịnh.

Năm Thuận Thiên thứ 5 (1014), Sư dời về ở núi Đại Vân (5) tại Trường An, ngày ngày siêng năng tu tập, chứng được Tổng trì tam muội và các ảo thuật, người đời không lường nổi.

Hoàng đế Lê Đại Hành (6) ba lần mời Sư vào cung hỏi han. Sư chỉ chấp tay cúi đầu mà thôi. Bắt đến lần thứ ba, Sư mới đáp: “Cuồng tăng ở chùa Quan Ái”. Vua cả giận, sai giữ Sư tại chùa Vạn Tuế trong đại nội, cho người khóa cửa canh giữ. Đến sáng thì đã thấy Sư ở ngoài phòng Tăng mà cửa vẫn khóa kín như cũ. Vua rất ngạc nhiên, bèn cho phép Sư đi đâu thì đi.

Sư đi về phía Nam đến Ái Châu, ở trấn Sa Đảng (7). Tục trấn đấy ưa thờ cúng quỷ thần, lại đều chuyên nghề sát sinh. Sư khuyên họ ăn chay, họ đều nói: “ (50b1) Thiên thần của chúng tôi, họa phước không dám trái”.

Sư bảo: “Các ngươi nếu có thể bỏ ác theo lành, giả như có quỷ thần xúc hại, lão tăng sẽ tự chịu cho”.

Dân làng thưa: “Gần đây có người bệnh lâu sắp chết, thầy thuốc, đồng bóng đều bó tay. Nếu ông chữa lành được, chúng tôi sẽ theo lời khuyên”.

Sư bèn lấy nước đọc chú rồi phun vào, người bệnh tức khắc bớt ngay. Họ tuy cảm phục nhưng thói cũ ăn sâu, chưa thể chóng đổi.

Có hương hào họ Ngô, nhân uống rượu say, đem rượu thịt đến trước mặt ép Sư: “Hòa thượng có thể theo được cuộc vui này thì chúng tôi sẽ tuân theo lời Ngài dạy”.

Sư bảo: “Đã mời thì chẳng dám từ, chỉ sợ đau bụng đấy thôi”.

Họ Ngô đùa nói: “Có đau thì Ngô tôi tự chịu thay cho”.

Sư nhận lời làm theo rồi bỗng giả bộ làm bụng sình to, trong bụng tiếng sôi như sấm, hơi thở hào hễn, van to: “Ông Ngô đâu chịu thay cho ta”. Họ Ngô xanh mặt, chẳng biết làm gì.

Sư tự chấp tay niệm: “Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng (8), cứu con với”. Giây lát, bèn mửa ra thịt thì thành thú chạy, cá thì thành cá nhảy, rượu thì hóa ra nước đồng. Mọi người rất kinh hãi.

Sư bảo: “Thân ngươi bệnh, theo (51a1) ta thì lành ngay. Đến khi ta đau bụng, các ngươi không thay thế ta. Các ngươi nay chịu theo lời dạy của ta chưa?”. Dân làng đều bái tạ xin vâng.

Năm Thiên Thành thứ 2 (1029), Đô úy Nguyễn Quang Lỵ (9) thỉnh Sư trụ trì chùa Khai Thiên ở phủ Thái Bình (10). Được sáu năm, Sư lại từ chức lui về Hoan Châu. Sau không biết Sư mất ở đâu. [37]


THẾ HỆ THỨ MƯỜI MỘT ( BỐN NGƯỜI, HAI NGƯỜI KHUYẾT LỤC)

47. THIỀN ÔNG ĐẠO GIẢ (902-979)

Chùa Song Lâm, làng Phù Ninh, phủ Thiên Đức (1). Người Cổ Pháp (2), họ Lữ. Nhỏ theo học đòi việc đời, sau theo Đinh trưởng lão xuất gia. Khi đã đắc pháp thì Sư tịch vào năm Kỷ Mão Đinh Thái Bình thứ 10 (979), thọ 78 tuổi.


48. THIỀN SƯ SÙNG PHẠM (1004-1087)

Chùa Pháp Vân (1), làng Cổ châu, Long Biên, họ Mâu. Vóc dáng khôi ngô, tai dài đến vai.

Lúc mới xuất gia, ban đầu Sư đến tham vấn với Vô Ngại ở Hương Thành (2). Khi đã được tâm ấn, bèn dạo khắp Thiên Trúc để cầu học rộng. Trải qua 9 năm, Sư trở về nước gồm (51b1) hiểu giới, định.

Về sau, Sư ở chùa Pháp Vân giảng pháp học giả quy tụ rất đông. Hoàng đế Lê Đại Hành nhiều lần thỉnh Sư vào cung (3) để thưa hỏi thiền chỉ, đãi ngộ rất hậu.

Năm Đinh Mão Lý Quảng Hựu thứ 3 (1087) Sư viên tịch, thọ 84 tuổi.

Vua Lý Nhân Tông thường có kệ truy tặng Sư:

Sùng Phạm ở nước Nam
Lòng vắng, đỗ đạt về (4)
Tai dài hiện tướng tốt
Pháp pháp thảy ly vy (5)


THẾ HỆ THỨ MƯỜI HAI ( BẢY NGƯỜI, HAI NGƯỜI KHUYẾT LỤC)

49. THIỀN SƯ VẠN HẠNH (?-1025)

Chùa Lục Tổ, làng Dịch Bảng, phủ Thiên Đức. Người Cổ Pháp, họ Nguyễn. Gia đình đời đời thờ Phật.

