Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chùa Quốc Ân, Ngôi Tổ Đình Thiền Phái Lâm Tế ở Huế, Chùa Đại Trùng Tu

22/09/202013:01(Xem: 4780)
Chùa Quốc Ân, Ngôi Tổ Đình Thiền Phái Lâm Tế ở Huế, Chùa Đại Trùng Tu

Chua Quoc An_Hue (2)
CHÙA QUỐC ÂN,
NGÔI TỔ ĐÌNH THIỀN PHÁI LÂM TẾỞ HUẾ.
CHÙA ĐANG ĐẠI TRÙNG TU.

Bài viết của Nhiếp ảnh gia Võ Văn Tường
Do Phật tử Quảng Hương diễn đọc
từ Trang Nhà Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu




 

Chùa tọa lạc dưới chân đồi Hòn Thiên, số 143 đường Đặng Huy Trứ, phường Phước Vĩnh, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Chùa do Thiền sư Nguyên Thiều khai sáng vào khoảng cuối thế kỷ 17, mang tên chùa Vĩnh Ân. Nhiều nhà nghiên cứu phỏng định chùa được khai sơn từ năm 1682 đến năm 1684, vào đời chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1648-1687). Năm 1684, chúa Nguyễn Phúc Tần đã ban cho ngài Nguyên Thiều một ngân khoản để xây sửa chùa Vĩnh Ân. Tháp Phổ Đồng cũng được xây vào lúc này.

Tác giả Hà Xuân Liêm trong sách Những ngôi chùa Huế cho biết: “… Và có lẽ tháp Phổ Đồng cũng được xây vào lúc này, bằng vôi gạch, cao vài ba tầng ở góc đông nam vườn chùa. Tháp Phổ Đồng có thể để thờ những người có công đức với chùa nhưng không còn con cháu; cũng như thờ các bậc tể quan, hoặc các nhà sư, các thầy trong sơn môn mà chưa có quyền xây tháp mộ theo giáo lễ; cho nên mới dùng chữ “Phổ” có nghĩa là chung và “Đồng” có nghĩa là bình đẳng vậy”.

Kế chúa Hiền Vương là chúa Nghĩa Vương Nguyễn Phúc Thái (1687-1691). Ông đã dời phủ chúa ở Kim Long về Phú Xuân. Quý trọng ngài Nguyên Thiều, nên nào năm Chính Hòa thứ 10 (1689), ngày 27 tháng 5 năm Kỷ Tỵ, chúa Nghĩa Vương đã cho đổi hiệu chùa là Quốc Ân, ban tấm biển “Sắc tứ Quốc Ân Tự” và sắc lệnh miễn giảm thuế đất ruộng cho chùa. Sau đó, chúa cử ngài Nguyên Thiều về Trung Quốc để thỉnh nhiều kinh, chuông, tượng, pháp khí cho các chùa ở Phú Xuân.

Đến đời chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), chúa đã ban cho chùa bức hoành bốn chữ “Linh Thứu Cao Phong” và hai bức liễn đối có lạc khoản là “QuốcVương Thiên Túng Đạo Nhân ngự đề”.

Ngài Nguyên Thiều viên tịch vào ngày 19 tháng 10 năm Mậu Thân (1728) vào đời chúa Ninh Vương Nguyễn Phúc Chú (1725-1738). Ninh Vương đã ban thụy hiệu cho ngài là “Hạnh Đoan Thiền Sư” và viết bài minh khắc vào bia đá dựng tại tháp Thiền sư Hoán Bích Chùa Sắc tứ Hà Trung (nguyên văn bản dịch bài minh cùa Hòa thượng Thích Thiện Hạnhkèm theo bài viết này).

Kế tục trụ trì chùa Quốc Ân là ngài Minh Hằng Định Nhiên thuộc đời thứ 34 dòng Lâm Tế. Ngài viên tịch năm 1793, trụ trì chùa 65 năm, nhưng trong thời gian dài chiến tranh: quân Trịnh tiến vào Thuận Hóa năm 1775, rồi quân Tây Sơn đánh đuổi quân Trịnh ra khỏi Phú Xuân, nhiều chùa chiền bị hư hỏng, tháp Phổ Đồng bị phá sập.

