Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Đa Bảo Như Lai 🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃

27/01/202108:11(Xem: 10739)
Đức Đa Bảo Như Lai 🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃






Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ,

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học bài kệ thứ 26 đảnh lễ Đức Phật Đa Bảo Như Lai.


Bài kệ được Sư Phụ diễn xướng như sau :

Nhất thiết vô niết bàn

Vô hữu niết bàn Phật

Vô hữu Phật niết bàn

Viễn ly giác sở giác

Nhược hữu nhược vô hữu

Thị nhị tắc câu ly.

Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Quá khứ cửu viễn thành Phật Đa Bảo Như Lai.

Cư Sĩ Hạnh Cơ dịch Việt:

Không có gì gọi là niết bàn.

Không hề có niết bàn Phật chứng,

Cũng không có Phật chứng niết bàn.

Xa lìa cả năng giác, sở giác,

Dứt bặt hai ý niệm có, không.

Một lòng kính lạy đức Đa Bảo Như Lai, thành Phật từ thời quá khứ xa xôi. 





Sư Phụ giải thích đây là bài kệ thượng thừa của Phật giáo đại thừa phá vỡ nhị nguyên về Niết bàn Phật tánh, giúp hành giả thấy vô ngã, sanh tử, niết bàn là không.
Không có niết bàn, cũng không có Phật chứng niết bàn, vì mặt trái của phiền não là Bồ đề, hết phiền não Bồ đề sẽ hiện ra.

Niết là không

Bàn là khổ đau

Không còn khổ đâu là niết bàn

Niết là không

Bàn là tham, sân, si

Không còn tham, sân, si là niết bàn.

Bồ đề và phiền não, vô minh và Phật tánh, chỉ là tên gọi chung giúp ta phân biệt lằn ranh của 1 bản tâm chung bên trong ta mà thôi, khi nhận ra lằn ranh này thì phải phá bỏ nó đi. Thiền Sư Vĩnh Gia Huyền Giác đã nói rõ điều này trong chứng đạo ca, ngài đã phá khái niệm nhị nguyên này qua bài Chứng Đạo Ca:


"Vô minh thực tánh tức Phật tánh,

Ảo hóa không thân tức pháp thân.

Pháp thân giác liễu vô nhất vật,

Bổn nguyện tự tánh thiên chân Phật,

Ngũ ấm phù vân không khứ lai,

Tam độc thủy bào hư xuất một".


Cư Sĩ Trúc Thiên dịch Việt:

"Tánh thực vô minh tức Phật tánh,
Thân không ảo hóa tức Pháp thân.

Pháp thân giác rồi không một vật,
Vốn nguồn tự tánh thiên chân Phật.
Năm ấm: ảo hư mây lại qua
Ba độc: huyễn hoặc bọt còn mất".


Đứng trước mọi trạng huống, nếu luôn giữ chánh niệm, làm chủ tâm thức chính mình để không bị giao động bởi tình cảnh bên ngoài, thì thản nhiên tự tại, đó là giác ngộ.

Sư Phụ giải thích về Đức Phật  Đa Bảo phẩm Hiện Bảo Tháp, thứ 11 của Kinh Pháp Hoa:

Sư phụ đọc một đoạn trong chánh kinh, bản dịch của HT Thích Trí Tịnh:

"Lúc bấy giờ, trước Phật có tháp bằng bảy báu, cao năm trăm do-tuần, ngang rộng hai trăm năm mươi do-tuần, từ dưới đất nổi lên trụ ở giửa hư không; các món vật báu trau giồi, năm nghìn bao lơn, nghìn muôn phòng nhà, vô số tràng phan để nghiêm sức đó, chuỗi ngọc báu rủ xuống, muôn nghìn linh báu treo trên tháp. Bốn mặt đều thoảng đưa ra mùi hương gỗ ly-cấu chiên-đàn khắp cùng cả cõi nước.

"Khi ấy đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật dùng ngón tay hữu mở cửa tháp bảy báu vang ra tiếng lớn, như tháo khóa chốt mở cửa thành lớn.Tức thời tất cả chúng trong hội đều thấy đức Đa-Bảo Như-Lai ở trong tháp báu ngồi tòa sư-tử, toàn thân không rã như vào cảnh thiền định lại nghe Phật đó nói: “Hay thay! Hay thay! Thích-Ca Mâu-Ni Phật sướng thích nói kinh Pháp-Hoa đó, ta vì nghe kinh đó mà đến cõi này.”

