Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Dấu Ấn Văn Hóa Của Một Vùng Đất

20/03/202220:03(Xem: 3853)
Dấu Ấn Văn Hóa Của Một Vùng Đất


DẤU ẤN VĂN HÓA CỦA MỘT VÙNG ĐẤT

Ninh Giang Thu Cúc

***


Đất nước Việt Nam trải dài trên ba miền với hình cong chữ S thanh mảnh mà đoạn giữa như vòng eo con gái tuổi tròn trăng, trên địa hình thon hẹp đó có một nơi chốn được mang tên: Huế. Khi nói đến địa danh trên chúng ta thấy hiện ra trước mắt mình hai biểu tượng đẹp của xứ sở này là: Sông Hương và Núi Ngự. Hai cái tên ấy đã là một trong những điều kiện để cố đô Huế được công nhận là di sản văn hóa thế giới.

1. Sông Hương:
Trước tiên là sông Hương, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có một tùy bút mang tên: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Vậy ai là người đặt tên cho con sông mà người xưa đã từng ca ngợi:
“Hương Giang như kiếm lập thiên thanh”

Đã có nhiều truyền thuyết qua bao thế hệ kể rằng: “Từ xa xưa dọc hai bên thượng nguồn của con sông này có một loại cây dại chiều cao chừng một mét, thân cây gầy guộc song vô cùng cứng cáp, cành lá sum suê và cứ mỗi mùa Xuân là từ nách lá mọc ra rất nhiều chùm hoa màu trắng muốt, thơm dịu dàng; đến cuối Xuân hoa tàn và rơi lả tả xuống dòng nước đang lững lờ trôi, cả một vùng sông nước thượng nguồn mở căng lòng để đón nhận mùi, vị, và thân xác của loài hoa ấy, một loài hoa được mang tên: Thạch Xương Bồ.


song huong


Theo tháng năm và mùa vụ hoa Thạch Xương Bồ cứ tiếp tục sinh trưởng kết hoa trên một vùng trời nước mênh mang, xác hoa trôi ra biển, nhưng hương hoa và hồn hoa thì cứ vương vấn trên dòng nước trong veo của con sông một mùi thơm dịu nhẹ man man của hồn hoa trinh bạch. Vì thế, các cụ bô lão trong những buổi phiếm luận tửu hậu trà dư đã cao hứng đặt cho con sông một tên gọi mỹ miều: Sông Hương.

Chẳng hổ danh với tên gọi, Sông Hương đã mang một trọng trách lớn lao là tôn tạo cảnh quan thẩm mỹ cho kinh thành Huế - nếu thiếu dòng sông này thì Huế sẽ ra sao?

Một dòng sông có năm màu trên mặt nước từ lúc mặt trời lên cho đến hoàng hôn, rồi chạng vạng - đã đem lại cho con dân của xứ sở này lòng tự hào và niềm cảm xúc cho bao khách văn chương bản địa và mọi vùng miền; ai đã đến Huế mà không rung động với dòng sông xanh biếc in bóng mây trời và chiếc cầu màu trắng bạc, sáu vai mười hai nhịp kết nối đôi bờ để các nàng nữ sinh kiều mị ngày hai buổi qua về trong tà áo dài trắng e ấp, và nón bài thơ hờ hững móc trên ghi đông xe đạp buổi tan trường.

Sông Hương – dòng sông mượt mà dịu mát như lụa Hà Đông ấy đã in bóng bao thế hệ công dân của sứ sở, và bao học sinh, sinh viên từ những ngày bình yên hai buổi cắp sách đến trường… đến những giai đoạn dầu sôi lửa bỏng – sông Hương đều làm kẻ chứng nhân và nạn nhân ngậm ngùi với bao vân cẩu tang thương.
Sông Hương – vạch chia cắt hai bờ tả, hữu ngạn của kinh thành – là một nét đẹp đoan nghiêm, trầm lắng như tính cách của những con người được sinh trưởng nơi đây.
Sông Hương – một trong những dấu ấn văn hóa của đất kinh kỳ thơ mộng, một biểu trưng, một hình tượng đặc thù mà không phải thành phố nào trên đất nước này có được – nét duyên dáng thâm trầm cổ kính lại rất lãng mạn hào hoa nhu mì nhã đạm như tên gọi của một người con gái: Hương Giang.

