- LỜI DỊCH GIẢ
- Chương 1. LỜI NÓI ĐẦU
- Chương 2. KIẾN LẬP ĐỀ LUẬN
- Chương 3. ĐẠI Ý DUY THỨC
- Chương 4. THỨC NĂNG BIẾN LIỄU CẢNH ( Tri Thức Luận )
- Chương 5. TƯ LƯƠNG NĂNG BIẾN THỨC (Nhân Sanh Luận)
- Chương 6. THỨC A LẠI DA (Alaya) (Bản Thể Luận)
- Chương 7. LUẬN VỀ LÝ TÁNH CỦA DUY THỨC.
- Chương 8. THẬT CHỨNG CỦA DUY THỨC LUẬN
Người giảng: Pháp Sư PHÁP PHẢNG
Người dịch:
CHƯƠNG III
ĐẠI Ý DUY THỨC
I.- GIẢ THUYẾT VỀ VŨ TRỤ NHÂN SANH.
A.- LỜI TỰA:
“DO GIẢ THUYẾT NGÃ PHÁP, HỮU CHỦNG CHỦNG TƯỚNG CHUYỂN”
(Do giả nói đến ngã đến pháp nào thì có các thứ tướng của ngã của pháp đó chuyển biến hiện khởi)
Trên phương diện giải thích đề luận, chúng ta chỉ trình bày qua Thức bên trong mà không có trình bày Cảnh bên ngoài, nhưng trong đó lại phát sanh vấn đề và vấn đề đó như thế nào? Thành Duy Thức Luận đã giải thích vấn đề đó như sau: “Nếu chỉ có Thức, sao thế gian và các Thánh Giáo đều nói có ngã có pháp?” Ý tứ mà nói, ngã pháp đúng như người trong thế gian và trong kinh Phật thường đề cập đến nếu quả thật có thì nhất định ngoài tâm có pháp, sao lại bảo là chỉ có Thức mà thôi? Còn như quả quyết rằng chỉ có Thức bên trong mà không có ngã pháp thì nhất định phạm phải cái lỗi trái ngược với thế gian và trái ngược với Thánh Giáo; một mặt thì nói chỉ có Thức mà không có cảnh bên ngoài, một mặt thì lại nói có ngã có pháp, như thế chẳng phải mâu thuẩn sao? Nếu như không lầm, người trong thế gian đều nói có ngã có pháp và trong kinh Phật cũng nói đến ngã pháp. Chẳng qua người đời đã công nhận ngã pháp và lại chấp trước cho ngã pháp thật tại, đó là sự sai lầm trên lãnh vực nhận thức của họ. Nguyên vì ngã và pháp trên thực tế không phải thật tại, đều là giả danh đã được thiết lập và an bày. Kinh luận Phật Giáo mục đích nói có danh tướng ngã pháp..v..v…. chính là nói có trên tác dụng dựng lập. Chúng ta không thể căn cứ những lời nói trên văn học trên ngôn ngữ lại bảo rằng họ đã chủ trương có “Thật Ngã Thật Pháp”. Cho nên bài Tụng đã trình bày: “Do giả thuyết ngã pháp”. Ý tứ của câu Tụng này là nói tất cả ngã pháp đều do giả tạo dựng lập nên. Vấn đề đây có hai điểm:
* Điểm thứ nhất, người trong thế gian nói có ngã có pháp thì ngã pháp đó đều do nhân duyên sanh ra, chỉ có thể tướng giả tạo, quyết định không có thật tánh, nhưng vì người đời không rõ ngã pháp nói trên thuộc loại ngã pháp duyên sanh và hoàn toàn điên đảo lại chấp cho là chân thật.
* Điểm thứ hai, trong kinh của Phật Giáo và trong ngôn ngữ của các Thánh Giả đều nói đến ngã và pháp, đấy chỉ là giải thích theo danh tự của nhân gian và phương tiện thiết lập theo ý nguyện của nhân gian. Cũng bởi do giả tạo thiết lập này, ngã pháp được tạm cho là có và cũng vì giả tạo nói đến ngã pháp ở trên, các thứ ngã tướng và các thứ pháp tướng tất cả đều hiện hữu.
B.- NGÃ TƯỚNG VÀ PHÁP TƯỚNG:
1)- “NGÔ LÀ GÌ?
a)- Định Nghĩa Chữ Ngã:
Danh từ “Ngã”, tiếng Phạn có ba chữ: Bổ Đặc Già La (dịch là Sổ Thủ Thú tức là chỉ cho con người); hai là A Đắc Ma (Thần ngã hay là linh hồn); ba là Bổ Lỗ Sa ( con người hay là nhân cách). Ba chữ trên đều có thể dịch là Ngã. Chữ Ngã có ba cách định nghĩa:
1)- Nghĩa Chủ Tể: là chỉ cho kẻ có thể chi phối, như nói tôi đi, tôi ngồi, tôi làm..v..v…. là biểu thị Tự Ngã bên trong chi phối và lại có thể chi phối người khác, vấn đề này mọi người thông thường đều có cảm giác.
2)- Nghĩa Thường Trụ: thân thể của ta mặc dù có bị chết có bị hoại diệt, nhưng cái “Ngã” của ta thì thường trụ không bị chết không bị hoại diệt. Như thế gian thường nói: “Tinh thần không chết”, Tinh thần đây tức là đại danh từ của cái Ngã.
