- Chùa Quốc Ân, Ngôi Tổ Đình Thiền Phái Lâm Tế ở Huế, Chùa Đại Trùng Tu
- Chùa Trúc Lâm (Huế) với hai vị Đanh Tăng Việt Nam thế kỷ 20: Hòa Thượng Giác Tiên & Hòa Thượng Mật Hiển
- Sắc Tứ Tây Thiên Di Đà Tự, Huế với Tăng Cang Hòa Thượng Thanh Ninh Tâm Tịnh
- Chùa Thánh Duyên (Huế), Ngôi Quốc Tự trên Đất Thần Kinh
- Tổ Đình Thiền Tôn, Huế - Nơi xuất phát Pháp Pháp Liễu Quán của Phật Giáo Việt Nam
- Tổ Đình Từ Hiếu, Ngôi Danh Lam Cổ Tự Trên Đất Thần Kinh
- Chùa Phù Bài, Thừa Thiên Huế - Mái nhà tâm linh của người dân Thủy Phù, Hương Thủy.
- Chùa Cát Tường - Ngôi chùa tọa lạc bên trong kinh thành cố đô Huế.
Bài viết của Nhiếp ảnh gia Võ Văn Tường
Do Phật tử Quảng Hương diễn đọc
từ Trang Nhà Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu
Chùa tọa lạc dưới chân đồi Hòn Thiên, số 143 đường Đặng Huy Trứ, phường Phước Vĩnh, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Chùa do Thiền sư Nguyên Thiều khai sáng vào khoảng cuối thế kỷ 17, mang tên chùa Vĩnh Ân. Nhiều nhà nghiên cứu phỏng định chùa được khai sơn từ năm 1682 đến năm 1684, vào đời chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1648-1687). Năm 1684, chúa Nguyễn Phúc Tần đã ban cho ngài Nguyên Thiều một ngân khoản để xây sửa chùa Vĩnh Ân. Tháp Phổ Đồng cũng được xây vào lúc này.
Tác giả Hà Xuân Liêm trong sách Những ngôi chùa Huế cho biết: “… Và có lẽ tháp Phổ Đồng cũng được xây vào lúc này, bằng vôi gạch, cao vài ba tầng ở góc đông nam vườn chùa. Tháp Phổ Đồng có thể để thờ những người có công đức với chùa nhưng không còn con cháu; cũng như thờ các bậc tể quan, hoặc các nhà sư, các thầy trong sơn môn mà chưa có quyền xây tháp mộ theo giáo lễ; cho nên mới dùng chữ “Phổ” có nghĩa là chung và “Đồng” có nghĩa là bình đẳng vậy”.
Kế chúa Hiền Vương là chúa Nghĩa Vương Nguyễn Phúc Thái (1687-1691). Ông đã dời phủ chúa ở Kim Long về Phú Xuân. Quý trọng ngài Nguyên Thiều, nên nào năm Chính Hòa thứ 10 (1689), ngày 27 tháng 5 năm Kỷ Tỵ, chúa Nghĩa Vương đã cho đổi hiệu chùa là Quốc Ân, ban tấm biển “Sắc tứ Quốc Ân Tự” và sắc lệnh miễn giảm thuế đất ruộng cho chùa. Sau đó, chúa cử ngài Nguyên Thiều về Trung Quốc để thỉnh nhiều kinh, chuông, tượng, pháp khí cho các chùa ở Phú Xuân.
Đến đời chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), chúa đã ban cho chùa bức hoành bốn chữ “Linh Thứu Cao Phong” và hai bức liễn đối có lạc khoản là “QuốcVương Thiên Túng Đạo Nhân ngự đề”.
Ngài Nguyên Thiều viên tịch vào ngày 19 tháng 10 năm Mậu Thân (1728) vào đời chúa Ninh Vương Nguyễn Phúc Chú (1725-1738). Ninh Vương đã ban thụy hiệu cho ngài là “Hạnh Đoan Thiền Sư” và viết bài minh khắc vào bia đá dựng tại tháp Thiền sư Hoán Bích Chùa Sắc tứ Hà Trung (nguyên văn bản dịch bài minh cùa Hòa thượng Thích Thiện Hạnhkèm theo bài viết này).
Kế tục trụ trì chùa Quốc Ân là ngài Minh Hằng Định Nhiên thuộc đời thứ 34 dòng Lâm Tế. Ngài viên tịch năm 1793, trụ trì chùa 65 năm, nhưng trong thời gian dài chiến tranh: quân Trịnh tiến vào Thuận Hóa năm 1775, rồi quân Tây Sơn đánh đuổi quân Trịnh ra khỏi Phú Xuân, nhiều chùa chiền bị hư hỏng, tháp Phổ Đồng bị phá sập.