Thuở nhỏ Sư đã khác thường, gồm thông ba học nghiên cứu trăm luận (1), xem thường công danh.

Năm 21 tuổi xuất gia, cùng với Định Huệ thờ Thiền Ông chùa Lục Tổ làm thầy. Ngoài lúc hầu hạ, Sư học tập quên cả mỏi mệt.

Sau khi Thiền Ông viên tịch, Sư chuyên tập pháp môn Tổng trì tam ma địa (2), lấy đó làm việc riêng mình. Bấy giờ Sư nói ra (52a1) lời nào thiên hạ đều cho là phù sấm. Hoàng đế Lê Đại Hành hết lòng tôn kính Sư.

Năm Thiên Phúc thứ nhất (981) Hầu Nhân Bảo nước Tống sang cướp, đóng quân tại Cương Giáp, Lãng Sơn (3). Vua mời Sư đến, đem chuyện thắng bại ra hỏi, Sư đáp: “Trong 3, 7 ngày giặc phải lui”. Sau quả nhiên như thế.

Đến khi vua muốn đánh Chiêm Thành, việc bàn định chưa dứt khoát (4), Sư tâu: “Xin mau cất binh, đừng để mất cơ hội”. Sau đánh quả nhiên thắng trận.

Thường có kẻ gian là Đỗ Ngân, muốn mưu hại Sư. Sư dự kiến việc chưa phát, đem kệ đưa cho y nói:

Cây đất sinh nhau bạc với vàng (5)
Cớ sao mưu hại mãi cưu mang
Bấy giờ năm miệng hồn thu dứt (6)
Thật đến về sau chẳng hận lòng

Ngân sợ liền thôi. Ấy là tài tiên tri vãng giám của Sư đại loại như thế.

Bấy giờ Ngọa Triều bạo ngược, trời người đều thán. Lý Thái Tổ khi ấy làm Thân vệ, chưa nhận lên ngôi. Trong khoảng thời gian này, những điềm tốt xấu xuất hiện xen nhau. Như viện Hàm toại chùa Ứng Thiên Tâm, châu Cổ Pháp, có con chó trắng, lông trên lưng hiện thành chữ “Thiên tử” (7). Sét đánh vào cây bông gạo (52b1) để lại dấu chữ (8). Ngôi mộ Hiển Khánh đại vương, bốn bề đêm nghe có tiếng đọc tụng (9). Cây đa chùa Song Lâm sâu ăn vỏ, thành nét chữ “Quốc” (10). Những việc này tùy theo chỗ tai nghe mắt thấy Sư đã xét bàn thì mỗi mỗi phù hợp với điềm Lê diệt, Lý hưng. Vì vậy, ngày Lý Thái Tổ lên ngôi, Sư ở chùa Lục Tổ đã biết trước, gọi hai vua chú bác (11) nói:

“Thiên tử đã băng, Lý thân vệ hiện đang ở nhà, tay chân họ Lý túc trực trong thành lên tới số ngàn. Nội trong ngày, Thân vệ ắt được thiên hạ”. Rồi yết bảng ở đường cái nói rằng:

Tật Lê chìm bể Bắc
Hạt Lý mọc trời Nam (12)
Bốn phương gươm giáo lặng
Tám cõi mừng bình an

Hai vương nghe nói rất sợ, sai người đi hỏi tin tức, quả đúng như lời Sư nói.

Đến ngày 15 tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 16 (1025) (13), Sư không bệnh, nói bài kệ:

Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cỏ xuân tươi thu não nùng
Theo vận thịnh suy không hãi sợ
Thịnh suy đầu cỏ tựa phơi sương(14)

Lại dạy đệ tử rằng: “Các con muốn đi đâu? Thầy không lấy chỗ trụ để trụ, không (53a1) nương vào chỗ không trụ để trụ”.

Nói xong giây lát thì tịch. Vua và sĩ thứ làm lễ trà tỳ, lượm cốt dựng tháp để thờ. Lý Nhân Tông thường có bài kệ truy tặng rằng:

Vạn Hạnh dung ba cõi
Thật hiệp lời sấm xưa
Quê hương tên Cổ Pháp
Chống gậy trấn kinh đô [38] (15).


50. THIỀN SƯ ĐỊNH HUỆ

Chùa Quang Hưng, làng An Trinh, phủ Thiên Đức (1). Người Cảm Điền, Phong Châu (2), họ Khúc. Ban đầu cùng với Vạn Hạnh thờ Thiền Ông làm thầy, rồi nhận được tâm ấn. Đến khi thị tịch, bèn truyền pháp mình cho đệ tử là Lâm Huệ Sinh. (53b1) [39]


51. THIỀN SƯ ĐẠO HẠNH (?- 1117)

Chùa Thiên Phúc (1), núi Phật Tích (2), họ Từ, tên Lộ. Cha là Vinh, làm quan tới chức Tăng quan đô án, thường đi học tại làng Yên Lãng (3). Lấy một người con gái họ Tăng rồi theo quê vợ. Sư là con nàng Tăng Thị vậy (4).

Lúc nhỏ, Sư ham chơi, tính tình hào hiệp, có chí lớn, lại có hành động nói năng người đời không thể lường được. Sư thường kết bạn với nhà nho Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa (5) và nghệ sĩ phường chèo Vi Ất. Đêm, Sư khổ công đọc sách, ngày thì thổi sáo, đánh cầu, đánh bạc làm vui. Thân phụ thường trách Sư biếng nhác.

