Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phẩm 17: Phân tích thành quả

06/05/201316:13(Xem: 13731)
Phẩm 17: Phân tích thành quả

Kinh Pháp Hoa (Hoa sen của Chánh pháp)

Phẩm 17: Phân tích thành quả

Hòa thượng Thích Trí Quang

Nguồn: http://www.thuvienhoasen.org

Khi nghe đức Thế Tôn nói về thời lượng đời sống của ngài bất tận như vậy, đại hội có vô lượng vô số chúng sinh được ích lợi lớn lao. Ngài bảo đức Di Lặc, Như Lai nói về sự bất tận như vậy của đời sống Như Lai thì có chúng sinh nhiều bằng rất nhiều con số trăm triệu hằng sa thực hiện tuệ giác Không sinh. Lại có bồ tát nhiều gấp ngàn lần số ấy được tổng trì Nghe nhớ, có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền một thế giới hệ được các tài hùng biện mà trong đó có sự Biện thuyết, có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền một thế giới hệ được tổng trì Xoay chuyển vô số; có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền một đại thiên quốc độ có thể chuyển đẩy bánh xe chánh pháp Không còn thoái chuyển, có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền một trung thiên quốc độ có thể chuyển đẩy bánh xe chánh pháp Hào quang trong sáng; có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền một tiểu thiên quốc độ chỉ tám đời nữa thì được Tuệ giác vô thượng, có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền bốn lần bốn đại lục nhân loại chỉ bốn đời nữa thì được Tuệ giác vô thượng, có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền ba lần bốn đại lục nhân loại chỉ ba đời nữa thì được Tuệ giác vô thượng, có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền hai lần bốn đại lục nhân loại chỉ hai đời nữa thì được Tuệ giác vô thượng, có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền một lần bốn đại lục nhân loại chỉ một đời nữa thì được Tuệ giác vô thượng. Lại có chúng sinh nhiều bằng bụi nhỏ nghiền tám thế giới hệ đều phát tâm Tuệ giác vô thượng.

Khi đức Thế Tôn phân tích chư vị bồ tát được lợi ích của Pháp vĩ đại như vậy thì trong không gian mưa xuống hoa mạn đà và hoa mạn đà lớn, rải trên chư Phật ngồi trên tòa sư tử ở dưới vô lượng trăm ngàn vạn ức cây ngọc, rải trên đức Thích Ca và trên đức Phật nhập diệt đã lâu là đức Đa Bảo cùng ngồi trên tòa sư tử ở trong bảo tháp, rải trên tất cả bồ tát và bốn chúng. Trong không gian lại mưa xuống phấn của các hương liệu đại loại như đàn hương, trầm thủy. Cũng trong không gian, trống chư thiên tự kêu vang lên, âm thanh tuyệt diệu, nghe xa; lại mưa xuống cả ngàn loại vải chư thiên; và rủ xuống khắp cả chín phương hướng là những chuỗi ngọc đại loại như chuỗi chân châu, chuỗi ma ni, chuỗi như ý. Bao nhiêu là lư hương, làm bằng các thứ ngọc và ở trong đốt hương liệu vô giá, tự chuyển động đến khắp tất cả, hiến cúng toàn thể pháp hội lớn lao. Các bên ở trên mỗi đức Phật, các vị bồ tát cầm bảo cái có mắc phan phướn, tuần tự mà lên đến Phạn thiên; các vị bồ tát ấy còn đệm âm thanh tuyệt diệu, ngâm hát vô số thi ca mà tán dương chư Phật.