Đến năm Gia Long thú tư (1805), công chúa Ngọc Tú (con của chúa Nguyễn Phúc Luân hay Nguyễn Phúc Côn, là cha của Thế Tổ Cao hoàng đế Gia Long) đã bỏ ra ba trăm quan tiền để tái thiết ngôi chùa. Ngài Thiệt Tánh Trí Hải Đại sư và Tế Lịch Chính Văn Đại sư đã đảm nhận việc xây dựng ngôi chùa sau 15 năm đổ nát, và lấy lại số ruộng đất là 9 mẫu 01 sào 2 thước ở làng Thần Phù. Ngài Thiệt Tánh Trí Hải thuộc đời 35 dòng Lâm Tế,viên tịch năm 1805. Ngài Tế Lịch Chính Văn kế tục trụ trì đến lúc viên tịch thì vua Gia Long đưa ngài Tổ Ấn Mật Hoằng, Tăng cang chùa Thiên Mụ sang trụ trì chùa Quốc Ân năm 1817.
Ngài Tổ Ấn Mật Hoằng đã tổ chức trùng tu chùa Quốc Ân vào năm Gia Long thứ 17 (1818). Đến năm Minh Mạng thứ ba (1822), ngài đã tổ chức đại trùng tu ngôi chùa. Vua Minh Mạng đã ban cho ngài 300 quan tiền với vôi, gạch, ngói để trùng tu chùa. Ngài viên tịch vào ngày 10 tháng 10 năm Ất Dậu (1825).
Kế tục ngài Tổ Ấn Mật Hoằng là ngài Tế Chánh Bổn Giác (1761-1851). Ngài Tế Chánh Bổn Giác vừa làm Tăng cang chùa Thiên Mụ vừa trụ trì chùa Quốc Ân. Ngài Tế Chánh Bổn Giác là đệ tử của ngài Thiệt Thành Liễu Đạt ở Gia Định. Năm Minh Mạng thứ 18 (1837), ngài cùng với ngài Liễu Thông Huệ Giám tiếp tục trùng tu chùa Quốc Ân. Đến đời vua Thiệu Trị, vua ban cho ngài hai ngàn năm trăm quan tiền để trùng tu chùa. Đợt trùng tu này qua hai đời vua, đến năm 1843 mới hoàn thành.Năm Minh Mạng thứ 21 (1840), ngài Tế Chánh Bổn Giác đã chú tạo một đại hồng chung nặng 662 cân. Qua đợt trùng tu nay, chùa Quốc Ân đã có điện Đại Hùng, tiền đường, lầu chuông, lầu trống, nhà tăng, nhà hậu, nhà khách,kiến trúc theo kiểu chữ “khẩu” truyền thống chùa Huế.Ngài viên tịch vào ngày 15 tháng 12 năm Canh Tuất (1851). Tháp mộ ngài ở vườn chùa.
Ngài Tế Chánh Bổn Giác đã phó pháp cho ngài Tánh Khoát Huệ Cảnh. Ngài Tánh Khoát Huệ Cảnh giao trụ trì chùa cho ngài Liễu Kiến Từ Hòa. Ngài Liễu Kiến Từ Hòa cho xây cổng tam quan và hai am nhỏ ở sân trước chùa thờ Thánh Mẫu và Ngũ Hành. Ngài viên tịch ngày 28 tháng 7 năm Quý Hợi (1863). Tháp mộ ngài ở vườn chùa.
Kế tục ngài Liễu Kiến Từ Hòa là ngài Liễu Triệt Từ Minh. Ngài được bổ làm Tăng cang chùa Giác Hoàng; là người khai sơn chùa Viên Quang năm 1865 (chùa Linh Quang ngày nay). Kế tục là ngài Liễu Chơn Từ Hiếu. Năm 1882, ngài làm Tăng cang chùa Giác Hoàng và trụ trì chùa Quốc Ân. Năm 1883, ngài được bổ làm Tăng cang chùa Thiên Mụ. Ngài đã cho sao chép và khắc lại trên bia đá bài minh của Đại Việt Quốc Vương dựng tại tháp Thiền sư Hoán Bích. Ngài viên tích ngày 9 tháng 5 năm Canh Dần (1890).
Ngài Minh Đức Bửu Tích kế tục trụ trì chùa vừa làm Tăng cang chùa Thiên Mụ. Ngài viên tịch năm Mậu Thân niên hiệu Duy Tân thứ hai (1908). Kế tục là ngài Như Hán Nguyên Cát. Ngài đã cho xây bốn trụ cao trước cổng chùa, thay cổng tam quan bị sập do trận bão năm 1904. Ngài vừa kiêm trụ trì chùa Linh Quang. Ngài viên tịch vào ngày 12/4/1914.