Đến năm Gia Long thú tư (1805), công chúa Ngọc Tú (con của chúa Nguyễn Phúc Luân hay Nguyễn Phúc Côn, là cha của Thế Tổ Cao hoàng đế Gia Long) đã bỏ ra ba trăm quan tiền để tái thiết ngôi chùa. Ngài Thiệt Tánh Trí Hải Đại sư và Tế Lịch Chính Văn Đại sư đã đảm nhận việc xây dựng ngôi chùa sau 15 năm đổ nát, và lấy lại số ruộng đất là 9 mẫu 01 sào 2 thước ở làng Thần Phù. Ngài Thiệt Tánh Trí Hải thuộc đời 35 dòng Lâm Tế,viên tịch năm 1805. Ngài Tế Lịch Chính Văn kế tục trụ trì đến lúc viên tịch thì vua Gia Long đưa ngài Tổ Ấn Mật Hoằng, Tăng cang chùa Thiên Mụ sang trụ trì chùa Quốc Ân năm 1817.

Ngài Tổ Ấn Mật Hoằng đã tổ chức trùng tu chùa Quốc Ân vào năm Gia Long thứ 17 (1818). Đến năm Minh Mạng thứ ba (1822), ngài đã tổ chức đại trùng tu ngôi chùa. Vua Minh Mạng đã ban cho ngài 300 quan tiền với vôi, gạch, ngói để trùng tu chùa. Ngài viên tịch vào ngày 10 tháng 10 năm Ất Dậu (1825).

Kế tục ngài Tổ Ấn Mật Hoằng là ngài Tế Chánh Bổn Giác (1761-1851). Ngài Tế Chánh Bổn Giác vừa làm Tăng cang chùa Thiên Mụ vừa trụ trì chùa Quốc Ân. Ngài Tế Chánh Bổn Giác là đệ tử của ngài Thiệt Thành Liễu Đạt ở Gia Định. Năm Minh Mạng thứ 18 (1837), ngài cùng với ngài Liễu Thông Huệ Giám tiếp tục trùng tu chùa Quốc Ân. Đến đời vua Thiệu Trị, vua ban cho ngài hai ngàn năm trăm quan tiền để trùng tu chùa. Đợt trùng tu này qua hai đời vua, đến năm 1843 mới hoàn thành.Năm Minh Mạng thứ 21 (1840), ngài Tế Chánh Bổn Giác đã chú tạo một đại hồng chung nặng 662 cân. Qua đợt trùng tu nay, chùa Quốc Ân đã có điện Đại Hùng, tiền đường, lầu chuông, lầu trống, nhà tăng, nhà hậu, nhà khách,kiến trúc theo kiểu chữ “khẩu” truyền thống chùa Huế.Ngài viên tịch vào ngày 15 tháng 12 năm Canh Tuất (1851). Tháp mộ ngài ở vườn chùa.

Ngài Tế Chánh Bổn Giác đã phó pháp cho ngài Tánh Khoát Huệ Cảnh. Ngài Tánh Khoát Huệ Cảnh giao trụ trì chùa cho ngài Liễu Kiến Từ Hòa. Ngài Liễu Kiến Từ Hòa cho xây cổng tam quan và hai am nhỏ ở sân trước chùa thờ Thánh Mẫu và Ngũ Hành. Ngài viên tịch ngày 28 tháng 7 năm Quý Hợi (1863). Tháp mộ ngài ở vườn chùa.

Kế tục ngài Liễu Kiến Từ Hòa là ngài Liễu Triệt Từ Minh. Ngài được bổ làm Tăng cang chùa Giác Hoàng; là người khai sơn chùa Viên Quang năm 1865 (chùa Linh Quang ngày nay). Kế tục là ngài Liễu Chơn Từ Hiếu. Năm 1882, ngài làm Tăng cang chùa Giác Hoàng và trụ trì chùa Quốc Ân. Năm 1883, ngài được bổ làm Tăng cang chùa Thiên Mụ. Ngài đã cho sao chép và khắc lại trên bia đá bài minh của Đại Việt Quốc Vương dựng tại tháp Thiền sư Hoán Bích. Ngài viên tích ngày 9 tháng 5 năm Canh Dần (1890).