Vào lúc ấy, đức Di Lặc từ chỗ ngồi đứng đậy, trần vai bên phải, chắp tay hướng về đức Thế Tôn mà nói những lời chỉnh cú sau đây:

(1) Pháp Thế Tôn nói
thật là hiếm có!
xưa nay chúng con
chưa từng nghe đến!
Thần lực Thế Tôn
thật là vĩ đại!
Đời sống Thế Tôn
thật là bất tận!
(2) Vô số con Phật
hoan hỷ tràn ngập
khắp cả cơ thể,
khi nghe Thế Tôn
phân tích như sau,
về bao nhiêu người
đạt được lợi ích
của Pháp vĩ đại:
(3) Có số thành bậc
Không còn thoái chuyển,
có số thu hoạch
tổng trì Nghe nhớ,
có số thành tựu
về sự Biện thuyết,
số được tổng trì
Xoay chuyển vô số.
(4-Có số bồ tát
7) nhiều bằng bụi nhỏ
một cõi đại thiên
có thể chuyển đẩy
bánh xe chánh pháp
Không còn thoái chuyển,
có số bồ tát
nhiều bằng bụi nhỏ
một cõi trung thiên
có thể chuyển đẩy
bánh xe chánh pháp
Hào quang trong sáng.
Lại có bồ tát
nhiều bằng bụi nhỏ
một cõi tiểu thiên
chỉ tám đời nữa
thì được thực hiện
Tuệ giác Phật đà,
có số bồ tát
nhiều bằng bụi nhỏ
bốn ba hai lần
bốn châu đại lục
chỉ còn bốn đời
ba đời hai đời
thì được trở thành
một đức Phật đà,
có số bồ tát
nhiều bằng bụi nhỏ
một bốn đại lục
chỉ một đời nữa
thì được Tuệ giác
của đấng Toàn giác.
Các vị như vậy
nghe nói đời sống
bất tận của ngài,
cùng thực hiện được
thành quả trong suốt,
thuần khiết, vô hạn.
Lại còn chúng sinh
nhiều bằng bụi nhỏ
tám thế giới hệ
nghe đức Thế Tôn
nói về đời sống
bất tận của ngài,
ai cũng phát Tâm
tuệ giác vô thượng.
(8) Thế Tôn tuyên thuyết
đời sống bất tận,
thật đúng là Pháp
ngoài tầm nghĩ bàn,
Pháp làm nhiều người
được bao lợi ích,
Pháp như không gian
không có biên cương.
(9) Đế Thích, Phạn Vương,
số lượng nhiều như
cát của sông Hằng,
từ nơi vô số
quốc độ của Phật
cùng nhau đến đây,
rải như mưa xuống
hoa của chư thiên
như hoa mạn đà
và mạn đà lớn.
(10) Họ như chim bay
di chuyển trong không;
phấn các hương liệu
đàn hương, trầm thủy,
được họ rải xuống
hoa mắt như mưa,
hiến cúng các đấng
Tuệ giác hoàn toàn.
(11) Trống của chư thiên
ở trong không gian
tự nhiên gióng lên
âm thanh tuyệt diệu.
Và vải chư thiên
cả ngàn vạn loại
xoay chuyển trong không
mà cùng rủ xuống.
(12) Những lư hương đẹp
và làm bằng ngọc,
ở trong lại đốt
hương liệu vô giá,
tự động di chuyển
đến khắp tất cả,
hiến cúng các đấng
Tôn cao nhất đời.
(13) Chư đại bồ tát
cầm những bảo cái
có mắc phan phướn
và được làm bằng
bảy chất liệu quí,
đã cao lại đẹp,
số lượng nhiều đến
vạn ức chủng loại,
tuần tự lên đến
tầng trời Phạn thiên.
(14) Trước mỗi đức Phật,
các ngài lại dựng
cột cờ cao đẹp,
trên mắc phan đẹp.
Lại đem ngàn vạn
những bài thi ca,
ngâm hát ca tụng
chư Phật Thế Tôn.
(15) Bao nhiêu sự trạng
đến như thế này,
thì gian trước đây
thật chưa từng có,
xuất từ bao người
cực kỳ hoan hỷ
khi nghe Thế Tôn
nói về thời lượng
đời sống vô lượng
của đức Thế Tôn.
(16) Tiếng nói Thế Tôn
vang cả mười phương,
ích lợi rộng lớn
cho bao chúng sinh,
làm cho tất cả
đủ những thiện căn
hỗ trợ phát Tâm
tuệ giác vô thượng.

