Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Thiền sư Pháp Thuận, Đời thứ 10, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi

29/08/202109:13(Xem: 10991)
12. Thiền sư Pháp Thuận, Đời thứ 10, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi


254_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Phap Thuan



Kính bạch Sư Phụ

Bạch Sư Phụ, con kính xin phép Sư Phụ, con kính cảm ơn Sư Phụ và kính cảm ơn anh Quảng Đại Tâm. Sư Phụ cho biết là anh Quảng Đại Tâm thức dậy sớm và hoan hỷ lái xe và nhất là lúc trời mùa đông gió lạnh, đến tu viện để giúp set up máy móc, chỉnh âm thanh cho Sư phụ livestream giảng pháp online, Sư phụ có nói rõ là chỉnh âm thanh để giúp cho con ở phương xa, già yếu, nặng tai, không nghe rõ, hôm nay có hệ thống âm thanh mới sẽ giúp nghe từ đầu đến cuối, không có gì trở ngại cả, nên rất biết ơn anh.

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học về Thiền Sư Pháp Thuận (914-990). Ngài thuộc thế hệ thứ 10 của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi tại Việt Nam.


Bài pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 254 của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh đại dịch COVID 19.

Sư họ Đỗ, không rõ quê quán ở đâu, Sư xuất gia từ thuở bé, thọ giới với thiền sư Long Thọ Phù Trì. Sau khi đắc pháp, Sư nói lời nào cũng phù hợp sấm ngữ.


Sư Phụ giải thích: Sấm ngữ là những lời bí mật ẩn nghĩa mà chư vị Thiền Sư không thể không nói ra rõ ràng, sợ lộ thiên cơ hay những sự việc sẽ xảy ra trong tương lai. Người đời sau có duyên, thông minh, nhìn vào đó có thể đoán định, giải thích mà làm theo. Ví dụ câu sấm ngữ của Thiền Sư Định Không:

“Thập bát tử định thành
Thố kê thử ngoạt nội”

Chi
ết tự từ 3 chữ Thập, Bát, Tử thành chữ Lý, ý chỉ cho Lý Công Uẩn; Thỏ Gà trong tháng Chuột, ý chỉ cho Vua Lý Công Uẩn đăng quang lên làm Vua vào tháng 11 năm 1009 (Kỷ Dậu, năm con gà). Đây là lời thơ sấm của TS Định Không nói ra vào năm 808, tức là trước sự kiện xảy ra đến 201 năm.


Nhà tiền Lê mới dựng nghiệp, thường mời Sư vào triều luận bàn việc chính trị và ngoại giao. Khi quốc thái dân an, Sư không nhận sự phong thưởng chức tước, Sư về an trú ở chùa Cổ Sơn,  vì thế vua Lê Đại Hành rất kính trọng, không dám gọi tên, chỉ gọi là Đỗ Pháp Sư. Nhà vua nhờ Sư trông coi việc soạn thảo văn kiện, thư từ ngoại giao.

Sư Phụ giải thích, thiền sư Pháp Thuận để lại tấm gương sáng ngời của bậc xuất trần thượng sĩ, đã cố vấn giúp vua giai đoạn đầu xây dựng sự nghiệp, bảo vệ nền tự trị cho đất nước Việt Nam, là niềm tự hào của Phật giáo. Nhà vua không tin theo Nho giáo vì nhà nho theo thuyết thiên mệnh, an phận để nước Việt như là một tỉnh nhỏ làm chư hầu nô lệ Tàu.

Năm Thiên Phước thứ bảy (986), nhà Tống sai sứ là Lý Giác sang phong tước hiệu cho vua Lê Đại Hành. Vua nhờ Sư Pháp Thuận cải trang làm lái đò để đón sứ. Trên sông, bất chợt sứ thần Lý Giác thấy hai con ngỗng bơi, cảm hứng liền ngâm:
        Song song ngỗng một đôi
        Ngửa mặt ngó ven trời
          ( Nga nga lưỡng nga nga
            Ngưỡng diện hướng thiên nha).
Sư Pháp Thuận đang chèo, ứng khẩu ngâm tiếp:
      Lông trắng bơi dòng biếc
      Sóng xanh chân hồng bơi
       (Bạch mao phô lục thủy
         Hồng trạo bãi thành ba).
Sư phụ giải thích: Lý Giác rất thán phục vì bài thơ Lý Giác ngâm là bài thơ từ triều đại nhà Đường mà sao người lái đò biết mà ứng khẩu tài tình. Ngài Đỗ Pháp Sư nói ở nước tôi ai cũng biết. Lý Giác nể người chèo thuyền và nghĩ rằng người chèo thuyền giỏi như vậy thì tất nhiên dân Việt có nhiều nhân tài.