Tiếp theo là ngài Như Thông Đắc Ân và ngài Như Đông Đắc Quang. Ngài Như Đông Đắc Quang cũng vừa làm Tăng cang chùa Thiên Mụ vừa trụ trì chùa Quốc Ân. Năm 1945, ngài đã tổ chức đại trùng tu chùa Quốc Ân. Ngài viên tịch năm 1947.
Kế tục trụ trì chùa là Hòa thượng Huyền Không. Ngài xuất gia năm 1920, lúc 15 tuổi. Năm 1938, ngài được Bổn sư cho thọ Cụ túc giới tại chùa Đại Bi, Thanh Hóa do Hòa thượng Tuệ Minh làm Đường đầu. Ngài được Bổn sư cho pháp danh là Hồng Nam, tự Hương Mãn, hiệu Huyền Không. Ngài có nhiều đệ tử xuất gia và tại gia thành danh, đang phục vụ cho Giáo hội và Sơn môn ở trong nước và nước ngoài. Hòa thượng viên tịch ngày 17/01/1983, thọ 77 tuổi, 45 hạ lạp.
Hòa thượng Diệu Tánh kế tục trụ trì chùa từ năm 1983. Ngài có pháp danh Nhật Minh, hiệu Viên Huệ, sinh năm 1931 tại phường Thủy Xuân, thành phố Huế. Năm 2004, ngài đã cho trùng tu chùa, sửa lại tiền đường.Ngày 12/5/2019, Hòa thượng đã có thư ngỏ gửi Chư tôn Thiền Đức Tăng Ni và Phật tử gần xa về việc tổ chức đại trùng tu ngôi Tổ đình đã xuống cấp trầm trọng. Hòa thượng viên tịch vào ngày 17/01/2020, trụ thế 89 năm, 63 hạ lạp.
Từ đầu năm 2020 đến nay, Thượng tọa Thích Minh Chơn đương kim Giám tự đãđứng ra tổ chức đại trùng tu ngôi chùa thành ngôi phạm vũ uy nghiêm, tráng lệ. Chư Tôn đức Tăng Ni, quý nhà hảo tâm, quý Phật tử muốn đóng góp tịnh tài, tịnh vật cho chùa xin liên lạc với Thượng tọa Thích Minh Chơn (địa chỉ, điện thoại và số tài khoản có ghi trong lá thư ngỏ).
Chùa có khuôn viên rộng khoảng 5.000m2, diện tích xây dựng khoảng 550m2.
Chùa quay mặt hướng tây bắc. Mở đầu là cổng tam quan với bốn trụ cột chia làm ba lối đi. Sau tam quan có tượng Bồ tát Di Lặc lộ thiên. Đi tiếp qua sân rộng với nhiều cây cảnh đến bậc cấp vào sân chùa. Ở đây, bên trái chùa là tấm bia đá Quốc Ân Tự, bên phải có tấm bia không có chữ. Tiếp đếnlà tiền đường và ngôi chánh điện, nhà hậu, nhà tăng, nhà khách … tạo thành kiến trúc chữ “khẩu”. Phía sau chùa là khutháp mộ của các vị sư trụ trì chùa các đời.
Chánh điện là ngôi nhà rường được xây dựng theo lối “trùng thiềm điệp ốc”với tiền đường 5 gian 2 chái và chánh điện 3 gian 2 chái kép trên một nền nhà. Năm 2004, chùa đã sửa lại tiền đường, trang trí cặp rồng chầu mặt hổ phù ở giữa nóc mái.
Điện Phật (chùa cũ) được bài trí tôn nghiêm, thờ tượng Tam Thế Phật, đức Phật Thích Ca, Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Địa Tạng, Hộ Pháp, Thập Điện Minh Vương, Quan Thánh…
Chùa là ngôi Tổ đình Thiền phái Lâm Tế ở Huế.
Võ Văn Tường
DỊCH NGHĨA
BÀI MINH CỦA ĐẠI VIỆT QUỐC VƯƠNG
KHẮC VÀO BIA ĐÁ DỰNG TẠI THÁP THIỀN SƯ HOÁN BÍCH
CHÙA SẮC TỨ HÀ TRUNG
Trẫm phụng thiên mệnh trị vì trăm họ. Cứ mỗi buổi sáng sớm gà gáy thức dậy Trẫm canh cánh bên lòng, chẳng lúc nào lãng quên lẽ đạo chí thiện.