Đức Thế Tôn bảo đức Di Lặc, người nào nghe đời sống Như Lai bất tận như vầy, thì dẫu đến nỗi chỉ phát sinh được một ý niệm tin hiểu mà thôi, công đức người ấy đã không có hạn lượng. Thiện nam hay thiện nữ nào vì cầu tuệ giác vô thượng mà trải qua rất nhiều trăm triệu thời kỳ, thực hành năm pháp ba la mật là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, ngoại trừ bát nhã, công đức của người này đem sánh với công đức của người trước, thì không bằng một phần trong trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn ức phần, cho đến toán số ví dụ cũng không có khả năng đem lại sự xác định. Thiện nam hay thiện nữ nào có công đức trước mà thoái chuyển đối với tuệ giác vô thượng là điều không thểcó.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa này nên nói những lời chỉnh cú sau đây:

(17) Những ai vì cầu
tuệ giác của Phật,
trải qua rất nhiều
trăm triệu thời kỳ
thực hành đủ cả
năm ba la mật --
(18-Bằng cách suốt cả
19) thì gian như vậy,
thực hành bố thí
hiến cho khắp cả,
lại hiến cúng Phật
và đệ tử Phật
là chư thanh văn,
duyên giác, bồ tát,
đồ ăn đồ uống
loại quí và lạ,
đồ nằm đồ mặc
loại thượng hảo hạng.
(20) Đem gỗ đàn hương
mà cất tinh xá,
và lập vườn rừng
mà trang hoàng thêm.
(21) Hiến cúng như vậy
đã nhiều lại tốt,
và trọn thì gian
đã nói ở trên,
rồi đem xoay về
cầu tuệ giác Phật.
(22) Còn giữ tịnh giới
thì rất trong sạch,
không có thiếu sót
không hề lọt mất,
rồi đem xoay về
cầu tuệ vô thượng,
và được chư Phật
ca tụng tán dương.
(23) Thực hành nhẫn nhục
thì đứng vững vàng
ở nơi vị trí
thuần hóa, ôn nhu,
bao nhiêu điều ác
đổ đến nơi mình,
tâm trí người ấy
vẫn không dao động.
(24) Những kẻ tự xưng
là người đắc pháp,
trong lòng ôm giữ
sự tăng thượng mạn;
bị kẻ như vậy
khinh ngạo quấy phá,
sự tồi tệ này
cũng vẫn nhẫn được.
(25) Cần mẫn tinh tiến
thì chính trí nhớ
thường xuyên vững chắc,
vô lượng thời kỳ
chuyên tư duy tu
không hề nhác nghỉ.
(26) Vô số thời kỳ
ở chỗ trống vắng,
hoặc là tọa thiền
hoặc là kinh hành,
dẹp bỏ ngủ nghỉ
tập trung tâm trí.
(27) Nhờ nhân tố này
phát sinh thiền định,
trải qua tám chục
vạn ức thời kỳ,
tâm trí đứng yên
không có loạn động.
(28) Rồi đem cái phước
nhất tâm như vậy
nguyện cầu đạt được
tuệ giác vô thượng,
rằng khi đạt đuợc
sự toàn giác ấy
thì cũng cùng tận
biên cương thiền định.
(29) Người nào trải qua
vạn ức thời kỳ,
làm các pháp trên
mà được công đức,
(30) và người thiện nam
hay thiện nữ nào
nghe Như Lai nói
đời sống Như Lai,
thì dầu chỉ có
một lúc tin hiểu,
công đức người này
vẫn hơn người trên.
(31) Người này hoàn toàn
không có tất cả
những nỗi hoài nghi
những sự hối tiếc,
đem tâm sâu xa
mà tin chốc lát,
vẫn được công đức
đến như thế ấy.
(32) Các vị bồ tát
vô số thời kỳ
thực hành các pháp
đã nói như trên,
thì nghe Như Lai
nói về đời sống
bất tận của Phật
là tin nhận được.
(33) Các vị cúi đầu
kính nhận Pháp Hoa,
và cầu nguyện rằng
trong thì vị lai
con cũng có được
đời sống vô tận
để mà hóa độ
vô tận chúng sinh.
(34) Và như Thế Tôn,
vị Sư tử chúa
của dòng họ Thích,
trong thì hiện tại,
đã đến mà ngồi
nơi bồ đề tràng,
cất tiếng vang lên
như sư tử gầm,
thuyết pháp một cách
không sợ hãi gì;
(35) nguyện con sau này
trong thì vị lai,
cũng được mọi người
ai cũng tôn kính,
cũng đến mà ngồi
nơi bồ đề tràng,
cũng nói đời sống
bất tận của Phật
với một phong cách
y như Thế Tôn.
(36) Ai có tâm trí
sâu xa, trong sáng,
thẳng tắp như vậy,
lại còn nghe nhiều
và nhớ đầy đủ,
và theo nghĩa ý
mà lý giải được
lời Như Lai nói,
những người như vậy
không nghi Pháp này.

Lại nữa, Di Lặc, nếu có người nào chỉ nghe Như Lai nói về sự bất tận của đời sống Như Lai mà hiểu được ý hướng của sự nói nhưvậy, thì người ấy được công đức vô hạn lượng, có năng lực phát khởi tuệ giác vô thượng của Như Lai; huống chi đối với toàn bộ Pháp Hoa mà tự nghe một cách đầy đủ và khuyên người nghe, tự nhớ và khuyên người nhớ, tự chép và khuyên người chép, tự đem hoa, hương, vòng hoa, cờ, phan, lọng dù bằng lụa dày, đèn dầu thơm và đèn bơ sữa bò mà hiến cúng cuốn kinh ấy, thì công đức người này vô hạn lượng, có năng lực phát sinh tuệ giác Biết tất cả.

Di Lặc, thiện nam hay thiện nữ nào nghe Như Lai nói sự bất tận của đời sống Như Lai mà tin hiểu bằng tâm trí sâu xa, thì như vậy là thấy Như Lai thường ở tại Linh sơn, thuyết pháp cho chư vị bồ tát và thanh văn bao quanh; thấy thế giới hệ Kham nhẫn này đất bằng lưu ly, bằng phẳng ngay thẳng, dây vàng Diêm phù đàn phân ranh tất cả đường sá thành những đường ngã tám, cây ngọc có hàng có lối, lầu đài toàn do vàng ngọc hợp thành và có các bồ tát ở trong đó. Ai quán tưởng thấy được như vậy thì đại sĩ phải biết đó là sắc thái của sự tin hiểu sâu xa.

Thêm nữa, sau khi Như Lai nhập diệt, ai nghe Pháp Hoa mà không phỉ báng, biết tùy hỷ, thì đại sĩ phải biết như thế cũng đã là sắc thái của sự tin hiểu sâu xa; huống chi tùy hỷ rồi còn biết đọc tụng kính giữ kinh ấy, thì như vậy là đỉnh đầu người ấy đã đội Như Lai. Di Lặc, người như vậy, không kể thiện nam hay thiện nữ, đã không cần xây tháp làm chùa cho Như Lai, đã không cần kiến thiết tăng xá và đem bốn sự mà hiến cúng chư Tăng. Tại sao, vì thiện nam hay thiện nữ ấy đọc tụng kính giữ Pháp Hoa là đã xây dựng chùa tháp mà hiến cúng Như Lai, đã kiến thiết tăng xá mà hiến cúng chư Tăng; là đã hiến cúng Như Lai bằng cách đem xá lợi của Như Lai mà xây tháp bằng bảy chất liệu quí báu, chu vi rất rộng, và vừa cao vừa nhỏ dần cho đến tận tầng trời Phạn thiên, treo những bảo cái mà ở dưới có mắc phan phướn, treo những chuông nhỏ quí báu, dâng các loại hoa, vòng hoa, các hương liệu, đánh các thứ trống và tấu các nhạc khí như ống tiêu ống sáo và đàn hầu, biểu diễn các vũ khúc và hý kịch, ca hát ngâm vịnh mà xưng tụng tán dương bằng âm thanh tuyệt diệu; là đã hiến cúng Như Lai bằng cách này trong vô lượng ngàn vạn ức thời kỳ. Di Lặc, sau khi Như Lai nhập diệt, ai nghe Pháp Hoa mà có thể tiếp nhận kính giữ, tự mình và khuyên người sao chép ấn hành, thì như vậy là đã tạo lập tăng xá bằng cách đem gỗ đàn hương đỏ mà làm ba mươi hai sở cung điện và nhà chính, cao bằng tám cây đa la, rộng rãi, tôn nghiêm và mỹ thuật, trong đó có thể ở đến hàng trăm ngàn tỷ kheo; lại có vườn rừng và hồ tắm, có đường để kinh hành, có động để tọa thiền; có đầy đủ đồ mặc, đồ nằm, đồ uống, đồ ăn, dược phẩm và mọi thứ tiện nghi -- đã tạo lập tăng xá như vậy có đến mấy trăm ngàn vạn ức, số lượng vô lượng, mà hiến cúng hiện diện cho Như Lai và tỷ kheo tăng.

Do vậy mà Như Lai nói rằng, sau khi Như Lai nhập diệt, đối với Pháp Hoa, có ai tiếp nhận kính giữ, bằng cách đọc tụng, diễn giảng cho người, tự mình và khuyên người sao chép ấn hành, lại còn xây dựng chùa tháp mà hiến cúng Như Lai, còn tạo lập tăng xá mà hiến cúng với sự tán dương Thanh văn tăng, còn đem trăm ngàn vạn ức phong cách tán dương mà tán dương Bồ tát và công đức của Bồ tát, còn vận dụng mọi thứ yếu tố, tùy theo nghĩa ý mà diễn giảng Pháp Hoa cho người, còn giữ giới thanh tịnh, ở chung với những người thuần hóa, còn ẩn nhẩn chứ không giận dữ, trí nhớ vững chắc, thường quí tọa thiền mà thực hiện các định sâu xa, tinh tiến dũng mãnh mà thu thập các pháp lành, lợi căn, trí tuệ, khéo đáp mọi sự gạn hỏi -- Di Lặc, sau khi Như Lai nhập diệt, thiện nam hay thiện nữ nào kính giữ Pháp Hoa mà còn có những pháp lành như vậy, thì đại sĩ phải biết những người ấy đã bước mau đến nơi bồ đề tràng, sắp ngồi dưới bồ đề thọ mà hoàn mãn vô thượng giác. Di Lặc, những người ấy đứng ngồi hay kinh hành ở đâu, những chỗ ấy nên xây dựng bảo tháp mà hiến cúng Như Lai, và nhân loại với chư thiên nên hiến cúng bảo tháp này như hiến cúng bảo tháp tôn trí xá lợi của Như Lai.

Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây:

(37) Sau khi Như Lai
nhập niết bàn rồi,
ai có năng lực
kính giữ Pháp Hoa,
thì sự vô lượng
của phước người ấy
là như Như Lai
đã nói ở trên.
(38) Người như thế ấy
là đã làm đủ
mọi sự hiến cúng
đối với Như Lai
bằng cách xây tháp
mà thờ xá lợi,
tháp ấy trang hoàng
bảy thứ quí báu,
(39) trụ vàng tiêu biểu,
chu vi rất rộng,
càng cao càng nhỏ
cao đến Phạn thiên,
(40) chuông nhỏ quí báu
có ngàn vạn ức,
gió động kêu lên
âm thanh tuyệt diệu;
(41-bằng cách trải qua
42) vô lượng thời kỳ,
hiến cúng tháp ấy
với hoa và hương,
các loại vòng hoa,
vải lụa chư thiên,
diễn tấu kịch nhạc,
đốt đèn dầu thơm
và bơ sữa bò
thường sáng quanh tháp.
(43) Thời kỳ dữ dội
mạt vận giáo pháp,
những ai có thể
kính giữ Pháp Hoa,
thì người như vậy
là đã làm đủ
các cách hiến cúng
đã nói trên đây.
(44) Ai kính giữ được
Diệu Pháp Liên Hoa,
thì như Như Lai
khi còn ở đời
họ đem đàn hương
tạo lập tăng xá
hiến cúng Như Lai
và Tỷ kheo tăng.
Tăng xá như vậy
những ngôi nhà chính
mà đã có đến
ba mươi hai sở,
cao bằng tám cây
đa la đại thọ;
(45) thực phẩm hảo hạng,
đồ nằm đồ mặc
toàn loại tinh tế,
đủ mọi tiện nghi
thành nơi cư trú
trăm ngàn chư Tăng;
(46) có vườn có rừng
có những hồ tắm
có đường kinh hành
có động tọa thiền,
tất cả toàn là
tôn nghiêm mỹ thuật.
(47-Đối với Pháp Hoa,
51) những ai tin hiểu
một cách sâu xa,
kính giữ bằng cách
đọc tụng sao chép
khuyên người sao chép,
hiến cúng cuốn kinh
bằng cách dâng lên
các loại bông hoa
các thứ hương liệu,
đem các loại hoa
thích ý, kim sắc,
cùng hoa long thỉ,
ướp dầu mà đốt;
hiến cúng như vậy
được vô lượng phước.
(52) Ví như không gian
vô cùng vô tận,
cái phước như vầy
cũng vô cùng tận.
(53) Những người chỉ có
kính giữ Pháp Hoa
mà đã như vậy,
huống chi những người
kính giữ kinh ấy
mà còn làm cả
bố thí trì giới
nhẫn nhục thiền định;
(54) không có giận dữ
không có ác miệng,
hết lòng tôn kính
chùa tháp thờ Phật,
lại rất khiêm tốn
đối với tỷ kheo,
xa rời tính khí
tự cao tự đại;
(55) thường xuyên tu tập
tư duy, trí tuệ,
có ai gạn hỏi
thì không bực tức
mà lại tùy thuận
giải thích cho họ.
(56) Kính giữ Pháp Hoa
và làm như vậy,
công đức người ấy
không thể lượng định.
(57) Gặp được những người
kính giữ Pháp Hoa,
thành đạt công đức
đến như thế này,
(58) thì nên tung rải
hoa của chư thiên,
đem vải chư thiên
phủ mình người ấy,
đem cả đầu mặt
mà lạy ngang chân,
trong lòng nghĩ tưởng
người ấy như Phật.
(59) Lại nghĩ người ấy
không bao lâu nữa
đến bồ đề tràng
được tuệ giác Phật,
tuệ giác không còn
sơ hở, vọng động,
ích lợi sâu rộng
cho cả trời người.
(60) Và chỗ người ấy
cư trú, kinh hành,
cho đến giảng nói
một bài chỉnh cú,
(61) đều nên xây tháp
tôn nghiêm mỹ thuật
mà hiến Như Lai,
kế đó lại còn
dâng cúng tháp ấy
đủ cả mọi sự.
(62) Vì chỗ con Phật
cư trú như vậy
cũng chính là chỗ
Như Lai sử dụng,
thường xuyên cư trú,
kinh hành, nằm ngồi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 18192)
Hơn 2542 năm tồn tại và phát triển cùng nhân loại, triết lý Phật giáo được hình dung như một cội cây đang phát triển với đầy đủ cội gốc, thân, cành lá và hoa trái. Như thế khi truyền bá giảng dạy Kinh điển Phật giáo phải thể hiện tính chất thống nhất, dung thông các hệ tư tưởng Phật giáo và hướng đến giác ngộ giải thoát cho mọi người.
08/04/2013(Xem: 18025)
Ở đây nên ghi thêm về 2 điều. Một là kinh này liên hệ Pháp hoa. Hai là kinh này liên hệ Khởi tín. Kinh này không công nhận nhị thừa có niết bàn. Ngay tư tưởng hệ tứ đế, nhị thừa cũng chưa thấu hiểu tận cùng. Nhưng nhị thừa có khả năng xoay về đại thừa, tin mà nhập được đại thừa