Ngài Minh Đức Bửu Tích kế tục trụ trì chùa vừa làm Tăng cang chùa Thiên Mụ. Ngài viên tịch năm Mậu Thân niên hiệu Duy Tân thứ hai (1908). Kế tục là ngài Như Hán Nguyên Cát. Ngài đã cho xây bốn trụ cao trước cổng chùa, thay cổng tam quan bị sập do trận bão năm 1904. Ngài vừa kiêm trụ trì chùa Linh Quang. Ngài viên tịch vào ngày 12/4/1914.

Tiếp theo là ngài Như Thông Đắc Ân và ngài Như Đông Đắc Quang. Ngài Như Đông Đắc Quang cũng vừa làm Tăng cang chùa Thiên Mụ vừa trụ trì chùa Quốc Ân. Năm 1945, ngài đã tổ chức đại trùng tu chùa Quốc Ân. Ngài viên tịch năm 1947.

Kế tục trụ trì chùa là Hòa thượng Huyền Không. Ngài xuất gia năm 1920, lúc 15 tuổi. Năm 1938, ngài được Bổn sư cho thọ Cụ túc giới tại chùa Đại Bi, Thanh Hóa do Hòa thượng Tuệ Minh làm Đường đầu. Ngài được Bổn sư cho pháp danh là Hồng Nam, tự Hương Mãn, hiệu Huyền Không. Ngài có nhiều đệ tử xuất gia và tại gia thành danh, đang phục vụ cho Giáo hội và Sơn môn ở trong nước và nước ngoài. Hòa thượng viên tịch ngày 17/01/1983, thọ 77 tuổi, 45 hạ lạp.

Hòa thượng Diệu Tánh kế tục trụ trì chùa từ năm 1983. Ngài có pháp danh Nhật Minh, hiệu Viên Huệ, sinh năm 1931 tại phường Thủy Xuân, thành phố Huế. Năm 2004, ngài đã cho trùng tu chùa, sửa lại tiền đường.Ngày 12/5/2019, Hòa thượng đã có thư ngỏ gửi Chư tôn Thiền Đức Tăng Ni và Phật tử gần xa về việc tổ chức đại trùng tu ngôi Tổ đình đã xuống cấp trầm trọng. Hòa thượng viên tịch vào ngày 17/01/2020, trụ thế 89 năm, 63 hạ lạp.

Từ đầu năm 2020 đến nay, Thượng tọa Thích Minh Chơn đương kim Giám tự đãđứng ra tổ chức đại trùng tu ngôi chùa thành ngôi phạm vũ uy nghiêm, tráng lệ. Chư Tôn đức Tăng Ni, quý nhà hảo tâm, quý Phật tử muốn đóng góp tịnh tài, tịnh vật cho chùa xin liên lạc với Thượng tọa Thích Minh Chơn (địa chỉ, điện thoại và số tài khoản có ghi trong lá thư ngỏ).

Chùa có khuôn viên rộng khoảng 5.000m2, diện tích xây dựng khoảng 550m2.

Chùa quay mặt hướng tây bắc. Mở đầu là cổng tam quan với bốn trụ cột chia làm ba lối đi. Sau tam quan có tượng Bồ tát Di Lặc lộ thiên. Đi tiếp qua sân rộng với nhiều cây cảnh đến bậc cấp vào sân chùa. Ở đây, bên trái chùa là tấm bia đá Quốc Ân Tự, bên phải có tấm bia không có chữ. Tiếp đếnlà tiền đường và ngôi chánh điện, nhà hậu, nhà tăng, nhà khách … tạo thành kiến trúc chữ “khẩu”. Phía sau chùa là khutháp mộ của các vị sư trụ trì chùa các đời.