2. Núi Ngự:

Thời đại phong kiến quân chủ thì ông vua là kẻ đứng đầu trăm họ, là giai cấp quyền uy tuyệt đỉnh – họ tự xưng là con trời (Thiên tử) – vì thế những vật gì mà vua dùng thường được gọi bằng những mỹ từ tôn kính; vua ăn cơm gọi là “ngự thiện”, đọc sách gọi là “ngự lãm”, đi chơi gọi là “ngự du”, … và vì thế ở Huế có một quả núi được gọi là Ngự Bình.


Nui Ngu

Ngự Bình là ngọn núi vừa mang trọng trách làm tiền áng cho kinh thành lại vừa là nơi ngự lãm bình giảng thơ phú của thánh thượng và các văn nhân hoàng gia vọng tộc. Khi triều đại nhà Nguyễn đến hồi kết cuộc với buổi lễ bàn giao ấn kiếm giữa vua Bảo Đại và phái đoàn Việt Minh, thì núi Ngự Bình đã thành điểm hẹn của các văn nhân thi sĩ, họ rủ nhau lên đấy để dọc sách ngâm thơ, bình văn. Và Ngự Bình đã trở thành một địa chỉ văn hóa tiêu biểu của vùng Thừa Thiên Huế - một vùng đất mà dấu ấn văn hóa in đậm trên từng mảng rêu phong của từng cụm danh lam thắng cảnh.

3. Chùa Từ Hiếu:
Nhắc đến nét văn hóa cội nguồn dân tộc không thể nào không nhớ đến các ngôi chùa danh tiếng sắc phong của Huế, mà tiêu biểu là ngôi chùa Từ Hiếu – đó là ngôi đại tự sắc phong hùng vĩ tọa lạc tại núi Dương Xuân thuộc xã Thủy Xuân, cách thành phố Huế 5 km về phía Tây Nam với cảnh quan sơn thủy hữu tình giữa một không gian đầy an lạc và tĩnh lặng.

Tính đến hôm nay Từ Hiếu sắc phong đã được 164 năm - ngược dòng lịch sử - để chúng ta hiểu thêm tại sao chùa này lại có tên Từ Hiếu. Trước khi ngôi chùa được sắc tứ thì nó chỉ là một ngôi lều cỏ với tên gọi “An Dưỡng Am” do Thiền sư Nhất Định dựng lên làm nơi che mưa nắng để tu dưỡng thân tâm đúng như tên đã đặt cho thảo am. Ngày ngày vị Thiền sư hái củi đem xuống chợ Bến Ngự đổi gạo và rau cải để độ nhật, nhưng có một điều trái với nếp sống và giáo điều của bậc tu hành – đó là trên đường từ chợ về núi bao giờ trên đầu gậy của ông cũng có một con cá chết treo lủng lẳng. Dân kinh thành ngạc nhiên bàn tán và tỏ thái độ bất phục.

chua tu hieu 3

Tiếng đồn đại vang đến các vị tai mắt của triều đình Huế, động tính hiếu kỳ, Hoàng thân Miên Thẩm – tức thi bá Tùng Thiện Vương đích thân lên An Dưỡng Am xem xét sự tình… Thì ra, tại ngôi thảo am sơ sài này ngoài vị Thiền sư còn có một cụ bà tuổi ngoại bát tuần, là mẫu thân của vị Thiền sư nọ, cụ không đành lòng ở nhà để Thiền sư cứ phải đi, về hầu hạ thăm nom; mà đường thì xa ngái (Quảng Trị) nên bà theo con lên nơi heo hút này để mẹ con được gần gũi, cho Thiền sư an tâm hành đạo. Nhưng vì tuổi già sức yếu không chịu nổi chướng khí lam sơn nên bà ngã bệnh. Theo chỉ định của thầy thuốc, bà cụ phải dùng mỗi ngày một tô cháo cá thì bệnh tình mới hồi phục được.