08/04/2013(Xem: 18115)
Bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng: Ăn Chay là một Pháp tu An Cư Kiết Đông kỳ 15 (2014) Bồ Tát Chuẩn Đề Bố Thí & Cúng Dường (giảng chung với ĐĐ Viên Tịnh) Cam Lồ (chương trình phát thanh) Chánh Kiến Chánh Ngữ Chùa Phật Tổ Chùa Từ Bi Công Đức Lễ Phật Cuộc đời của Đức Phật Đại Trí - Đại Hạnh Đại Hội Khoáng Đại kỳ 5 (trả lời phỏng vấn đài VOA) Đạo Tràng Liên Trì Bồ Tát Chuẩn Đề Chánh Kiến Chánh Ngữ Chùa Phật Tổ Chùa Từ Bi Chú Lăng Nghiêm (phỏng vấn HT Huyền Tôn) Công Đức Lễ Phật Cuộc đời của Đức Phật Đại Trí - Đại Hạnh Đạo Tràng Liên Trì Giới thiệu Lương Hoàng Sám Hành Trạng Bồ Tát Quán Thế Âm Hôn Nhân Dị Giáo (giảng chung với HT Như Điển) Khai mạc khóa tu Kinh Phước Đức Kinh Địa Tạng Kinh Na Tiên Tỳ Kheo (giảng chung với HT Bảo Lạc) Kinh Chân Hạnh Phúc Luân Hồi & Tái Sinh Lục Độ Lục hòa Lục Độ Ba La Mật (giảng chung với TT Phổ Hương) Mắt Thương Nhìn Đời Mười hạnh tu của Bồ Tát Phổ Hiền Mừng Xuân Ất Dậu 2005 Nhân quả và nghiệp
08/04/2013(Xem: 37421)
Ðạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Ðạo Phật. Dân chúng thường nói "Ðạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
05/04/2013(Xem: 18587)
Sau khi Ðức Thế Tôn thành đạo, Ngài suy nghĩ rằng: "Con đường ly dục là con đường tốt nhất để đạt được sự thanh tịnh. An trú trong đại thiền định mới hàng phục được chúng ma". Ở tại vườn Lộc Uyển, Ngài chuyển bánh xe pháp về 4 chân lý độ cho 5 anh em Kiếu Trần Như đều chứng được đạo quả.
04/04/2013(Xem: 8600)
Giới thiệu: Trong bài kinh nầy, Đức Phật tóm tắt các điều cần yếu của một cư sĩ Phật tử: thọ trì Tam Quy (Phật-Pháp-Tăng), thực hành Ngũ Giới, và sống theo tinh thần "tự lợi, lợi tha", giúp cho bản thân được thăng tiến và đồng thời cũng giúp đỡ, khuyến khích người khác cùng được thăng tiến trong Chánh Pháp.
04/04/2013(Xem: 8214)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch : Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp", nghĩa là pháp tối thượng (PHIÊN DỊCH DANH NGHĨA TẬP 4), cũng dịch là "giáo", là "truyền", nghĩa là giáo pháp được lần lượt truyền trao nhau (NHẤT THIẾT KINH ÂM NGHĨA 24)
04/04/2013(Xem: 11827)
Kinh A Di Đà là một bản kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của Phật tử ở các nước Viễn Đông châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của kinh luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin; và trong lòng người hành trì, kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau, không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.
04/04/2013(Xem: 7853)
1. Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (Phạn ngữ: Mahà-Prajnàpàramità- Sùtra) là bộ kinh vĩ đại nhất của Phật giáo Bắc truyền, xét về số lượng cũng như diệu lý. Kinh gồm 600 quyển, chiếm tới 3 tập với 3.000 trang in khổ lớn của Đại Tạng Kinh Đại Chính Tân Tu (ĐTK/ĐCTT, No 220, các tập 5,6,7), do Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng (602-664) dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán.
04/04/2013(Xem: 5912)
Vaisâli (Tỳ-da-li), thủ phủ của Vajji (Bạt-kỳ), một cường quốc theo chế độ cộng hòa thị tộc của người Vajji, mà các lân bang quen gọi là Licchavì, là một đô thị phát triển trù phú thời đức Thích Tôn tại thế, và những người Licchavì giàu có, vinh quang, được ví như các thiên thần cõi trời Ðao-lợi (Trayastrimsa).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]