Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh Phật Thuyết Xuất Gia Duyên

02/01/202013:18(Xem: 3776)
Kinh Phật Thuyết Xuất Gia Duyên

          buddha_painting 2
Nam
 Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Kinh Phật thuyết xuất gia duyên, thuộc  Kinh số 791 thuộc tạng CBETA hoặc trang 214-216 thuộc quyển  58, tạng Càn Long. Nội dung Kinh ở hai tạng giống nhau từng chữ. Kinh nói về lời dạy của Phật với vị cư sĩ Nan Đề và các vị đang có mặt về quả báo khi phạm năm giới của người tu tại gia.

Người dịch xin thành kính tri ân Hòa thượng Thích Tịnh Thông, Dược Sư Phật Đường, Dartford, Anh Quốc; Phật tử Định Tuệ đã giúp đỡ trong việc tu học.       

          

PHẬT THUYẾT XUẤT GIA DUYÊN KINH

Hán dịch: Đời Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao,

người nước An Tức

Tôi nghe như vầy.

Một thời, Bà Già Bà ở trên núi Kì Xà Quật thuộc thành Vương Xá, cùng với đông đủ một ngàn hai trăm năm mươi đại Tỳ kheo tăng.

Bấy giờ, Nan Đề Ưu bà tắc cùng năm trăm Ưu bà tắc, ra khỏi thành Vương Xá đến núi Kì Xà Quật gặp Phật. Đến nơi, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật, rồi quỳ gối chắp tay bạch Phật: Đại Đức! Xin được nghe năm giới Ưu bà tắc, phạm vào chánh giới có những việc xấu nào xảy ra?,

Phật đáp: Nan Đề Ưu bà tắc!

Nếu hại sinh mạng có mười việc xấu.  Những gì là mười?

Đời hiện tại luôn lo sợ bị giết hại; Đời sau sinh ra có tâm đầy ác hiểm; Luôn bị kẻ khác bức hại, thù oán không dứt; Người thấy không vui; Suy nghĩ nhiều về việc ác, thấy người khác là sợ hãi; Ngủ không an giấc; Nằm ngủ thấy ác mộng, tỉnh giấc run sợ hãi hùng; Khi chết thì cuồng loạn mê man; Sau khi chết, sinh vào địa ngục; Dù được làm người, nhưng mang nhiều bệnh mạng sống yếu ớt.

Đó là mười quả báo xấu.

 

Trộm cắp tài vật của người khác, có mười việc xấu. Những gì là mười?

Người đó có lòng tham lam sâu nặng; Thường bị mọi người nghi ngờ; Từ trộm cắp có thể gây ra trọng tội khác; Hành động lén lút, phi pháp; Bạn bè phản bội, người tốt xa lánh; Người trộm cắp thường chịu quả báo tức thì; Thường bị tra xét, phải bồi thường tài sản hoặc mất mạng; Đánh mất uy tín và tự mình gieo nghiệp xấu; Khi chết sinh vào địa ngục; Dù được làm người, đói lạnh khổ sở, thậm chí tiền của có nhiều cũng khó được hưởng; Dù được một ít tiền của, nhưng thường lo sợ người cai trị phát giác, giặc cướp, nước, lửa và vợ con chiếm đoạt, nay vừa cất giấu, mai biết được sẽ lấy mất.

Đó là mười quả báo xấu.

 

Tà dâm có mười việc xấu. Những gì là mười?

Người chồng thường bị vợ mình tra xét với lời ác độc; Nhà cửa tan nát; Việc thiện tiêu diệt, việc ác tăng thêm; Nguy ách hại đến thân; Không quản thúc được vợ mình; Không nắm giữ được của cải; Thường bị người nghi ngờ; Dòng họ bà con không tin cậy; Gieo nghiệp như vậy, gia đình không trong sạch lương thiện; Khi chết sinh vào địa ngục, giả sử được làm thân nữ thì làm vợ nhiều người; nếu được làm thân nam giong ruổi theo tà dâm, bỏ rơi vợ mình.

Đó là mười quả báo xấu.