Vì lòng hiếu kính và yêu quý mẹ, Thiền sư vượt qua sự ngã chấp về hình tướng, về giáo điều để cứu mẹ hiền: “Hiếu hạnh vi tiên” (lời Phật dạy).
Sau nhiều lần đàm đạo, Hoàng thân Miên Thẩm vô cùng khâm phục sở học uyên bác, thông tuệ của bậc chân tu. Thấy thảo am quá sơ sài ông tỏ ý cúng dường phẩm vật và xây dựng lại cho khang trang bề thế, nhưng Thiền sư nhẹ nhàng từ chối và ung dung bảo với Hoàng thân: “Nếu tôi muốn sung túc đầy đủ thì đã không từ chối làm Quốc sư để được ở các ngôi chùa lớn tại kinh thành chứ lên đây làm chi”. Rồi ngài đọc cho Tùng Thiện Vương nghe hai câu kệ ngài ứng khẩu khi được vua Thiệu Trị cho từ nhiệm:
“Hạnh Phùng tấu đắc nhưng hồi lão
Nhất bát cô thân vạn lý du”

Có lần Hoàng thân Miên Thẩm lên An Dưỡng Am ở lại qua đêm và giữa cảnh núi rừng u tịch hoang sơ ấy là nguồn cảm hứng để ông viết:
“Tứ sơn phong vũ dạ trì trì
Minh uyển thiền sàng tĩnh tọa nghi
Bất thị kim triêu quá trúc viện
Văn chung vô hạn bích vân ty”

Sau lần thăm viếng của các vương tôn, các danh gia tử đệ, cả kinh thành lúc đó mới biết vị Thiền sư ấy chính là ngài Tăng Cang Tánh Thiên Nhất Định – vị cao tăng đã phụng sự đạo pháp và chính sự qua hai triều đại, và là người con chí hiếu của một bà mẹ đầy lòng bi mẫn vì sự nghiệp tu học của con mà chẳng quản chi núi hiểm rừng sâu.

Một năm sau khi Thiền sư Nhất Định viện tịch (1847), học trò của ngài là Đại đức Hải Thiệu Cương Kỷ đứng ra trùng tu lại thảo am với sự đóng góp tài nguyên, vật lực của các hàng Thái giám, cung phi ở nội cung, đã biến vùng thảo am thành ngôi chùa bề thế, khang trang. Khi hoàn tất công trình, ngày khánh thành an vị Phật chính vua Tự Đức ban chỉ sắc phong “Từ Hiếu Tự” với lời giải thích: “Trẫm nghĩ rằng, xưa nay điều này hiếm có đó là người mẹ từ tâm và người con hiếu thảo nên Trẫm có ý đặt tên là chùa Từ Hiếu để sau này trăm họ noi gương…”.
Từ đó An Dưỡng Am trở thành Sắc Tứ Từ Hiếu Tự với Tổ khai sơn là Thiền sư Nhất Định. Tính đến hôm nay trải qua 164 năm với bốn đời kế thế.
Chùa Từ Hiếu là một địa danh văn hóa với những công trình vừa mang tính đạo pháp và nghệ thuật như Thiền Viện Trăng Rằm, hồ Sao Hôm, hồ Sao Mai, vườn Tào Khê. Cảnh quan thật tôn nghiêm và vô cùng u nhã, cũng cần biết thêm là xuất thân của các vị cao tăng đại sư ở đây là những nhà hoạt động văn hóa lớn…

Chùa Từ Hiếu là địa chỉ văn hóa, là điểm du lịch hành hương của khách thập phương. Rất nhiều du khách nước ngoài đã dến dự những đêm thơ, những buổi thiền trà, thiền hành và dùng cơm chay trong chánh niệm cùng các nhà thơ tu sĩ ở đây.

Sài gòn mùa thu 2011
Ninh Giang Thu Cúc


facebook

youtube


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/08/2020(Xem: 4233)
Chùa Hoằng Phúc tọa lạc ở thôn Thuận Trạch, xã Mỹ Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Chùa còn gọi là Chùa Trạm hay Chùa Quan. Chùa cách trung tâm huyện Lệ Thủy 4 km, cách Quốc lộ 1A 3 km. Trang web: chuahoangphuc.com có bài: “Chùa Hoằng Phúc Quảng Bình ‘VÔ SONG PHÚC ĐỊA’ có niên đại hơn 700 năm” cho biết chùa có từ thời Trần, được xem là ngôi chùa cổ nhất miền Trung Việt Nam. Chùa được ghi nhận là nơi “vô song phúc địa” (đất phúc khôn sánh), khởi nguồn có tên là Am Tri Kiến. Văn bia ở chùa năm 2016 cho biết năm 1301, Điều ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông trên đường du hóa Nam phương, dừng lại chọn lập am và quảng hoằng Phật pháp. Khi đó, am được gọi là “Am Tri Kiến” nghĩa là tự con người giác ngộ chân lý nhà Phật.
13/08/2020(Xem: 4036)
Thật có duyên rất lành mới có cơ hội cúng dường xây dựng chủa Viên Thông tại xã Cuôr Đăng, huyện M'gar Đăk Lăk, là một ngôi chùa duy nhất ở một xã có 3500 hộ trong đó 70% là dân tộc Eđê. Thầy Minh Hạnh là vị Thầy tu hành nghiêm túc với hạnh nguyện mang ánh sáng Tam Bảo đến với bà con dân tộc nghèo vùng cao nguyên. là một chú tiểu khi lên chín tuổi, vượt qua tuổi vị thành niên, rồi thanh niên với nhiều chướng ngại mà cả chục chú tiểu chỉ còn 1 hoặc 2 thật khả ý, khả ái với Tam Bảo, với lời dạy của Thế Tôn mới có thắng chính mình, thọ đại giới tỳ kheo, thành vị sa môn đích thực trong giáo pháp của Như Lai. Thầy Minh Hạnh năm nay 38 tuổi, như vậy đã 28 năm theo Phật, theo Tam Bảo rồi. Với 14 năm hành đạo (cũng là tu đạo) ở xã Cuôr Đăng, Thầy Minh Hạnh an trụ trong hạnh nhẫn nhục với tâm nguyện kiên cố mới có những thành quả khá tốt như ngày nay. Những năm đầu, chính quyền nơi đây không cho tụng kinh gõ mõ, không một ai nơi đây biết đến Tam Bảo. Nay hàng ngày đều có 15-20 Phật tử đều đ
03/08/2020(Xem: 5201)
Chùa Đại Tuệ có tên gọi khác là chùa Cao, chùa Đại Huệ, tọa lạc ở xã Nam Anh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Chùa nằm trên đỉnh cao nhất của núi Đại Huệ, còn gọi là Phong Vân Sơn, ở độ cao 450m so với mực nước biển, có diện tích 20 hecta. Theo truyền thuyết, chùa được vua Mai Hắc Đế cho xây dựng từ năm 713.
31/07/2020(Xem: 4475)
42 năm! Con số của thời gian vụt trôi... Năm 1977, tôi tình nguyện đăng ký đi Thanh Niên Xung Phong lúc tuổi 17 "bẽ gãy sừng... bò tót", gia nhập đội ngũ áo xanh, nón tai bèo, thuộc A1, B1, Tiểu Đoàn TNXP Đất Sét. Đóng quân tại Đất Sét 1. Đất Sét! Vùng KInh Tế Mới "quyện theo nước dòng Sông Chò" và "dưới chân Hòn Dữ đêm đêm tỏa sương mờ"... Cuối năm 1978, tôi rời Đất Sét, chuyển vùng ra KTM Nhiễu Giang ngoài Phú Yên, nhủ lòng "một về không trở lại"... Quay lại làm chi nữa?Có gì đâu để mình phải quay lại? Tưởng là vậy sau hơn 40 năm, hơn nửa đời người, nhưng không ngờ, sáng nay, tôi lại chuẩn bị lên đường quay trở lại vùng đất hoang vu ma thiêng nước độc năm xưa…
28/06/2020(Xem: 23552)
Bức tượng được sơn son thếp vàng, tạc hình ảnh một nhà vua mặc triều phục đang quỳ gập người, hai bàn tay cung kính mở rộng để trên mặt đất, còn bên trên lưng là một pho tượng Phật cao lớn ngồi trên tòa sen nằm đè lên.
16/06/2020(Xem: 4803)
Chùa Đại Từ Ân tọa lạc trong Khu đô thị sinh thái cao cấp Đan Phượng - The Phoenix Garden (44,96 hecta), thuộc thị trấn Phùng, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội. Chùa được khởi công xây dựng vào ngày 09/5/2010 trên diện tích 2 hecta. Tên chùa Đại Từ Ân được Trưởng lão Hòa thượng Pháp chủ GHPGVN Thích Phổ Tuệ đặt. Trước chùa, pho đại tượng đức Phật A Di Đà (cao 25m) tôn trí ở giữa một công viên rộng lớn, thoáng đãng.
22/02/2020(Xem: 6161)
Trung tâm Phật giáo Trúc Lâm Thiên Trường tọa lạc ở phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định, sát Quốc lộ 10. Trung tâm được xây dựng vào năm 2006 trên diện tích 34.000m2. Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Nam Định đã tổ chức Lễ An vị đại tượng đức Phật Thích Ca Mâu Ni bằng đồng vào ngày 30/8/2014 (ngày 06 tháng 8 năm Giáp Ngọ) và Đại lễ khánh thành Trung tâm Phật giáo Trúc Lâm Thiên Trường vào ngày 31/8/2014 (ngày 07 tháng 8 năm Giáp Ngọ), tri ân những sự đóng góp tâm lực, vật lực của chư Tôn đức Tăng Ni toàn tỉnh và Phật tử khắp nơi, đặc biệt là Tập đoàn Nam Cường và Công ty đúc đồng Thắng Lợi đã phát tâm công đức đúc đại bảo tượng đức Phật Thích Ca Mâu Ni bằng đồng cao 14,8m, nặng 150 tấn.
16/12/2019(Xem: 6681)
Chùa do Thiền sư Liễu Quán (1667-1742) khai sáng vào đầu thế kỷ XVIII. Thiền sư là đệ tử đắc pháp của Hòa thượng Minh Hoằng - Tử Dung, được Hòa thượng trao tâm ấn năm 1712. Bấy giờ, chùa đã trở thành một đạo tràng lớn, có hàng vạn đệ tử học đạo, nghe pháp. Trong ba năm 1733, 1734 và 1735, Thiền sư đã mở ba Đại giới đàn truyền giới cho hàng vạn người tại chùa. Năm 1740, Thiền sư mở đại giới đàn Long Hoa ở kinh thành; năm 1742 mở Đại giới đàn tại chùa Viên Thông, nơi ngài khai sơn trước chùa Thiền Tôn. Thiền sư viên tịch năm Nhâm Tuất (1742), bảo tháp dựng ở một triền núi phía Đông Nam chùa vào tháng 4 năm Cảnh Hưng thứ 9 (1748), la thành bao quanh đồi tháp được xây vào năm 2001 nhân dịp đại trùng tu ngôi tổ đình.
28/11/2019(Xem: 6457)
Thông Báo Tuyển Sinh Khóa IX (2020-2023) của Trường Trung Cấp Phật Học Tỉnh Đồng Nai
08/11/2019(Xem: 11562)
Như có một cái gì sống lại khi ngồi viết bài này về dòng Thiền Trúc Lâm và núi Bạch Mã. Sự kết hợp giữa tâm linh và thiên nhiên đưa ta vào một khoảnh khoắc tuyệt vời huyền bí khi cảm nhận. Một dòng thiền Việt Nam do ông vua tài giỏi sáng lập và đắc đạo, một núi cao 1450 mét có mây trắng quanh năm trên đỉnh, dưới chân dòng nước lững lờ trôi của hồ Truồi trứ danh yên tịnh. Hai cảnh trí tạo ra cho người đến đây tự hỏi: Ngàn năm mưa gió vẫn bay Trăm năm có đứng chỗ này hay chưa?!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]