Một hôm, ông lén vào phòng ngủ của Sư để rình xem, thấy ngọn đèn đã tàn, sách vở chất đống, Sư đang dựa án mà ngủ, tay chưa rời quyển sách, tàn đèn rơi đầy mặt bàn. Từ đấy ông cụ không lo nữa.

Sau đó ứng thi điện thí tăng quan đỗ khoa Bạch liên (6). Chẳng bao lâu cha Sư là Vinh dùng tà thuật làm mất lòng Diên Thành Hầu (7). Hầu nhờ Pháp sư Đại Điên (8) dùng phép đánh chết (54a1), ném xác xuống sông Tô Lịch (9). Xác trôi đến cầu Quyết (10) là chỗ nhà Hầu, bỗng đứng thẳng lên mà chỉ tay vào nhà, suốt ngày không đi. Hầu sợ, đi báo cho Đại Điên. Đại Điên đến nơi, đọc một câu kệ: “Tăng giận không cách đêm”. Đọc xong, xác đáp lại trôi đi.

Sư nghĩ cách phục thù cho cha, nhưng tìm kế không ra. Một hôm, Sư rình Điên đi khỏi nhà, muốn đánh lén, chợt nghe trên không có tiếng la: “Đừng, đừng!”. Sư sợ hãi vứt cây mà chạy. Sư muốn sang Ấn độ, tìm học phép linh dị để chống lại Đại Điên. Đi đến xứ Mọi răng vàng (11), đường sá hiểm trở, Sư bèn trở về ẩn tại núi ấy, hằng ngày chuyên tụng chú Đại bi tâm đà la ni đủ 10 vạn 8 ngàn biến. Một hôm Sư thấy thần nhân đến trước mặt mình nói: “Đệ tử là Tứ trấn Thiên vương (12), cảm công đức trì chú của Sư, nên đến đây xin hầu để Sư sai bảo”. Sư biết đạo pháp của mình đã thành, có thể trả thù cha mới đến bến Quyết, cầm gậy, thử ném xuống dòng nước chảy xiết, gậy trôi ngược dòng như con rồng, đến cầu Tây Dương (13) dừng lại. Sư mừng (54b1) nói: “Pháp ta thắng rồi”. Bèn đến thẳng chỗ Đại Điên. Điên thấy nói: “Ngươi không nhớ việc ngày trước sao?”.

Sư ngửa mặt nhìn lên trời, lặng lẽ không thấy gì, nhân đó đánh mạnh, Đại Điên phát bệnh chết.

Từ đấy oán xưa rửa sạch, niệm tục tiêu tan. Sư dạo khắp tùng lâm, hỏi xin ấn chứng. Nghe Kiều Trí Huyền hóa đạo ở Thái Bình (14), Sư nhún mình đến tham yết, trình hỏi chân tâm bằng bài kệ:

Lâu lẫn bụi đời chửa biết vàng
Chẳng hay đâu chốn, ấy lòng chân
Nguyện xin chỉ rõ bày phương tiện
Thấy trọn như như khỏi nhọc tìm
Trí Huyền đáp lại bằng bài kệ:
Tiếng ngọc lặng đưa lời nhiệm mầu
Ở trong tỏ rõ ý thiền nao
Bồ đề đạo đó hà sa cõi
Muốn tới còn xa mấy vạn sào

Sư mù mịt không hiểu, mới đến giảng hội của Sùng Phạm chùa Pháp Vân hỏi: “Thế nào là chân tâm?”.

Phạm hỏi lại: “Cái gì chẳng phải là chân tâm?”.

Sư tỉnh ngộ, nói: “Làm thế nào quyết chắc?”.

Phạm đáp: “Đói ăn, khát uống”. (15)

Sư lễ tạ, từ giã ra đi. Từ đó (55a1) pháp lực có thêm, duyên thiền càng thục, có thể sai rắn núi, thú rừng, họp nhau đến chịu thuần phục, Sư đốt ngón tay cầu mưa, đọc chú dùng nước chữa bệnh, không gì là không tức khắc ứng nghiệm (16).

Có vị Tăng hỏi: “Đi, đứng, nằm, ngồi đều là tâm Phật, thế nào là tâm Phật?”.

Sư dạy bài kệ:
Tạo có, mảy may có
Làm không, tất cả không,
Có không như trăng nước,
Chớ vướng có không không

Lại bảo:
Trời trăng đỉnh núi cao
Người người mất hết châu
Kẻ giàu có ngựa tốt
Đi bộ chẳng cỡi câu

Bấy giờ, vua Lý Nhân Tông không có con nối dòng. Tháng 2 năm Hội Tường Đại Khánh thứ 3 (1112), người phủ Thanh Hóa dâng sớ tâu rằng: “Trên bãi cát biển, có đứa bé linh dị, tuổi mới lên ba mà đã biết nói, tự xưng con đích của bệ hạ tên là Giác Hoàng. Hết thảy những gì bệ hạ làm, không gì là nó không biết”.

Vua sai trung sứ đến xem, quả đúng như lời tâu, bèn rước về kinh đô, để ở chùa Báo Thiên. Vua thấy đứa bé thông minh khác thường, rất đỗi thương mến, sắp lập làm Hoàng thái tử. Quần thần hết sức can gián, cho là không được (55b1), và nói: “Nếu đứa bé kia quả thật linh dị thì nên thác sinh vào cung cấm, sau mới có thể lập”. Vua theo lời, truyền mở đại hội bảy ngày đêm, làm phép thác thai.

Sư nghe chuyện, riêng nói rằng: “Thằng kia yêu dị, làm mê hoặc người lắm. Ta há nhẫn tâm, ngồi nhìn chẳng cứu, để nó làm loạn lòng người, phá rối Chánh pháp sao!”.