 

Nói dối có mười việc xấu. Những gì là mười?

Miệng thường hôi thối; Người tốt tránh xa; Ác quỷ dễ xâm nhập; Lời nói thật lưu truyền ở đời, khắp nơi đều không tin; Ở đời bị làm việc nặng; Lời nói của mình không có ý nghĩa; Tiếng xấu đồn xa; Bị người xem thường, không được cung kính; Tuy có nói thật nhưng người không tin theo; Khi sống luôn lo sợ người đời chê bai, khi chết sinh vào địa ngục, dù được làm người thường bị chê bai.

Đó là mười quả báo xấu.

 

Uống rượu có ba mươi lăm quả báo xấu. Thế nào là ba mươi lăm?

Của cải tiêu tan; Gặp các khổ hoạn; Oán thù, tranh cãi tăng thêm nặng; Để lộ thân thể; Tiếng xấu lan khắp xa gần; Thông minh trí tuệ ngày càng giảm bớt; Của cải sự nghiệp tiêu tan; Việc xấu xuất hiện; Không lo nghĩ về việc sự nghiệp; Đầu óc mê mang; Dung nhan tiều tụy; Khinh thường bậc tôn trưởng; Không biết cúng dường Sa môn, Bà la môn; Ở nhà mình không phân biệt lớn nhỏ; Không tôn kính Phật; Không trọng đại Pháp; Chẳng kính việc Tăng; Gần gũi người ác; Xa rời người trí; Rơi vào đường tà; Tâm không biết hổ thẹn; Không giữ gìn sáu căn; Hôn mê dâm dục; Mọi người đều ghét; Người thấy không vui; Các bậc Tôn túc đều đến quở trách; Rủ rê làm việc ác; Cậy dùng thế lực; Sống vô trách nhiệm; Bậc trí đức ẩn tránh; Sống không khác loài voi; Cách xa Niết bàn; Gieo nghiệp cuồng loạn mê hoặc; Thân chết sinh vào địa ngục, dù được làm người ngu si tối tăm.

 

Bấy giờ, Nan Đề Ưu bà tắc và năm trăm vị thanh tín sĩ, chư Thiên, người đời, bốn chúng đệ tử, nghe Đức Phật nói đều vâng mạng thọ trì, cúi đầu nhiễu quanh xong, vui mừng lui ra.

 

                                                                                             Bản Nôm         

          Phật thuyết xuất gia duyên Kinh 

Hậu Hán An Tức quốc Tam Tạng An Thế Cao dịch

 

Như thị ngã văn nhất thời Bà Già Bà tại Vương Xá thành Kì Xà Quật sơn, dữ Đại Tỳ kheo tăng câu, thiên nhị bách ngũ thập.

Thị thời, Nan Đề Ưu bà tắc dữ ngũ bách Ưu bà tắc xuất Vương Xá thành, thượng Kì Xà Quật sơn vãng nghệ Phật sở, đầu diện lễ túc, trường quỵ xoa thủ vấn Phật

Đại Đức !nguyện văn Ưu bà tắc ngũ giới; hủy phạm chánh giới hữu hà ác sự ?

Phật đáp; Nan Đề Ưu bà tắc!

Sở hại sanh mạng hữu thập ác sự.

Hà đẳng thập ?

Hiện thế thường hoài hại tâm; đời hiện tại luôn lo sợ bị giết hại. hậu thế độc tâm long hách, hằng bị thống hại; oán oán bất tức, nhân bất hỉ kiến; tư lự đa ác, kiến giả bố cụ; miên bất an mị; mộng tức hoàng bố; giác tức kinh quý; tử thời cuồng bột, chủng đoản mạng tài; thân hoại mạng chung sanh địa ngục trung; thiết đắc vi nhân đa bệnh thiểu mạng. Thị vi thập ác sự.

Thâu kiếp tha tài, hữu thập ác sự.

Hà đẳng thập?

Tham thiết thâm trọng, hằng vi chúng nghi; năng hưng trọng ác, hành tức phi thời, động tức phi pháp; thân hữu ác nghịch, hiền lương sơ viễn; bại giới quả cảm; thường cụ vương tý, tu tài thị mạng; chủng di bảo vật; bần tệ chi nghiệp; thân hoại mạng chung sanh địa ngục trung; thiết đắc vi nhân, cơ hàn khốn khổ, trí tài lương nan, tuy hoạch thiểu tài, ngũ sự cọng chi Vương, tặc, thủy, hỏa cập ác thê tử; kim nãi tạng mai, hội diệc đương thất. thị vi thập ác sự.

Tà dâm hữu thập ác sự.

Hà đẳng thập?

Thường vi kỳ phu tý bộ sở độc, thất gia bất hòa; thiện pháp tiêu kiệt, bất thiện pháp tăng; nguy bại khu thân; bất kiểm kỳ thê, bất thủ tài hối; thường vi nhân nghi, tông thân bất tín; chủng nghiệp như thị; môn bất trinh khiết; thân hoại mạng chung sanh địa ngục trung; thiết đắc vi nữ, phi độc nhất chủ; thiết đắc vi nam, trì sính tà dâm, tự thất kỳ thê. thị thập ác sự.

Vọng ngữ trung hữu thập ác sự.

Hà đẳng thập?

Khẩu thường xú lạn; thiện thần bối bạn, hung quỷ dịch lăng; thật ngôn lưu thế, chúng sở bất tín; tục vi trọng sự, bất tại ngôn nghị; vị hữu thật sự, ác danh viễn văn, vi nhân khinh hủy, bất khởi cung túc; tuy ngôn hữu thật, nhân bất phụng dụng; đa hoài sầu bố; chủng phỉ báng nghiệp; thân tử mạng chung sanh địa ngục trung; thiết đắc vi nhân, thường bị phỉ báng. thị thập ác sự.

Ẩm tửu hữu tam thập ngũ ác.

Hà đẳng tam thập ngũ ?

Tán tận tài hối; trí chúng khổ hoạn; oán tránh tăng trọng; lỏa lộ hình khu; ác danh hà nhĩ; tuệ minh nhật giảm; ưng đắc bất đắc; dĩ đắc tiện thất; hiển dương ác sự; yếu vụ đốn phát ưu Thích chi bổn; hoảng hốt biến một; nhan mạo bỉ ác; khinh mạn tôn trường; bất tri cúng dường Sa môn, Bà la môn; tự ư thất gia bất biện tôn ti; bất tông kính Phật; bất sùng đại pháp; bất kính sự tăng; phản thân ác nhân; viễn ly minh năng; băng trụy tà đạo; vô tàm quý tâm; bất hộ căn môn; hôn hoang dâm dục; chúng sở bất ái; nhân bất hỉ kiến; đức sĩ tú cựu hàm lai cữu trách; tập tạo chúng ác; yếu dụng chi thế, bất dự thức nhâm; trí đức ẩn tị; tượng loại bất biệt; khứ nê hoàn viễn; chủng cuồng hoặc nghiệp; thân tử mạng chung sanh địa ngục trung; thiết đắc vi nhân, ngu si ngoan quý.

Thị thời, Nan Đề Ưu bà tắc cập ngũ bách thanh tín sĩ, chư Thiên, thế nhân, tứ bối chi chúng, văn Phật sở thuyết, tất mạng thọ trì, đầu diện nhiễu cánh, dũng duyệt nhi khứ.

 

Bản Hán tạng Càn Long

han tang can long 1
han tang can long 2

han tang can long 3

                       

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/04/2013(Xem: 16709)
Sau khi Ðức Thế Tôn thành đạo, Ngài suy nghĩ rằng: "Con đường ly dục là con đường tốt nhất để đạt được sự thanh tịnh. An trú trong đại thiền định mới hàng phục được chúng ma". Ở tại vườn Lộc Uyển, Ngài chuyển bánh xe pháp về 4 chân lý độ cho 5 anh em Kiếu Trần Như đều chứng được đạo quả.
04/04/2013(Xem: 7394)
Giới thiệu: Trong bài kinh nầy, Đức Phật tóm tắt các điều cần yếu của một cư sĩ Phật tử: thọ trì Tam Quy (Phật-Pháp-Tăng), thực hành Ngũ Giới, và sống theo tinh thần "tự lợi, lợi tha", giúp cho bản thân được thăng tiến và đồng thời cũng giúp đỡ, khuyến khích người khác cùng được thăng tiến trong Chánh Pháp.
04/04/2013(Xem: 7403)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch : Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp", nghĩa là pháp tối thượng (PHIÊN DỊCH DANH NGHĨA TẬP 4), cũng dịch là "giáo", là "truyền", nghĩa là giáo pháp được lần lượt truyền trao nhau (NHẤT THIẾT KINH ÂM NGHĨA 24)
04/04/2013(Xem: 10958)
Kinh A Di Đà là một bản kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của Phật tử ở các nước Viễn Đông châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của kinh luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin; và trong lòng người hành trì, kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau, không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.
04/04/2013(Xem: 7128)
1. Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (Phạn ngữ: Mahà-Prajnàpàramità- Sùtra) là bộ kinh vĩ đại nhất của Phật giáo Bắc truyền, xét về số lượng cũng như diệu lý. Kinh gồm 600 quyển, chiếm tới 3 tập với 3.000 trang in khổ lớn của Đại Tạng Kinh Đại Chính Tân Tu (ĐTK/ĐCTT, No 220, các tập 5,6,7), do Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng (602-664) dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán.
04/04/2013(Xem: 5281)
Vaisâli (Tỳ-da-li), thủ phủ của Vajji (Bạt-kỳ), một cường quốc theo chế độ cộng hòa thị tộc của người Vajji, mà các lân bang quen gọi là Licchavì, là một đô thị phát triển trù phú thời đức Thích Tôn tại thế, và những người Licchavì giàu có, vinh quang, được ví như các thiên thần cõi trời Ðao-lợi (Trayastrimsa).
04/04/2013(Xem: 6018)
Kinh Giải Thâm Mật gồm năm quyển do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch tại chùa Hoằng Phúc niên hiệu Trinh Quán thứ 21 (năm 647) đời Ðường. Tương truyền bản tiếng Phạn bộ kinh này có mười vạn bài tụng, bản dịch hiện nay là bản lược dịch có một ngàn năm trăm bài tụng, chia làm 8 phẩm. Trước đó, quyển kinh này đã có ba bản dịch
04/04/2013(Xem: 5519)
Kinh Hoa Nghiêm, gọi đủ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, là bộ kinh điển trọng yếu hiển bày ý nghĩa tuyệt vời về nhân hạnh quả đức của Phật-đà như tạp hoa trang nghiêm rộng lớn viên mãn, vô tận vô ngại, qua các vị Bồ-tát lớn Phổ Hiền, Văn-thù, sau khi Phật thành đạo tại các nơi như Bồ Đề Tràng v.v…
04/04/2013(Xem: 6088)
Kinh Pháp Hoa là một trong những bộ kinh lớn của hệ thống Kinh tạng Đại thừa Phật giáo, được các học giả phương Tây cho là 1 trong 20 Thánh thư phương Đông. Sự hành trì tụng niệm một cách sâu rộng và bền bỉ của Phật tử đối với Kinh Pháp Hoa cho thấy rằng đây là một bộ kinh đặc biệt về cả hai mặt triết lý và huyền bí. Ở Việt Nam, Kinh Pháp Hoa được trì tụng hàng ngày như một thời khóa tu học kể cả chư tăng lẫn Phật tử tại gia.
04/04/2013(Xem: 5622)
Kinh A Di Đà (Phạn: Sukhàvatyamrta-vỳuha) còn gọi là kinh Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm, kinh Chư Phật Sở Hộ Niệm, kinh Tiểu Vô Lượng Thọ, là một bản kinh ngắn của Phật giáo Bắc truyền, nhưng rất quan trọng đối với tín ngưỡng Tịnh độ, là một trong 3 bản kinh căn bản của tông Tịnh độ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567