Chánh điện là ngôi nhà rường được xây dựng theo lối “trùng thiềm điệp ốc”với tiền đường 5 gian 2 chái và chánh điện 3 gian 2 chái kép trên một nền nhà. Năm 2004, chùa đã sửa lại tiền đường, trang trí cặp rồng chầu mặt hổ phù ở giữa nóc mái.

Điện Phật (chùa cũ) được bài trí tôn nghiêm, thờ tượng Tam Thế Phật, đức Phật Thích Ca, Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Địa Tạng, Hộ Pháp, Thập Điện Minh Vương, Quan Thánh…

Chùa là ngôi Tổ đình Thiền phái Lâm Tế ở Huế.

 

Võ Văn Tường

 

 

DỊCH NGHĨA

BÀI MINH CỦA ĐẠI VIỆT QUỐC VƯƠNG

KHẮC VÀO BIA ĐÁ DỰNG TẠI THÁP THIỀN SƯ HOÁN BÍCH

CHÙA SẮC TỨ HÀ TRUNG

 

Trẫm phụng thiên mệnh trị vì trăm họ. Cứ mỗi buổi sáng sớm gà gáy thức dậy Trẫm canh cánh bên lòng, chẳng lúc nào lãng quên lẽ đạo chí thiện.

Xét thấy nước Đại Việt ta từ buổi lập quốc đến nay, lúc nào và bất cứ đâu cũng đều xây chùa lập am thỉnh Tăng cúng Phật, mở rộng các phương tiện … đem lại cho bàn dân thiên hạ khắp nước ấm no thịnh vượng. Bởi thế, Trẫm tự thấy phải chấm dứt những hệ niệm, mới mong sinh dân ai cũng được an cư lạc nghiệp dần dần tiếp cận cảnh giới Hóa Thành.

Nay có Thiền sư Hoán Bích, vào năm Ất Tỵ từ Trung Hoa đến nước ta, đầu tiên dựng gậy hành hóa tại phủ Quy Ninh (Quy Nhơn) sáng lập chùa Thập Tháp Di Đà mở đường truyền giáo, rồi trở lại xứ Thuận Hóa, tại núi Phú Xuân, xây dựng chùa Quốc Ân và tháp Phổ Đồng.

Tìm hiểu các triều đình trước, Trẫm được biết Tiên Thánh thời đó đã ủy thác Thiền sư trở về Quảng Đông nước Trung Quốc thỉnh Hòa thượng Thạch Liêm chùa Trường Thọ và cung nghinh nhiều Phật tượng, pháp khí mang về nước ta hoàn thành nhiều công đức lớn lao.

Từ đây Thiền sư vâng Thánh chỉ trú trì chùa Hà Trung, hồi quang tự chiếu, phô diễn diệu lý, luận đàm huyền vy, chuyển tải điển tích, tẩy trừ tà nguy, nối tiếp nguồn chân, mở bày cho hàng hậu học tứ chúng lãnh thọ giới pháp nhiệm mầu.

Thiền sư Hoán Bích người huyện Trình Hương, phủ Triệu Châu, tỉnh Quảng Đông con nhà họ Tạ, sanh vào giờ Tuất ngày 18 tháng 5 năm Mậu Tý (1648). Năm 19 tuổi, Thiền sư cát ái từ thân, xuất gia học đạo với Thiền sư Khoáng Viên chùa Báo Tư, pháp danh Nguyên Thiều, tự Hoán Bích. Kể từ ngày Thiền sư vượt biển sang nước ta đến nay, Trẫm tính đã 51 năm.

Ngày 19 tháng 10 năm Mậu Thân (1728), Thiền sư lâm bệnh, triệu tập môn đồ tứ chúng, giảng giải huyền cơ, di chúc mật ngữ. Trước giờ lâm chung, Thiền sư cầm bút viết kệ:


Lẵng lặng gương không bụi

Sáng rạng ngọc không bằng

Rõ ràng vật mà chẳng phải vật

Rỗng không mà chớ bảo là không

Viết xong, Thiền sư ngồi ngay thẳng mà tịch, pháp lạp 81.