Nhân thế, sai chị mình giả làm người đi xem hội, bí mật đem vài hạt châu do Sư kiết ấn, treo trên mái diềm. Hội đã ba ngày, Giác Hoàng nhuốm bệnh, nói với mọi người: “Đầy khắp cả nước đều có lưới sắt bủa vây, tuy muốn thác sinh, mà sợ không có đường vào”.

Vua nghi Sư chú giải, sai người tra hỏi, Sư quả nhận tội, bị giam ở lầu Hưng Thánh, hợp quần thần nghị tội. Khi Sùng Hiền Hầu đi ngang qua, Sư kêu van: “Xin hết sức cứu bần tăng một phen, may thoát tội, ngày sau tất xin đầu thai làm con để đền ơn”.

Hầu nhận lời. Đến lúc hội nghị, quần thần đều nói: “Bệ hạ vì không có con, nên mới cho Giác Hoàng thác sinh, thế mà Lộ liều lĩnh dám làm chú giải, nên kết án tử hình, để tạ lòng thiên hạ”.

(56a1) Hầu chậm rãi thưa: “Nếu Giác Hoàng có thần lực, thì dù có trăm Lộ chú giải cũng không làm hại được. Nay trái lại như thế thì Lộ vượt xa Giác Hoàng vậy. Thần ngu muội trộm nghĩ, nó tỏ phục Lộ, thì đừng cho y thác sinh”.

Vua xá tội (17).

Sư đến nhà Hầu tạ ơn, gặp lúc phu nhân đang tắm, Sư ép nhìn phu nhân. Phu nhân nổi giận, đem chuyện thưa lại với Sùng Hiền Hầu. Hầu đã biết rõ nguyên nhân nên rốt cuộc không hỏi han gì. Phu nhân từ đó biết mình có thai. Sư dặn Hầu rằng: “Khi nào lâm bồn thì nên báo trước cho biết”.(18)

Đến ngày đủ tháng, Sư nghe tin báo, bèn thay áo quần, tắm rửa, bảo đồ chúng rằng: “Túc nhân ta chưa hết, còn phải ra đời lại, tạm làm quốc vương (19). Đến khi thọ chung, lại làm thiên tử trên cõi trời Tam thập tam. (20) “Nếu thấy chân thân hư nát, thì lúc ấy ta mới vào Niết bàn, không ở cõi sinh diệt nữa”. Đồ chúng nghe xong, không ai là không động lòng rơi lệ. Sư nói bài kệ rằng:

Thu sang không báo nhạn về đây
Cười nhạt người đời thương xót thay
Nhắn bảo môn nhân thôi luyến ái
Thầy xưa (56b1) bao thuở vẫn thầy nay

Nói xong kệ, Sư nghiễm nhiên mà hóa, đến nay, xác thoát vẫn còn [40]. (21)


52. THIỀN SƯ TRÌ BÁT (1049-1117)

Chùa Tổ Phong, núi Thạch Thất, Hương Đại Cù, Tân Trại (1). Người Luy Lâu (2), họ Vạn.Tuổi còn chơi đất mà đã mộ Phật rất thiết. Đến lúc đội mũ, tới xuống tóc và thọ Cụ túc giới với Sùng Phạm chùa Pháp Vân. Phạm thấy Sư tính hạnh siêng năng, gặp việc cẩn thận, bèn dốc lòng ấn khả và ban cho hiệu trên.

Khi Phạm quy tịch, Sư tự mình đi khắp những chỗ giảng thiền, trải hỏi các bậc tôn túc, rồi trở về chùa đó giảng dạy nghiên cứu. Tướng quốc Thái úy Nguyễn Thường Kiệt (3), lúc bấy giờ là vị đàn chủ. Những gì Sư được dâng cúng, đều đem dùng vào việc Phật. Sư đồng thời dựng lại các chùa Pháp Vân, Thiền cư, Thê Tâm và Quảng An ... để đáp lại ân pháp nhũ.

Ngày 18 tháng 2 (57a1), năm Hội Tường Đại Khánh thứ 8 (1117), khi sắp thị tịch, Sư nói kệ rằng:

Có chết tất có sống
Có sống tất có chết
Chết đời lấy làm buồn
Sống đời lấy làm vui
Buồn vui thật vô cùng
Bỗng nhiên thành đây đó
Đối với việc sống chết
Chẳng có gì bận lòng
Án tô rô tô rô tất rị (4)

Nói kệ xong, Sư ngồi thẳng mà mất, thọ 69 tuổi. Môn đồ đệ tử là thiền sư Tịnh Hạnh, Pháp Nhãn và Thuần Chân thu di cốt hỏa táng.


53. THIỀN SƯ THUẦN CHÂN (?-1101)

Chùa Hoa Quang, làng Tây Kết, Thượng Nghi (1). Người Cửu Ông, Tế Giang (2), họ Đào. Tuổi nhỏ đã lầu thông kinh sử, đến đâu cũng gặp bọn học trò tranh nhau theo học. Sau gặp Pháp Bảo chùa Quang tịnh (3) nói một lời mà Sư hiểu được Thiền chỉ, bèn bỏ chỗ học của mình để theo học với Bảo. Chẳng được bao năm, cửa tù đập vỡ, ánh điện lửa đá theo gõ phát ra, dẫn trẻ dắt mù, hầu không còn sức.