 
Kính mời xem tiếp






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/04/2013(Xem: 5599)
Kinh A Di Đà (Phạn: Sukhàvatyamrta-vỳuha) còn gọi là kinh Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm, kinh Chư Phật Sở Hộ Niệm, kinh Tiểu Vô Lượng Thọ, là một bản kinh ngắn của Phật giáo Bắc truyền, nhưng rất quan trọng đối với tín ngưỡng Tịnh độ, là một trong 3 bản kinh căn bản của tông Tịnh độ.
04/04/2013(Xem: 5446)
Từ ngữ A-hàm (Àgama) nói theo nghĩa rộng là chỉ cho những giáo thuyết được truyền thừa, hoặc các Thánh điển do sưu tập các giáo thuyết ấy tạo thành. Do vậy, thông thường nói Kinh A-hàm tức chỉ cho 4 bộ hoặc 5 bộ Thánh điển của Phật giáo Nguyên thủy.
03/04/2013(Xem: 5370)
Kinh Duy Ma Cật xuất hiện vào thế kỷ thứ hai sau Tây lịch, nay không còn trọn nguyên văn chữ Phạn, dịch thuật chỉ dựa vào bản Hán và Tây Tạng. Trước có 6 bản dịch, nay còn chỉ 3 bản: 1. Phật thuyết Duy Ma Cật kinh, Chi Khiêm đời Ngô dịch, 2 quyển. 2. Duy Ma Cật Sở Thuyết kinh, do Cưu Ma La Thập dịch, gồm 3 quyển. 3. Thuyết Vô Cấu Xưng kinh, do Huyền Trang dịch, gồm 6 quyển.
03/04/2013(Xem: 4903)
Kinh tạng Nikàya, Pàli và A-hàm Hán tạng là những bộ kinh thuộc Phật giáo truyền thống, còn gọi là Kinh tạng Nguyên thủy. Đó là những bộ kinh chứa đựng những gì Đức Phật đã dạy suốt trong 45 năm truyền giáo, gồm những giáo lý căn bản như Tứ diệu đế, Duyên khởi, Vô ngã ...
03/04/2013(Xem: 5424)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật. Trong số 500 Tỳ kheo này, 499 vị đã đắc quả A La Hán, chỉ trừ tôn giả A Nan.
03/04/2013(Xem: 5025)
Sau khi Phật Niết bàn độ 100 năm, các Tỳ kheo Bạt Kỳ ở Tỳ Xá Ly đề ra 10 điều phi pháp như sau: 1/ Tỳ kheo ăn muối gừng để dành qua đêm vẫn hợp pháp, 2/ Tỳ kheo ăn xong, nhận được thức ăn khác, dùng hai ngón tay cầm thức ăn để ăn vẫn hợp pháp, 3/ Tỳ kheo ăn xong, rời khỏi chỗ, rồi ngồi ăn lại vẫn hợp pháp, ...
03/04/2013(Xem: 5049)
Sau Phật Niết bàn 100 năm thì Đại hội kết tập Pháp Tạng lần thứ hai diễn ra, và sau lần kết tập lần thứ 2 đúng 118 năm lại diễn ra cuộc kết tập lần thứ 3. Như vậy lần kết tập này xảy ra sau Phật Niết bàn 218 năm, tức là 325 năm trước Tây lịch. Đại hội lần này do Hoàng đế A Dục (Asoka) đề xướng và bảo trợ .
03/04/2013(Xem: 8345)
Sau Phật Niết bàn khoảng 400 năm, tại nước Kiền Đà La (Gandhàra) có vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishca) trị vì, đất nước phú cường, danh vang khắp nơi ,các nước xung quanh đều quy phục. Trong những lúc rảnh rỗi việc triều đình, nhà vua thường đọc kinh Phật. Mỗi ngày vua thỉnh một vị cao tăng vào cung thuyết pháp.
03/04/2013(Xem: 5162)
Sau lần kết tập pháp tạng thứ tư đúng 2015 năm thì đến lần kết tập pháp tạng thứ 5. Theo sự ghi chép của Pàli giáo sử chương 6 và sử Miến Điện; thì vào năm 1871, quốc vương Miến Điện là Mẫn Đông (Mindon - tại vị từ 1853 - 1878) đứng ra triệu tập 2400 vị cao tăng, cử hành kết tập Tam tạng giáo điển lần thứ 5, tại thủ đô Man-Đức -Lặc (Mandalay), chính quốc vương làm người hộ pháp.
03/04/2013(Xem: 6121)
Đại Tạng Kinh chữ Hán là một bộ tổng vựng các kinh sách Phật Giáo, nhưng bao gồm rất nhiều lĩnh vực như : triết học, lịch sử, ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật, lịch toán, y dược, thiên văn... Đây là một kết tinh của văn hóa Trung Quốc và văn hóa nước ngoài có ảnh hưởng sâu xa đối với sự phát triển của văn hóa thế giới.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567