Môn đồ, quan chức và đệ tử của Thiền sư dựng bảo tháp ở chốn Cửa Hóa, rồi quỳ xin Trẫm ban Tháp hiệu và viết bài minh khắc vào bia đá tưởng niệm. Trẫm ban thụy hiệu “Hạnh Đoan Thiền Sư”. Trẫm cũng muốn muôn đời người người ngưỡng mộ điều thiện, thành tựu quả vị Như Lai vô thượng và chung hưởng phúc lành thái bình bất tận. Chính vì vậy, Trẫm viết bài minh rằng:

Vời vợi thay trí tuệ

Rành rành đấng Phạm Tăng         

Ung dung cùng trăng nước

Giới pháp trì nghiêm minh

Một thân trụ vững mạnh

Vắng lặng và cao kiến

 Năm uẩn thân vốn không

Hoằng pháp lợi quần sanh

Như mây lành che mát

Mặt trời tuệ chiếu soi

Nhìn Ngài, trang nghiêm quá!

Như Núi Thái vời cao.

 

Ngày 08 tháng 4 niên hiệu Bảo Thái thứ 10 “Ban” Phụng lập

Quốc Ân, mùa Vu Lan năm Đinh Hợi (2007)

Thích Thiện Hạnh

      Phụng dịch

 

Tài liệu tham khảo:

 

  1. SÁCH:

01. Hà Xuân Liêm (2000). Những ngôi chùa Huế. Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, trang 49-64.

02. Võ Văn Tường (1996). Việt Nam Danh lam Cổ tự. Tái bản lần 4, ngôn ngữ: Việt-Anh-Pháp-Hoa. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, trang 139-140.

03. Võ Văn Tường (2007). 108 Danh lam Cổ tự Việt Nam. Ngôn ngữ: Việt-Anh-Pháp-Hoa. Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, trang 139-142.

  1. CD-ROM:

Võ Văn Tường (1996). Những ngôi chùa nổi tiếng Việt Nam. Ngôn ngữ: Việt-Anh. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

 

 

 Chua Quoc An_Hue (1)
Ảnh 01. Toàn cảnh chùa Quốc Ân

Chua Quoc An_Hue (2)
Ảnh 02. Cổng tam quan

Chua Quoc An_Hue (3)Chua Quoc An_Hue (4)
Ảnh 03-04. Ngôi chánh điện (ảnh chụp năm 2000)

Chua Quoc An_Hue (5)Chua Quoc An_Hue (6)Chua Quoc An_Hue (7)Chua Quoc An_Hue (8)
Ảnh 05-08. Ngôi chánh điện (ảnh chụp năm 2008)

Chua Quoc An_Hue (9)Chua Quoc An_Hue (10)
Ảnh 09-10. Ngôi chánh điện (ảnh chụp năm 2010)

Chua Quoc An_Hue (11)
Ảnh 11. Ngôi chánh điện (ảnh chụp năm 2011)

Chua Quoc An_Hue (12)Chua Quoc An_Hue (13)Chua Quoc An_Hue (14)
Ảnh 12-14. Ngôi chánh điện (ảnh chụp năm 2016)

Chua Quoc An_Hue (15)Chua Quoc An_Hue (16)
Ảnh 15-16. Vườn tượng Phật ở sân trước chùa

Chua Quoc An_Hue (17)
Ảnh 17. Đài Bồ tát Quán Thế Âm

Chua Quoc An_Hue (18)Chua Quoc An_Hue (19)Chua Quoc An_Hue (20)Chua Quoc An_Hue (21)
Ảnh 18-21. Nhà bia và bia chùa

Chua Quoc An_Hue (22)Chua Quoc An_Hue (23)
Ảnh 22-23. Điện Phật

Chua Quoc An_Hue (24)
Ảnh 24. Bàn thờ Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Địa Tạng

Chua Quoc An_Hue (25)Chua Quoc An_Hue (26)
Ảnh 25-26. Tượng Hộ Pháp

Chua Quoc An_Hue (27)Chua Quoc An_Hue (28)
Ảnh 27-28. Bàn thờ Thập Điện Minh Vương

Chua Quoc An_Hue (29)
Ảnh 29. Bàn thờ Quan Thánh

Chua Quoc An_Hue (30)
Ảnh 30. Đại hồng chung

Chua Quoc An_Hue (31)
Ảnh 31. Bàn thờ Tổ

Chua Quoc An_Hue (32)
Ảnh 32. Tổ Nguyên Thiều (ảnh tư liệu)

Chua Quoc An_Hue (33)
Ảnh 33. Tháp Tổ Nguyên Thiều (tại chùa Trúc Lâm, Huế)

Chua Quoc An_Hue (34)
Ảnh 34. Vườn cây cảnh sau ngôi chánh điện

Chua Quoc An_Hue (35)
Ảnh 35. Định vị tọa độ chùa Quốc Ân

Chua Quoc An_Hue (36)
Ảnh 36. Thư ngỏ vận động kinh phí đại trùng tu chùa

Chua Quoc An_Hue (37)Chua Quoc An_Hue (38)Chua Quoc An_Hue (39)
Ảnh 37-39. Ngôi chùa mới đang xây dựng (ảnh tư liệu của chùa)
 

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/09/2020(Xem: 4347)
Chùa Diệu Đế tọa lạc bên bờ sông Hộ Thành (sông Gia Hội) số 110 Bạch Đằng, phường Phú Cát, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa có diện tích hơn 10.000m2. Chùa nguyên là phủ của vua Thiệu Trị trước khi lên ngôi. Đây là nơi Hoàng tử Nguyễn Phúc Miên Tông, con vua Minh Mạng ra đời vào ngày 16/6/1807. Năm 1841, Hoàng tử lên ngôi vua ở kinh thành Huế, lấy niên hiệu là Thiệu Trị.
07/09/2020(Xem: 6827)
Chùa tọa lạc trên đồi Hàm Long (trên đất làng Thụy Lôi xưa, gần xóm Lịch Đợi), đường Báo Quốc, phường Phường Đúc, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa Báo Quốc ban đầu có tên là Hàm Long Sơn Thiên Thọ Tự, do Thiền sư Giác Phong (du tăng người Quảng Đông, Trung Quốc) dựng vào cuối thế kỷ 17, đời Chúa Nguyễn Phúc Tần, nơi ngài Liễu Quán đến học đạo và ở lại trong 11 năm. Tổ Giác Phong viên tịch năm 1714. Đến năm 1747, Hiếu Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát cho trùng tu chùa và ban cho chùa tấm biển chữ Hán “Sắc Tứ Báo Quốc Tự”, bên trái có ghi hàng chữ Quốc Vương Từ Tế đạo nhân ngự đề, bên phải có dòng lạc khoản Cảnh Hưng bát niên hạ ngũ nguyệt cát nhật. Ngoài ra còn có dấu chạm khắc hình bốn cái ấn, một cái triện tròn khắc chữ Quốc Chúa Nam Hà. Trụ trì chùa thời gian này là Thiền sư Tế Nhơn, một trong những cao đệ đắc pháp của Tổ Liễu Quán. Kế thế trụ trì là các ngài Tế Ân, Trí Hải, Đại Trí …
05/09/2020(Xem: 7179)
Chùa Giác Lâm tọa lạc tại số 02 kiệt 56 đường Duy Tân, phường An Cựu, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa nguyên là một thảo am do Tổ Giác Hải, người làng Trung Kiên, tỉnh Quảng Trị khai sáng vào ngày 16 tháng 3 năm Đinh Dậu (1897) trên một triền đồi, dưới chân núi Ngự Bình, đặt tên Duy Tôn Tự để truyền bá chánh pháp, đem đạo Phật phổ hóa vào những nơi xa xôi, hẻo lánh. Tổ có thế danh là Nguyễn Văn Cẩm, sinh trưởng trong một gia đình tín tâm với đạo Phật. Ngài là đệ tử của Tổ Tâm Tịnh, khai sáng Tổ đình Tây Thiên, Huế. Ngài có pháp danh là Trừng Nhã, tự Chí Thanh, hiệu Giác Hải.
30/08/2020(Xem: 5112)
Chùa Thiên Mụ thường gọi là chùa Linh Mụ, tọa lạc trên đồi Hà Khê, đường Nguyễn Phúc Nguyên, xã Hương Long, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa nằm ở bờ bắc sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế 5km. Sách Ô Châu cận lụccủa Tiến sĩ Dương Văn An cho biết chùa Thiên Mụ ở phía nam xã Giang Đạm, huyện Kim Trà, nóc ở đỉnh núi, chân gối dòng sông. Chùa được chúa Tiên - Nguyễn Hoàng cho xây dựng vào năm 1601. Năm 1665, chúa Nguyễn Phúc Tần cho trùng tu chùa khang trang. Năm 1695, Thiền sư Thạch Liêm, người Trung Quốc, được chúa Nguyễn mời làm trụ trì chùa. Từ chùa Thiên Mụ và chùa Khánh Vân (Huế), Ngài đã truyền bá Thiền phái Tào Động ở đàng Trong.Hòa thượng Thạch Liêm đã tả cảnh chùa Thiên Mụ: “Đêm 15 trời mưa, ra đến chùa Thiên Mụ. Chùa này tức Vương phủ ngày xưa (?) chung quanh có trồng nhiều cây cổ thụ, day mặt ra bờ sông; trước chùa ngư phủ, tiều phu tấp nập sớm chiều qua lại. Trong chùa cột kèo chạm trổ rất tinh xảo …” (1)
29/08/2020(Xem: 4264)
Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang thường được gọi là Chùa Sắc Tứ,Tịnh Quang Tự, Tổ đình Sắc tứ Tịnh Quang, tọa lạc ở thôn Ái Tử, xã Triệu Ái, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Chùa là một trong những ngôi tổ đình được xây dựng sớm và có ảnh hưởng lớn Phật giáo xứ Đàng Trong. Chùa ban đầu có tên là Am Tịnh Độ. Từ điển Di tích Văn hóa Việt Nam(1) cho biết chùa do Hòa thượng Tu Pháp, tự Chí Khả khai sáng vào năm 1739 đời Vua Lê Ý Tông (năm thứ hai đời Chúa Nguyễn Phúc Khoát) với tên là Tịnh Nghiệp Tự. Đến đời Vua Gia Long, vua ban tên gọi là Tịnh Quang Tự. Chùa được trùng tu năm Minh Mạng thứ 21 (1941).
23/08/2020(Xem: 4672)
Hôm nay con có vài lời tâm nguyện thỉnh mời quý Ngài cùng chư Phật tử hoan hỷ cho con được trình bày tâm nguyện của mình. Con xin được giới thiệu bản thân. Con tên là Nguyễn Thị Dân, Pháp danh Nguyên Hương, pháp tự Giới Huyền, sinh năm 1975, tại Đà Nẵng, Việt Nam. Con xuất gia năm 1996 tại chùa Quang Minh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, Việt Nam. Con thọ Đại giới năm 2004, tốt nghiệp Trung Cấp Phật Học Đà Nẵng năm 2004, sau đó con lên đường du học tại Đài Loan, năm 2010, con đã tốt nghiệp Phật Học Viện Viên Quang (Đài Loan) và tốt nghiệp Phật Học Viện Pháp Cổ Sơn Đài Loan vào năm 2014. Cối năm 2014, con có duyên dành đến Úc tu học và đóng góp công quả tại Thiền Viện Bồ Đề Brisbane (theo diện working visa) cho đến năm 2018. Sau đó con có thắng duyên lên tu học cùng với quý Phật tử chùa Phật Giáo Quốc Tế, Darwin, Bắc Úc từ năm 2018 đến nay.
19/08/2020(Xem: 3688)