Vào ngày 7 tháng 2 năm Ất dậu Long Phù thứ 5 (1105) khi sắp tịch, đệ tử nhập thất là Bản Tịch vào thỉnh ích. Sư thuyết (57b1) bài kệ:

Chân tánh thường không tánh
Sao từng có diệt sinh
Thân là pháp sinh diệt
Pháp tánh diệt chửa từng

Rồi thì mất. Phụ quốc thái bảo Cao Tối lo việc hỏa táng và dựng tháp.


THẾ HỆ THỨ MƯỜI BA (SÁU NGƯỜI, HAI NGƯỜI KHUYẾT LỤC)

54. TĂNG THỐNG HUỆ SINH (?-1064)

Chùa Vạn Tuế, kinh đô Thăng Long, người Đông Phù Liệt (1), họ Lâm, tên Khu, hậu duệ của Lâm Phú ở Trà Sơn, Vũ An (2). Khoáng lấy con gái của Quách tăng lục, nhơn dời nhà đến Phù Liệt, sinh được 2 con. Người lớn tên Trụ, làm quan đến chức Thượng thư binh bộ viên ngoại lang. Sư là người con thứ vậy.

Tướng mạo Sư kỳ vĩ, ăn nói lưu loát, rất giỏi văn chương, có tài viết, vẽ. Học Nho rảnh rỗi, Sư nghiên cứu thêm sách Phật. Bách luận và các kinh, không gì là không xem hết. Mỗi khi nói đến chỗ trọng yếu của Phật pháp, Sư chưa từng không than thở rơi lệ.

Năm 54 tuổi, Sư bỏ đời, cùng Pháp Thông chùa Hạc Lâm (3) thờ (58a1) Định Huệ chùa Quang Hưng làm thầy. Học thiền ngày một tiến. Định Huệ vỗ về mến chuộng. Từ đó, Sư dạo khắp tòng lâm, hỏi hết thiền chỉ. Rồi đến đỉnh Bồ đề núi Trà (4) trác tích. Mỗi lần vào định, trải qua năm ngày. Người bấy giờ gọi Sư là Đại sĩ nhục thân (5).

Lý Thái Tông nghe tiếng, sai sứ đến mời. Sư gọi sứ bảo: “Ông không thấy con vật cúng sinh sao? Người ta đem lụa là cho nó mặc, cỏ tươi cho nó ăn, đến khi bị dắt vào Thái miếu, muốn xin làm con vật hèn mọn, vĩnh viễn còn không thể được, huống nữa các việc khác?”. Sư cố từ không được, nên đến lần thứ hai, Sư mới về kinh. Gặp mặt, vua rất vui, phong làm Nội cung phụng tăng (7) sắc trụ trì chùa Vạn Tuế.

Một hôm, nhân dịp trai tăng trong Đại nội, vua gọi Sư nói: “Trẫm nghĩ, nguồn tâm của Phật tổ, người học chớ nên chỉ trích lẫn nhau, xin cùng với thạc đức các phương, mỗi vị bày tỏ điều hiểu biết của mình, để xem chỗ dụng tâm của quý vị ra sao”. Sư lên tiếng đáp thành kệ rằng:

Pháp vốn như không pháp
Chẳng có cũng chẳng không
Nếu người biết pháp ấy
Chúng sinh cùng Phật đồng
Trăng Lăng già vằng vặc
(58b1) Thuyền vượt biển lâng lâng
Hiểu không, không biết có
Tam muội mặc thong dong

Vua rất khen thưởng, rồi phái làm Đô tăng lục. Bấy giờ các vương công như: Phụng Yết Thiên Vương (8), Thái tử Vũ Uy (9), Hỷ Từ, Thiện Huệ, Chiêu Khánh và Hiển Minh, Thượng tướng Vương Cường (10), Thái sư Lương Nhậm Văn, Thái bảo Đào Xử Trung và Tham chính Kiều Bồng (11) đều tới lui hỏi đạo, giữ lễ thầy trò.

Đến triều Thánh Tông, Sư đổi đến chức Tả nhai đô Tăng thống, tước Hầu, vua không gọi Sư bằng tên (12).

Năm Giáp Thìn Gia Khánh thứ 6 (1064) (13), lúc sắp thị tịch, Sư nhóm đồ chúng nói kệ rằng:

Nước lửa ngày chan hòa
Do lai, chửa nói ra
Tin ông không xứ sở
Ba ba lại ba ba (14)

Lại nói:
Từ xưa đến theo học
Người người chỉ phía nam (15)
Nếu ai hỏi việc mới
Việc mới trăng mồng ba

Rồi tắm rửa, đốt hương, đến nửa đêm Sư an nhiên mà mất. Sư thường phụng chiếu soạn bia văn các chùa Thiên Phúc (16), Thiên Thánh, Khai Quốc tại Tiên Du và chùa Diệu Nghiêm Báo Đức tại Vũ Ninh (17). Lại có Pháp sự trai nghi (18) và Chư đạo (59a1) tràng khánh tán văn một số quyển lưu hành ở đời.


55. THIỀN SƯ THIỀN NHAM (1093-1163)

Chùa Trí Quả (1), làng Cổ Châu, Long Biên. Người Cổ Châu, họ Khương, tên Thông. Dòng dõi Tăng quan, mặt mày sáng sủa, tán tụng trong hay. Thường tập môn Tổng trì đà la ni, xây lưng mà đọc, không sót một chữ.

Trong khoảng Hội Phong (1092-1100), Sư ứng thí kinh Pháp hoa và Bát nhã tại điện vua, đều trúng Giáp khoa. Sau nhờ một lời của Pháp Y, chùa Thành Đạo mà được ấn khả, Sư nhân thế xuất gia.