"Bấy giờ, hàng tứ chúng thấy đức Phật đã diệt độ vô lượng nghìn muôn ức kiếp về trước nói lời như thế đều khen là việc chưa từng có, đều đem hoa trời báu rải trên đức Phật Đa-Bảo và Phật Thích-Ca Mâu-Ni. Lúc đó đức Đa-Bảo Phật ở trong tháp báu chia nửa tòa cho Thích-Ca Mâu-Ni Phật mà nói rằng: “Thích-Ca Mâu-Ni có thể đến ngồi trên tòa này.” Tức thời đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật vào trong tháp báu ngồi xếp bằng trên nửa tòa đó"

 
Sư phụ giải thích ý nghĩa bảo tháp:

Về sự: bảo tháp có hình dáng bên ngoài như ta thường thấy, có thể sờ mó, xúc chạm được

Về lý: bảo tháp tượng trưng cho thân ngũ uẩn của mỗi chúng sanh, trong thân ngũ uẩn này có Phật tánh bất sanh bất diệt từ ngàn xưa cho đến mãi ngàn sau. 

Về lý là khai thị ngộ nhập tri kiến Phật cho tất cả chúng sanh.

Về sự, khi Đức Phật Thích Ca giảng kinh Pháp Hoa, Đức Phật Đa Bảo trong bảo tháp từ dưới đất vọt lên để dự nghe kinh Pháp Hoa.
Về lý, từ đất vọt lên là từ bản thể tâm địa tự có trong mỗi chúng sanh.
Đa Bảo là pháp thân thường tịch tịnh, tỉnh lặng trong sáng luôn có trong chơn tâm phật tánh của trong mỗi chúng sanh.
Đa bảo ví như những tinh chất trân quý của Ngọc, san hô mã não..., tiền tài, danh vọng của thế gian.
Về lý, Phật tánh như hư không, không vướng mắc thực chất, hư vọng của thế gian.

Đức Phật Thích Ca tự thân đến mở cửa tháp bằng tay phải, và Đức Phật Đa Bảo ngồi qua một bên, mời Đức Phật Thích Ca ngồi cạnh bên.
Đức Phật Thích Ca thu tất cả phân thân trong khắp mười phương về cùng một chỗ.
Về lý, gom tâm về thành một tâm Chân Như Phật tánh hằng luôn tỏa sáng trong mỗi chúng sanh.

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ giảng rõ nghĩa Đức Đa Bảo Như Lai từ trong bảo tháp dưới đất vọt lên là sự, về lý là từ tâm địa trong mỗi chúng sanh luôn trong sáng, là Chơn tâm Phật tánh Đa Bảo Như Lai hằng có trong tự thân mỗi chúng sanh và riêng con được thắm nhập nghĩa kinh lúc con đang lễ lạy phẩm nầy trong Kinh Pháp Hoa.

Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
(Montréal, Canada).
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Cung kính và tri ơn Sư Phụ,

Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
(Montréal, Canada).


26_TT Thich Nguyen Tang_Duc Da Bao Nhu Lai


Đa Bảo
chính Thất  Bảo Tâm Linh vô giá !


Kính dâng Thầy bài thơ trình pháp về Đức Đa Bảo Như Lai.
Phải nghe đi nghe lại mới trân quý nghi thức tụng niệm của HT Thích Trí Thủ
mà Thầy đã truyền trao Thất bảo tâm linh mà mãi đến bây giờ con mới đủ duyên thọ nhận.
Kính đa tạ và tri ân Thầy, kính chúc Thầy pháp thể khinh an, vô lượng cát tường, HH



Chư Phật  mười phương, khó hữu duyên tìm hiểu hết 
Biển pháp mênh mông , cõi nước hà sa 
Chỉ khi nào trì tụng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa 
Đức Đa Bảo  Như Lai xuất hiện ....phẩm thứ mười một 


Hiện Bảo Tháp giữa trên không cao tột 
Hồng danh Ngài ...tài bảo thọ dụng mãn đời 
Vì có sẵn trong tự tánh mà thôi 
Đây là một trong Thất Bảo Như Lai ...niệm niệm 


Mông Sơn thí thực công phu chiều ...hiệu nghiệm 
Hương linh cô hồn, ly phiền não ..khổ đau 
Dứt bặt vướng mắc ..thấm đạo nhiệm mầu 
Thần lực khó nghĩ bàn...CÓ....KHÔNG  nghĩa lý 


Tại Vân Cương...tháp tạo  bằng trân bảo quý 
Biểu thị cõi Phật nào cũng vàng bạc trân châu 
Từ dưới đất hiện lên, ....ấy tâm địa ẩn sâu 
Khi tâm gom một chỗ ....Tánh Giác hiển lộ !


Đa tạ Giảng Sư ... câu kệ tụng ...đạt Ngộ ! 
" Không có gì gọi là Niết Bàn 
Không có Niết Bàn Phật chứng 
Cũng không có Phật chứng Niết Bàn
Không hề có năng giác và sở giác 
Dứt bặt ý  niệm  Có và Không" 


Nghi thức tụng niệm từ Cố Hoà Thượng Thích Trí Thủ 
Dù chưa  phổ biến rộng rãi trong giới Tu sinh 
Hậu bối hải ngoại ...duyên lành  kết tinh 
Nguyện ....Trì tụng hầu phá vỡ nhị nguyên tri kiến ! 