Chùa Hoằng Phúc tọa lạc ở thôn Thuận Trạch, xã Mỹ Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Chùa còn gọi là Chùa Trạm hay Chùa Quan. Chùa cách trung tâm huyện Lệ Thủy 4 km, cách Quốc lộ 1A 3 km. Trang web: chuahoangphuc.com có bài: “Chùa Hoằng Phúc Quảng Bình ‘VÔ SONG PHÚC ĐỊA’ có niên đại hơn 700 năm” cho biết chùa có từ thời Trần, được xem là ngôi chùa cổ nhất miền Trung Việt Nam. Chùa được ghi nhận là nơi “vô song phúc địa” (đất phúc khôn sánh), khởi nguồn có tên là Am Tri Kiến. Văn bia ở chùa năm 2016 cho biết năm 1301, Điều ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông trên đường du hóa Nam phương, dừng lại chọn lập am và quảng hoằng Phật pháp. Khi đó, am được gọi là “Am Tri Kiến” nghĩa là tự con người giác ngộ chân lý nhà Phật.
13/08/2020(Xem: 3586)
Thật có duyên rất lành mới có cơ hội cúng dường xây dựng chủa Viên Thông tại xã Cuôr Đăng, huyện M'gar Đăk Lăk, là một ngôi chùa duy nhất ở một xã có 3500 hộ trong đó 70% là dân tộc Eđê. Thầy Minh Hạnh là vị Thầy tu hành nghiêm túc với hạnh nguyện mang ánh sáng Tam Bảo đến với bà con dân tộc nghèo vùng cao nguyên. là một chú tiểu khi lên chín tuổi, vượt qua tuổi vị thành niên, rồi thanh niên với nhiều chướng ngại mà cả chục chú tiểu chỉ còn 1 hoặc 2 thật khả ý, khả ái với Tam Bảo, với lời dạy của Thế Tôn mới có thắng chính mình, thọ đại giới tỳ kheo, thành vị sa môn đích thực trong giáo pháp của Như Lai. Thầy Minh Hạnh năm nay 38 tuổi, như vậy đã 28 năm theo Phật, theo Tam Bảo rồi. Với 14 năm hành đạo (cũng là tu đạo) ở xã Cuôr Đăng, Thầy Minh Hạnh an trụ trong hạnh nhẫn nhục với tâm nguyện kiên cố mới có những thành quả khá tốt như ngày nay. Những năm đầu, chính quyền nơi đây không cho tụng kinh gõ mõ, không một ai nơi đây biết đến Tam Bảo. Nay hàng ngày đều có 15-20 Phật tử đều đ
03/08/2020(Xem: 4518)
Chùa Đại Tuệ có tên gọi khác là chùa Cao, chùa Đại Huệ, tọa lạc ở xã Nam Anh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Chùa nằm trên đỉnh cao nhất của núi Đại Huệ, còn gọi là Phong Vân Sơn, ở độ cao 450m so với mực nước biển, có diện tích 20 hecta. Theo truyền thuyết, chùa được vua Mai Hắc Đế cho xây dựng từ năm 713.
31/07/2020(Xem: 3870)
42 năm! Con số của thời gian vụt trôi... Năm 1977, tôi tình nguyện đăng ký đi Thanh Niên Xung Phong lúc tuổi 17 "bẽ gãy sừng... bò tót", gia nhập đội ngũ áo xanh, nón tai bèo, thuộc A1, B1, Tiểu Đoàn TNXP Đất Sét. Đóng quân tại Đất Sét 1. Đất Sét! Vùng KInh Tế Mới "quyện theo nước dòng Sông Chò" và "dưới chân Hòn Dữ đêm đêm tỏa sương mờ"... Cuối năm 1978, tôi rời Đất Sét, chuyển vùng ra KTM Nhiễu Giang ngoài Phú Yên, nhủ lòng "một về không trở lại"... Quay lại làm chi nữa?Có gì đâu để mình phải quay lại? Tưởng là vậy sau hơn 40 năm, hơn nửa đời người, nhưng không ngờ, sáng nay, tôi lại chuẩn bị lên đường quay trở lại vùng đất hoang vu ma thiêng nước độc năm xưa…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567