Lúc đầu, Sư đến ở chùa Thiên Phúc, núi Tiên Du, giới hạnh tinh nghiêm, đạo tâm rộng lớn, ăn lá cây uống nước suối, trải đến sáu sương. Sau đó, Sư trở về làng mình, trùng tu lại chùa Trí Quả mà trụ trì. Trong khoảng Đại Thuận (1128-1132), trời hạn. Vua mời Sư đến kinh cầu mưa thì tức có hiệu nghiệm. Vua phái làm danh tăng, ban cho áo ngự. Mỗi khi nhà nước cầu đảo, Sư đều làm chủ.

Tháng 2 năm Chánh Long Bảo Ứng thứ nhất (1163), Sư đốt hương dạy chúng, rồi nghiễm nhiên ngồi mà mất, thọ 71 tuổi. Đến nay xác thân của Sư đang còn. Người thời (59b1) bấy giờ gọi là Phật sống (6).

Sau này, mặc dù chùa bị cảnh binh lửa, nhưng xác Sư không hề hấn gì.


56. QUỐC SƯ MINH KHÔNG (1066-1141)

Chùa Quốc Thanh, Trường An (1). Người làng Đàm Xá, Đại Hoàng (2), họ Nguyễn, tên Chí Thành.

Sư thường đi du học gặp thiền sư Từ Đạo Hạnh chùa Thiên Phúc. Hạnh mến sư, cho phép theo hầu. Trải qua 17 năm trời làm việc cực khổ, Hạnh khen Sư có chí, bèn dốc lòng ấn hứa và cho tên Minh Không. Đến khi sắp tạ thế, Hạnh gọi Sư nói rằng: “Xưa đức Thế Tôn ta, đạo quả đã tròn mà còn bị quả báo hùm vàng, huống ở đời mạt pháp, công hạnh nhỏ mọn, há mình có thể tự giữ gìn được sao? Ta nay còn phải ra đời, giữ ngôi nhân chủ, lai sinh mắc bệnh, chắc chắn khó tránh. Ta đối với ngươi có duyên, xin nhờ cứu với”.

Hạnh mất rồi, Sư trở về làng cũ, cày cấy hơn 20 năm, không màng tiếng tăm. Lúc bấy giờ Lý Thần Tông mới mắc bệnh lạ, tâm thần rối loạn, tiếng rên la hốt hoảng khiếp đảm, lương y trong thiên hạ (60a1) ứng chiếu đến chữa, đều phải bó tay không thể làm gì được (3). Bỗng nghe có trẻ con ca rằng: “Muốn trị bệnh Thiên tử, phải có Nguyễn Minh Không”. Bèn sai sứ tìm khắp dân gian mới gặp được Sư (4).

Khi Sư đến, tôn túc thạc đức các phương đang ở trên điện làm phép, thấy Sư ăn mặc quê mùa, họ khinh khi không đáp lễ. Sư đến, đem theo một cái đinh lớn, dài hơn 5 tấc, đóng vào cột điện, lên tiếng nói: “Ai có thể nhổ cái đinh đó ra thì trước đáng được tôn trọng”. Nói thế ba lần, chẳng ai dám làm. Sư lại lấy hai ngón tay trái, cầm vào thì đinh theo chúng mà ra. Mọi người đều khíếp phục.

Khi gặp vua, Sư lớn tiếng nói: “Đấng đại trượng phu, giàu sang bốn bể, há lại làm ra những điều cuồng loạn đấy ư?”

Vua rất run sợ, Sư sai lấy một vạc lớn đựng nước nấu sôi tới cả trăm lần, dùng tay quậy lên khoảng bốn lần, rồi tắm vua trong đó. Bệnh liền bớt ngay. Sau vua phong làm Quốc sư, cho thuế vài trăm hộ để tưởng thưởng.

Vào một ngày tháng nào đó của năm Tân dậu Đại Định (5) thứ 2 (1141), Sư mất, thọ (60b1) 76 tuổi (6).


57. THIỀN SƯ BẢN TỊCH [41] (?-1139)

Chùa Chúc Thánh, làng Nghĩa Trú, Bình Lạc (1). Người Tây Kết, họ Nguyễn, hậu duệ của Nội cung phụng đô úy Nguyễn Kha triều Lê. Sớm có nhiều tài, gặp một vị Tăng lạ, lấy làm kỳ nói rằng: “Đứa bé này cốt tướng phi phàm, nếu xuất gia, chắc thành hạt giống của Phật pháp”.

Đến khi lớn, Sư trước đến thọ giáo với Thuần Chân chùa Hoa Quang, rõ được yếu chỉ, rồi lại thọ giới Cụ túc. Chân thấy Sư định lực tròn đầy, giới thể trong sạch, học một biết mười, xoa đầu nói rằng: “Chánh pháp phía Nam, đang đợi ông đến xiển dương”. Từ đó, Sư không còn vướng mắc việc hữu vô, gồm rõ đốn tiệm (2). Đến đâu cũng gieo khắp mưa pháp, xa rải gió huyền, Tăng, Ni dốc theo, người tục ngưỡng mộ.

Ngày 14 tháng 6, mùa hè năm Kỷ Mùi Thiệu Minh thứ 3 (1139), Sư hợp môn đồ, dạy rằng: “Vô sự! Vô sự!”. Nói xong thì mất.


THIỀN UYỂN TẬP ANH
(61a1) THẾ HỆ THỨ MƯỜI BỐN (BỐN NGƯỜI, BA NGƯỜI KHUYẾT LỤC)

58. TĂNG THỐNG KHÁNH HỶ (1067-1142)

Làng Từ Liêm, Vĩnh Khương (1). Người Cổ Giao, Long Biên, họ Nguyễn, dòng dõi tịnh hạnh. Nhỏ không ăn đồ tanh hôi, lớn theo thọ giáo với Bản Tịch chùa Chúc Thánh.

Một hôm, Sư theo Tịch đến cúng một nhà thí chủ. Trên đường đi, Sư hỏi rằng: “Cái gì là ý chính thiền tông của các Tổ?”. Gặp lúc nghe nhà dân đang đánh trống lên đồng, Tịch trả lời: “Ấy chẳng phải là thứ lời đồng bóng, đang triệu thỉnh quỷ thần đó sao?”.

Sư thưa: “Hòa thượng chớ giỡn mãi”.

Tịch nói: “Ta chưa từng giỡn bao giờ”.

Sư không hiểu, bèn từ giã Tịch ra đi, đến Biện Tài ở chùa Vạn Tuế. Biện Tài hỏi: “Ngươi từ đâu đến đây?”

Sư thưa: “Từ Tịch công đến”.

Tài hỏi: “Thầy đó cũng là một bậc thiện tri thức một phương, thế ông ta đã từng nói câu gì?”.

Sư thưa: “Con thờ thầy ấy đã lâu năm, nhưng chỉ hỏi một câu mà thầy không trả lời, nên con bỏ đi”.

Tài hỏi: “Ông hỏi cái gì?”.

Sư kể lại chuyện trước.

Tài bảo: “Ôi! (61b1) Tịch công đã vì ông nói rõ đạo lý, ông chớ phỉ báng Bổn sư của ông”.

Sư trầm ngâm suy nghĩ.

Tài nói: “Không thấy nói: Hiểu được khắp nơi có, không ngộ mãi trái sai?” (2)

Sư bỗng nhiên đốn ngộ, bèn trở về.

Tịch thấy, hỏi:“Ngươi từ đâu đến mau thế?”

Sư lạy nói: “Con có tội hủy báng hòa thượng, nên đến xin sám hối vậy”.

Tịch dạy: “Tướng và tánh của tội vốn không, ngươi làm sao sám hối?”.

Sư đáp: “Xin sám hối như vậy”.

Tịch bèn thôi.

Sư thường cùng hai thiền sư Tịnh Nhãn và Tịnh Như trong khi đứng hầu, Tịch bảo: “Các ông theo học với ta kể đã lâu ngày, vậy mỗi người hãy trình bày điều thấy biết của mình để ta xem mỗi ông tiến đạo như thế nào?”.

Nhãn và Như sắp mở miệng thì Sư quát:
“Một màn che mắt
Hoa đốm rối rơi” (3).

Tịch hỏi: “Xà lê Khánh Hỷ can cớ gì cái thuyền ấy, sao lại đập vỡ cái hộc đo”? (4)

Sư thưa: “Cần gì thuyền”?

Tịch nói: “Thằng ranh mãnh đó, chớ có ồn ào,

Ngươi chỉ giải thoát đến việc bên nầy thôi, còn việc bên kia cũng chưa mộng thấy được”.

(62a1) Sư đáp: “Tuy vậy, chỉ là việc khác thôi”.

Tịch hỏi:
“Buông thả sào trăm thước
Lao đầu một mình đi”.(5)

Ngươi hiểu sao?

Sư giơ hai tay lên đáp: “Không nguy hiểm, không nguy hiểm!”

Tịch nói: “Buông đi tức khắc!”

Từ đó, danh Sư vang khắp tòng lâm. Trong khoảng năm Thiên Chương Bảo Tự (1133-1137), Sư được triệu về kinh, vua khen ngợi việc Sư trình bày đối đáp xứng chỉ, phái làm Tăng lục, rồi thăng làm Tăng thống.

Một hôm, đệ tử Pháp Dung hỏi: “Rõ được sắc không, thì sắc là phàm hay Thánh?”

Sư trả lời bằng bài kệ:
Nhọc đời thôi hỏi sắc cùng không
Học đạo chẳng qua phỏng tổ tông
Thiên ngoại tìm tâm khôn định thể
Nhân gian trồng quế há thành rừng?
Càn khôn gom lại đầu sợi tóc
Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng (6).
Trước mặt nắm tay dùng việc lớn (7)
Ai hay phàm thánh với tây đông

Nói xong, ngày 27 tháng 01 năm Nhâm tuất Đại Định thứ 3 (1142), Sư thị bệnh mà mất, thọ 76 tuổi (8). Có Ngộ đạo ca thi tập lưu hành ở đời (9) [42].


(62b1) THẾ HỆ THỨ MƯỜI LĂM (BA NGƯỜI, MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)

59. THIỀN SƯ GIỚI KHÔNG

Chùa làng Tháp Bát, quận Mãn Đẩu (1). Người quận đấy, họ Nguyễn, tên Tuân, con nhà lương, nhỏ đã ưa Phật giáo. Ban đầu, Sư theo Quảng Phước chùa Nguyên Hòa núi Chân Ma (2). Xuất gia và thọ giới Cụ túc, hầu hạ vài năm, Sư được thiền chỉ. Sư dựng một cái am ở núi Lịch (3). Trải qua 5 năm, chuyên thiền định, sau chống gậy xuống núi, tùy nơi giảng hóa. Đi tới Nam Sách, Sư vào núi Thánh Chúa (4) ở cấm túc 6 năm, tu hạnh đầu đà, đến nỗi sai được quỷ thần theo lệnh, thú dữ đến phục.

Lý Thần Tông trưng mời, Sư nhiều lần từ chối, rồi mới đến. Năm Đại Thuận thứ 8 (5), có nạn dịch lớn, Sư được triệu đến kinh, sắc ở chùa Gia Lâm (6), dùng nước chú giải để trị. Người bệnh lành ngay. Ngày đến cả ngàn, vua rất khen thưởng, cho hộ 10 người để làm cấp dưỡng.

Tuổi già, Sư về làng cũ, trùng tu chùa hoang 95 ngôi khác. Một hôm không bệnh, Sư nói kệ dạy chúng rằng:

(63a1) Ta có một việc kỳ đặc
Chẳng xanh, vàng, đỏ, trắng, đen
Thiên hạ tại gia xuất gia
Yêu sống, ghét chết là giặc
Không biết sống chết khác đường
Sống chết chỉ là được mất
Nếu bảo sống chết khác đường
Dối lừa Thích Ca Di Lặc
Nếu biết sống chết, sống chết
Mới hiểu chỗ ẩn lão tăng
Các ngươi môn nhơn hậu học
Chẳng nhận vòng vo phép tắc

Nói kệ xong, Sư cười lớn một tiếng, chấp tay mà mất. Môn nhân đệ tử là Châu mục Lê Kiếm (8) và Phòng át sứ Hán Đinh làm lễ trà tỳ, thu xá lợi, dựng tháp đúc tượng để hương khói.




CHÚ THÍCH

[26] Có chỗ chép chùa Quốc Thanh phủ Ngệ An
[27] Truyện này đại khái cùng với Quốc sử và Bia văn không giống, nay xin khảo chính lại.
[28] Truyện này với truyện của Huệ Tư trong Truyền đăng đại khái giống nhau. Nay căn cứ vào những gì do Liệt tổ yếu nghĩa của Huệ Nhật chép lại.
[29] Ẩn Không trước ở tại huyện Na Ngạn của Lạng Châu, nên thời bấy giờ gọi là Na Nạn đại sư.
[30] Một tên là Tĩnh Lự
[31] Lại tự ngu tập nói Sư mất không biết ở đâu.
[32] Việc này nói rõ trong truyện của thiền sư Thông Biện
[33] Tên cũ là Diên Uẩn
[34] Sau Cao Biền của nhà Đường đến trấn yểm. Quả đúng.
[35] Tên cũ là Ma Ha Ma Gia
[36] Xưa gọi là Đà phan
[37] Nam tông đồ nói pháp tự của Nam Dương, ấy làm lầm
[38] Về chuyện mộ Đại vương Hiển Khánh thì ban đêm thường vào lúc Sư thiền định, bốn phía mộ đều có tiếng.
Tiếng phía đông nói:
Khánh vạn trường nham với Quế phong
Ruột dê, rồng thế, phụ nhau vờn
Triều tông, Đông Liệt ba trăm thế
Khuyển tuất tới đây nhắm Thiên bồng (16).
Tiếng phía nam nói:
Nam hướng Phù Ninh thần giữ nhà
Đời tươi trai gái lắm người ra
Thiên Đức giàu sang đầy nhà cửa
Bát vạn gặp Nữ thường xuất vua (17).
Tiếng phía tây nói:
Trông tây xa ngóng ngó Thiên Trụ
Trai gái đời cao thượng tướng thủ
Thiên Đức giàu sang cùng thế mãi
Thọ mạng quân vương chín chín đủ (18).
Tiếng phía bắc nói:
Chính bắc Phù Cầm đối Bạch hổ
Yên vui trai gái thường không khổ
Sống lâu Thiên Đức sướng đời đời
Thế thế quân vương cầu Lục Tổ (19).
Sư sai người chép lấy rồi ghi lại mốc giới của ngôi mộ để Sư đến xem. Bèn nói bài kệ rằng:
Đông có Vũ long xóm
Nam có Vũ long bờ
Tây có quán Rừng hạc
Bắc có Trấn hải hồ (20)
Chặng lâu Sư lại nói:
Chỉ trong ba tháng thôi
Thân vệ lên đỡ xã tắc
Lạc trà ấn có chữ Quốc
Mười khẩu xuống nước đất (21)
Gặp thánh gọi Thiên Đức.
Sau vua cải Cổ Pháp làm Thiên Đức (22) ấy bởi đúng lời Sư vậy. Còn những chuyện xảy ra ở các chùa thì đều lấy ra từ Quốc sử, nên đây không chép chúng.
[39] Cứ Nam Tông tự pháp đồ thì nói là tự của Vạn Hạnh. Sợ e sai. Nay y theo bản truyện
[40] Xét Quốc sử thì năm Hội Tường Đại Khánh thứ 8 (1117), con của các hầu Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiến, Thành Hưng được đón vào cung nuôi dạy. Con của Sùng Hiền hầu tuổi mới lên 2, vua rất thương yêu, bèn lập làm Thái tử. Tháng 12 mùa đông năm Thiên Phù Khánh Thọ thứ nhất (1127) vua băng, Thái tử lên ngôi, xuân thu 21 tuổi, ở ngôi thêm 11 năm, thụy là Thần Tông, tức là Sư vậy. Giác Hoàng có người nói là Đại Điên vậy. (22) (23)
[41] Trước tên là Pháp Mật.
[42] Sử ký nói Thiên Chương Bảo Tự thứ 5 (1135) thị tịch. Nay hai thuyết vẫn còn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567