Giáo Chủ  Bảo Tịnh Đông Độ ( Phật Đa Bảo ) sẽ ...xuất hiện ! 


Nam Mô Quá Khứ Cửu Viễn Thành Phật Đa Bảo Như Lai.


Huệ Hương 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/04/2013(Xem: 5453)
Từ ngữ A-hàm (Àgama) nói theo nghĩa rộng là chỉ cho những giáo thuyết được truyền thừa, hoặc các Thánh điển do sưu tập các giáo thuyết ấy tạo thành. Do vậy, thông thường nói Kinh A-hàm tức chỉ cho 4 bộ hoặc 5 bộ Thánh điển của Phật giáo Nguyên thủy.
03/04/2013(Xem: 5379)
Kinh Duy Ma Cật xuất hiện vào thế kỷ thứ hai sau Tây lịch, nay không còn trọn nguyên văn chữ Phạn, dịch thuật chỉ dựa vào bản Hán và Tây Tạng. Trước có 6 bản dịch, nay còn chỉ 3 bản: 1. Phật thuyết Duy Ma Cật kinh, Chi Khiêm đời Ngô dịch, 2 quyển. 2. Duy Ma Cật Sở Thuyết kinh, do Cưu Ma La Thập dịch, gồm 3 quyển. 3. Thuyết Vô Cấu Xưng kinh, do Huyền Trang dịch, gồm 6 quyển.
03/04/2013(Xem: 4917)
Kinh tạng Nikàya, Pàli và A-hàm Hán tạng là những bộ kinh thuộc Phật giáo truyền thống, còn gọi là Kinh tạng Nguyên thủy. Đó là những bộ kinh chứa đựng những gì Đức Phật đã dạy suốt trong 45 năm truyền giáo, gồm những giáo lý căn bản như Tứ diệu đế, Duyên khởi, Vô ngã ...
03/04/2013(Xem: 5440)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật. Trong số 500 Tỳ kheo này, 499 vị đã đắc quả A La Hán, chỉ trừ tôn giả A Nan.
03/04/2013(Xem: 5031)
Sau khi Phật Niết bàn độ 100 năm, các Tỳ kheo Bạt Kỳ ở Tỳ Xá Ly đề ra 10 điều phi pháp như sau: 1/ Tỳ kheo ăn muối gừng để dành qua đêm vẫn hợp pháp, 2/ Tỳ kheo ăn xong, nhận được thức ăn khác, dùng hai ngón tay cầm thức ăn để ăn vẫn hợp pháp, 3/ Tỳ kheo ăn xong, rời khỏi chỗ, rồi ngồi ăn lại vẫn hợp pháp, ...
03/04/2013(Xem: 5059)
Sau Phật Niết bàn 100 năm thì Đại hội kết tập Pháp Tạng lần thứ hai diễn ra, và sau lần kết tập lần thứ 2 đúng 118 năm lại diễn ra cuộc kết tập lần thứ 3. Như vậy lần kết tập này xảy ra sau Phật Niết bàn 218 năm, tức là 325 năm trước Tây lịch. Đại hội lần này do Hoàng đế A Dục (Asoka) đề xướng và bảo trợ .
03/04/2013(Xem: 8361)
Sau Phật Niết bàn khoảng 400 năm, tại nước Kiền Đà La (Gandhàra) có vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishca) trị vì, đất nước phú cường, danh vang khắp nơi ,các nước xung quanh đều quy phục. Trong những lúc rảnh rỗi việc triều đình, nhà vua thường đọc kinh Phật. Mỗi ngày vua thỉnh một vị cao tăng vào cung thuyết pháp.
03/04/2013(Xem: 5171)
Sau lần kết tập pháp tạng thứ tư đúng 2015 năm thì đến lần kết tập pháp tạng thứ 5. Theo sự ghi chép của Pàli giáo sử chương 6 và sử Miến Điện; thì vào năm 1871, quốc vương Miến Điện là Mẫn Đông (Mindon - tại vị từ 1853 - 1878) đứng ra triệu tập 2400 vị cao tăng, cử hành kết tập Tam tạng giáo điển lần thứ 5, tại thủ đô Man-Đức -Lặc (Mandalay), chính quốc vương làm người hộ pháp.
03/04/2013(Xem: 6125)
Đại Tạng Kinh chữ Hán là một bộ tổng vựng các kinh sách Phật Giáo, nhưng bao gồm rất nhiều lĩnh vực như : triết học, lịch sử, ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật, lịch toán, y dược, thiên văn... Đây là một kết tinh của văn hóa Trung Quốc và văn hóa nước ngoài có ảnh hưởng sâu xa đối với sự phát triển của văn hóa thế giới.
03/04/2013(Xem: 7570)
Kinh Tạp A Hàm là một trong tứ A Hàm. Sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, năm trăm đại đệ tử kết tập kinh điển ở thành Diệp Quật, những kinh điển sau khi được thẩm định, mới chính thức trở thành chuẩn mực tu tập cho hàng Thánh chúng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567