3)- Nghĩa Nhất Thể: chữ “Ngã” là nói lên chỉ có một cá thể và quyết định không có hai cá thể, cho nên không bị biến đổi khác đi. Lời nói đây thường biểu hiện cho con người và cũng là hiện tượng chỉ cho bản tánh của con người, như nói: “Giang san dễ cải, bản tánh khó dời”. Hoặc giả nói rằng, cá tánh, đặc tánh, tất cả đều không dễ cải biến. Trong ba thứ ý nghĩa trên, nghĩa Chủ Tể thứ nhất đúng là nghĩa của chữ “Ngã”.
b.- Bản Chất Chữ Ngã
Bản chất của chữ Ngã ở đây cốt yếu là chỉ cho những thứ gì?
1)- Người Tây Phương nói rằng: Linh Hồn chính là Ngã, Linh Hồn thì không thể nhìn thấy, không thể nắm bắt được, nhưng nó lại có thể chi phối, vĩnh viễn không thể bị hoại diệt và sau khi chết có thể sanh lên cõi trời.
2)- Người Ấn Độ nói rằng:
a)- Ngã tức là hiểu biết, là cảm thọ, là mạng sống (sanh mạng), là tri thức và Ngã thì ở trong tri thức.
b)- Phạm tức là Ngã, hoặc gọi là Sanh Chủ, nghĩa là vạn vật đều do Ngã sáng tạo mà vạn vật cũng chính là nơi tạo tác của Ngã, chọn lấy Phạm làm chủ thể sáng tạo và chủ thể thì của tất cả sanh vật. Quan niệm Ngã là Phạm là Chủ Thể đây so với quan niệm Thượng Đế của Gia Tô chủ trương thì sai khác không bao nhiêu. Bản chất của chữ Ngã phân ra thành hai loại: Đại Ngã và Tiểu Ngã. Đại Ngã là đại vũ trụ dùng Thái Dương làm chủ; riêng Tiểu Ngã là tri giác là cảm thọ, chỉ cho sanh mạng của cá nhân và cái Ngã này chính là tiểu vũ trụ của cá nhân. Đây là tư tưởng xưa nay của Bà La Môn Giáo và tư tưởng này biểu tượng cho Nhất Nguyên Luận;
c)- Thần tức là Ngã: lý tưởng Thần Ngã đây thì thuộc về quan niệm của phái Số Luận. Số Luận là một đại học phái trong sáu phái Triết Học Ấn Độ. Phái này chủ trương sự sanh sản của vũ trụ vạn hữu đều do hai loại: một là Thần Ngã, hai là Tự Tánh. Tự Tánh thì không biến động, nhưng Thần Ngã thì có thể biến động. Nhờ Thần Ngã biến động, Tự Tánh mới có thể sanh ra vạn vật, cho nên Thần Ngã có khả năng chi phối tất cả.
d)- Ngã tức là sanh mạng và sanh mạng thì vô lượng vô biên, vô cùng vô tận, đây là giáo nghĩa của Ni Kiền Tử, giáo chủ của Kỳ Na Giáo một phái trong Lục Sư Ngoại Đạo chủ trương;
e)- Phạm Ngã hợp nhất là Chân Ngã. Đây là tư tưởng trung tâm của Phệ Đàn Đa, một phái trong sáu phái Triết Học. Phái này cho rằng, chúng ta có Tiểu Ngã cũng gọi là Tư Ngã, Tiểu Ngã sở dĩ bị câu thúc bởi các phiền não là do cảm thọ tham dục.. v.. v… và cũng từ đó Tiểu Ngã không thể cùng Đại Ngã hoà hợp nơi một chỗ, cho nên phải bị luân hồi chịu khổ. Đại Ngã tức là Phạm và Phạm thì biến khắp tất cả. Tiểu Ngã muốn cùng hòa hợp với Đại Ngã để thoát khỏi các thống khổ thì cốt yếu ở chỗ đem Tư Ngã ra đả phá đi cho tiêu mất thì dễ dàng hợp nhất. Tiểu Ngã một khi hợp nhất được với Đại Ngã thì lúc đó Tiểu Ngã tức là Đại Ngã cũng gọi là Chân Ngã, vì nó đã được giải thoát và đã đạt đến Niết Bàn. Đây là chủ trương của Độc Tử Bộ, một trong các Bộ Phái Phật Giáo, họ chấp trước học thuyết Uẩn Ngã lìa Uẩn Ngã.
c.- Tướng Trạng Của Ngã:
1)- Phổ thông thường nói: con người thì có nhân tướng, có ngã tướng, có thọ giả tướng và thế gian đều thấy như thế: phàm kẻ có hai tay hai chân, có thể nói năng làm việc, có thể sử dụng tâm tư đều là nhân tướng, mà nhân tướng tức là Ngã Tướng. Ngã Tướng thì có tự ngã, có ngã của tri thức của chủ quan. Thọ Giả tức là sanh mạng, cũng là Ngã Tướng, Kinh Đại Bát Nhã nói có mười sáu thứ ngã tướng đều là tên khác của “Ngã Tướng”;
2)- Trên phương diện mê tín: tin tưởng có Phạm, có Thần, có Trời..v..v…. đều là nhân cách hoá, bởi vì những vị đó có thể chi phối, cho nên cũng gọi là Ngã Tướng;
3)- Tướng trạng của các bậc siêu nhân trong thế gian, như tướng trạng của các bậc Thánh, tướng trạng của các bậc Hiền, cho đến tướng trạng của con người, tướng trạng của các Thần Nhân, tướng trạng của các bậc La Hán, tướng trạng của các bậc Bồ Tát, tướng trạng của chư Phật. Đây là một loại Ngã Tướng phi thường vượt hẳn ra ngoài loài người vì thế được gọi là Ngã Tướng Siêu Thế Gian. Cho nên Thành Duy Thức Luận nói rằng: “Ngã đều có các thứ tướng”.
---o0o---