Xét thấy nước Đại Việt ta từ buổi lập quốc đến nay, lúc nào và bất cứ đâu cũng đều xây chùa lập am thỉnh Tăng cúng Phật, mở rộng các phương tiện … đem lại cho bàn dân thiên hạ khắp nước ấm no thịnh vượng. Bởi thế, Trẫm tự thấy phải chấm dứt những hệ niệm, mới mong sinh dân ai cũng được an cư lạc nghiệp dần dần tiếp cận cảnh giới Hóa Thành.
Nay có Thiền sư Hoán Bích, vào năm Ất Tỵ từ Trung Hoa đến nước ta, đầu tiên dựng gậy hành hóa tại phủ Quy Ninh (Quy Nhơn) sáng lập chùa Thập Tháp Di Đà mở đường truyền giáo, rồi trở lại xứ Thuận Hóa, tại núi Phú Xuân, xây dựng chùa Quốc Ân và tháp Phổ Đồng.
Tìm hiểu các triều đình trước, Trẫm được biết Tiên Thánh thời đó đã ủy thác Thiền sư trở về Quảng Đông nước Trung Quốc thỉnh Hòa thượng Thạch Liêm chùa Trường Thọ và cung nghinh nhiều Phật tượng, pháp khí mang về nước ta hoàn thành nhiều công đức lớn lao.
Từ đây Thiền sư vâng Thánh chỉ trú trì chùa Hà Trung, hồi quang tự chiếu, phô diễn diệu lý, luận đàm huyền vy, chuyển tải điển tích, tẩy trừ tà nguy, nối tiếp nguồn chân, mở bày cho hàng hậu học tứ chúng lãnh thọ giới pháp nhiệm mầu.
Thiền sư Hoán Bích người huyện Trình Hương, phủ Triệu Châu, tỉnh Quảng Đông con nhà họ Tạ, sanh vào giờ Tuất ngày 18 tháng 5 năm Mậu Tý (1648). Năm 19 tuổi, Thiền sư cát ái từ thân, xuất gia học đạo với Thiền sư Khoáng Viên chùa Báo Tư, pháp danh Nguyên Thiều, tự Hoán Bích. Kể từ ngày Thiền sư vượt biển sang nước ta đến nay, Trẫm tính đã 51 năm.
Ngày 19 tháng 10 năm Mậu Thân (1728), Thiền sư lâm bệnh, triệu tập môn đồ tứ chúng, giảng giải huyền cơ, di chúc mật ngữ. Trước giờ lâm chung, Thiền sư cầm bút viết kệ:
Lẵng lặng gương không bụi
Sáng rạng ngọc không bằng
Rõ ràng vật mà chẳng phải vật
Rỗng không mà chớ bảo là không
Viết xong, Thiền sư ngồi ngay thẳng mà tịch, pháp lạp 81.
Môn đồ, quan chức và đệ tử của Thiền sư dựng bảo tháp ở chốn Cửa Hóa, rồi quỳ xin Trẫm ban Tháp hiệu và viết bài minh khắc vào bia đá tưởng niệm. Trẫm ban thụy hiệu “Hạnh Đoan Thiền Sư”. Trẫm cũng muốn muôn đời người người ngưỡng mộ điều thiện, thành tựu quả vị Như Lai vô thượng và chung hưởng phúc lành thái bình bất tận. Chính vì vậy, Trẫm viết bài minh rằng:
Vời vợi thay trí tuệ
Rành rành đấng Phạm Tăng
Ung dung cùng trăng nước
Giới pháp trì nghiêm minh
Một thân trụ vững mạnh
Vắng lặng và cao kiến
Năm uẩn thân vốn không
Hoằng pháp lợi quần sanh
Như mây lành che mát
Mặt trời tuệ chiếu soi
Nhìn Ngài, trang nghiêm quá!
Như Núi Thái vời cao.
Ngày 08 tháng 4 niên hiệu Bảo Thái thứ 10 “Ban” Phụng lập
Quốc Ân, mùa Vu Lan năm Đinh Hợi (2007)
Thích Thiện Hạnh
Phụng dịch
Tài liệu tham khảo:
- SÁCH:
01. Hà Xuân Liêm (2000). Những ngôi chùa Huế. Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, trang 49-64.
02. Võ Văn Tường (1996). Việt Nam Danh lam Cổ tự. Tái bản lần 4, ngôn ngữ: Việt-Anh-Pháp-Hoa. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, trang 139-140.
03. Võ Văn Tường (2007). 108 Danh lam Cổ tự Việt Nam. Ngôn ngữ: Việt-Anh-Pháp-Hoa. Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, trang 139-142.
- CD-ROM:
Võ Văn Tường (1996). Những ngôi chùa nổi tiếng Việt Nam. Ngôn ngữ: Việt-Anh. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội.