Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

16. Nhân Quả

24/02/201116:04(Xem: 8262)
16. Nhân Quả

PHÁ MÊ KHAI NGỘ
Lê Sỹ Minh Tùng

16. Nhân Quả
(Law of Cause and Effect)

Mọi biến đổi của vạn vật trong vũ trụ nầy đều nằm trong một quy luật chung và quy luật nầy là sự giải tỏa mọi sự ưu tư, thắc mắc cho tất cả những điều kiện hiện sinh trong cuộc sống của chúng ta.

Vì thấy chúng sinh còn đang lặn hụp trong vòng mê mưội, Đức Phật đã phát huy ra luật nhân quả để chỉ cho chúng ta hiểu rõ từ căn cơ, ngọn nguồn sự tuần hành, biến dịch của vạn vật và vũ trụ.

Vậy thế nào là nhân quả?

Nhân là nguyên nhân, còn quả là kết quả. Nhân là cái mầm, Quả là cái trái mà phát sinh ra bởi từ cái mầm. Bởi thế, Nhân và Quả gắn liền với nhau như hình với bóng. Hãy có nhân là có quả và ngược lại nếu có quả thì phải có nhân.

Vì có sự tương đồng giữa nhân và quả, nên chúng ta thấy rằng hể nhân như thế nào thì quả như thế ấy. Nếu ta gieo đậu thì chúng ta sẽ gặt đậu còn nếu ta trồng xoài thì chắc chắn ta sẽ được xoài chứ không bao giờ chúng ta trồng mía mà đạt được khoai. Nói một cách khác, nhân và quả bao giờ cũng cùng một loại với nhau, nhưng hể nhân đổi thì quả cũng đổi theo.

Bây giờ chúng ta tự hỏi là hạt lúa tự nó có thể sinh ra cây lúa không? Lý do hạt lúa có thể phát triển để trở thánh cây lúa là vì hạt lúa được sự cấp dưỡng và hấp thụ bởi những điều kiện chung quanh như không khí, ánh sáng, đất nước...chứ tự nó không thể phát triển thành cây lúa được. Điều này cho thấy một nhân không thể nào sinh ra quả nếu không có sự giúp đở của nhiều nhân khác. Do đó mọi sự vật trong vũ trụ này đều là sự tổ hợp của nhiều nhân duyên.

Khi ta gọi một vật là nhân, có nghĩa là nó chưa biến chuyển hình thành ra cái quả còn một vật mà ta gọi là quả thì nó đã biến chuyển hình thành ra trạng thái mà ta mong muốn. Do đó, chính trong cái nhân hiện tại đã có hàm chứa cái quả tương lai, và cũng trong cái quả hiện tại đã có hình bóng của nhân quá khứ.

Nếu như vậy thì sự biến chuyển từ nhân đến quả mau chậm như thế nào?

Đây là một điểm tối quan trọng khi nói đến luật nhân quả bởi vì sự biến chuyển từ nhân đến quả có khi nhanh khi chậm, không bao giờ diễn biến trong cùng một thời gian đồng nhất.

Có khi từ nhân đến quả cách nhau như một cái chớp mắt. Chẳng hạn như khi ta đưa tay nhéo người kế bên (nhân), thì họ la làng ngay (quả).

Có khi từ nhân đến quả cách nhau mấy tháng, như khi ta gieo lúa (nhân) cho đến mùa gặt (quả) thì phải trải qua bốn năm tháng.

Có khi đòi hỏi đến một vài năm, hay dài hơn nữa. Như khi ta lo thủ tục đi định cư đoàn tụ gia đình (nhân) cho đến khi họ đến Hoa Kỳ (quả) phải mất khoảng từ hai, ba hoặc năm, sáu năm.

Có khi đòi hỏi đến vài trăm năm thì nhân quả mới xuất hiện.

Vậy nhân quả ảnh hưởng về tư tưởng và hành động của cuộc sống chúng ta như thế nào?

Lý do mà triết lý Đạo Phật quá cao siêu bởi vì Đức Phật đã tìm ra nguồn gốc của sự đau khổ rồi tìm phương pháp tận diệt nỗi đau khổ nầy. Sau đó Ngài cho ta thấy đâu là lẽ sống chân thật, một hạnh phúc viên mãn, và cuối cùng là dùng phương pháp nào để đạt đến sự sung sướng thật sự này. Đây là triết lý Tứ Diệu Đế mà chúng tôi sẽ đề cập trong những chương sau nầy.

Trong những nguyên nhân chính tạo ra sự đau khổ và mang lại trong Tâm ta rất nhiều điều phiền não, thì tam độc (Tham, Sân, si) đóng một vai trò tối quan trọng trong việc tạo tác những Nhân xấu. Những nhân xấu nấy đã đưa cái thân Tứ đại của chúng ta đến những hậu quả vô cùng thê thảm, mà trong đó bao gồm hy vọng và niềm tin thoát ra khỏi cái vòng luân hồi lẫn quẩn. Do đó chúng ta càng tạo nhiều nhân tốt thì tương lai chúng ta sẽ gặt hái nhiều kết quả sáng lạng. Đó chính là cứu cánh cho cuộc sống hiện tại của chúng ta được an vui tự tại cũng như vun trồng bồi đắp cho mảnh vườn công đức được đơm hoa kết trái.

Vậy thế nào là thân tứ đại?

Theo giáo lý nhà Phật thì thân của chúng ta là do bốn món hợp thành nên không chắc thực lâu bền. Bốn món đó là: đất, nước, gió, lửa và vì những thứ này có thể tìm thấy ở mọi nơi nên mới có tên là đại. Chất cứng trong thân thể chẳng hạn như xương thịt, tóc da thì thuộc về đất. Chất ướt như là máu me, nước, đờm thì thuộc về nước. Chất làm cho thân thể nóng nhiệt thì thuộc về lửa. Chất làm cho tế bào, dòng máu,và nước chuyển động thì thuộc về gió. Nếu thiếu một trong bốn món nầy thì thân phải hui nhị tì. Nhưng bốn món nầy thì luôn luôn thù nghịch chống đối nhau như lửa thì không ưa nước còn đất thì kỵ gió và ngược lại. Khi lửa thịnh hơn nước thì chúng ta cảm thấy nóng bức đau đầu còn gió thạnh hơn đất thì thân chúng ta đau nhức quằn quại. Vì chúng luôn luôn chống đối nhau, nên lúc nào thân của chúng ta cũng có thể bệnh hoạn hay chực chờ để tan rã. Nếu chúng ta khéo điều hòa thì thân nầy còn an ổn, bằng không thì chúng dễ dàng băng hoại. Sự băng hoại của thân thật bất định. Một mạch máu bể, một cái sẩy chân, một luồng gió độc, một viên đạn xuyên qua…là mất mạng. Sự hòa hợp cũa tứ đại thật là khó khăn và không có gì bảo đảm lâu dài bởi vì chúng mang bản chất thù nghịch nhau. Khi chúng ta đang thở là mình đang mượn gió để hít thở và miệng ta ăn cơm uống nước là mượn nước, mượn đất và lửa. Nếu sự vay mượn ấy được thuận chiều ổn thỏa thì thân được an vui khỏe mạnh còn nếu bị trở ngại khó khăn thì thân đau đớn nguy kịch.

Thật vậy, cuộc sống an vui hạnh phúc là do sự vay mượn một cách yên ổn điều hòa, và ngược lại là sự sống đau khổ bất hạnh. Vậy sự sống còn là nhờ vay mượn thì ai dám nói thân nầy là thật, là bền vững lâu dài. Thậm chí đất, nước, gió, lửa bên ngoài là của thiên nhiên trời đất, vậy mà khi chúng ta mượn vào xài, thì liền cho nó là của chính mình.

Khi đã hiểu rõ luật nhân quả, chúng ta có thể mạnh dạn gạt bỏ những quan niệm mê tín dị đoan. Chẳng hạn như chúng ta mua đồ vật thật nhiều, đủ thứ để cúng lạy Phật trời với hy vọng sẽ được giàu sang, phú quý. Trên đời này làm gì có đạo lý như vậy! Đây là hoàn toàn mê tín dị đoan bởi vì đã là Phật thì không khi nào đi ăn hối lộ để ban thưởng cho ai cả. Nếu chúng ta được hưởng giàu sang phú quý ngày nay là bởi kiếp trước chúng ta rộng tâm bố thí giúp kẻ khốn cùng, giúp người nghèo khổ, che chở kẻ hoạn nạn để tạo ra phúc đức nên kiếp này chúng ta được hưởng vậy thôi. Nếu chúng ta muốn tiếp tục hưởng sự giàu sang nầy thì ngay bây giờ chúng ta phải cố gắng tạo dựng thêm phước đức để bảo đảm cho hậu vận của mình. Cũng như tiền bạc trong ngân hàng, cho dù chúng ta có nhiều đi chăng nữa, nhưng nếu cứ lấy ra xài hoài thì một ngày nào đó số tiền kia cũng phải cạn đi. Người khôn ngoan thì phải tạo thêm để bảo đảm cho tương lai hậu vận của mình, càng nhiều phước đức thì càng hạnh phúc về sau.

Thêm nữa, khi đã hiểu luật nhân quả thì chúng ta biết rằng cuộc đời của chúng ta là do nghiệp nhân của mình tạo ra. Chính mình là người thợ tự xây dựng đời mình, chính mình là kẻ sáng tạo ra cái ta, thì mình phải cố gắng làm điều tốt, càng nhiều thì càng phúc lợi. Đó là những cái nhân quý báu để đem lại những cái quả tốt đẹp về sau.

Có người lại than phiền rằng: tại sao lại có người cả đời ăn hiền ở lành mà lúc nào cũng gặp toàn cảnh đắng cay, đau khổ còn kẻ gian ác thì tại sao lại được sung sướng giàu sang? Như chúng ta đã biết, thời gian biến chuyển từ nhân đến quả có khi nhanh khi chậm. Có cái nhân dẫn đến quả ngay củng có cái nhân từ đời này đến đời sau mới thành quả. Vậy trong kiếp trước họ đã tạo quá nhiều nhân xấu, nên kiếp nầy họ phải chịu quả báo. Còn những kẻ gian ác kia, mặc dầu hiện tại họ có phần sung sướng, bởi vì tiền kiếp họ là người tốt, nhưng với những ác nghiệp hoặc nhân xấu mà họ đang tạo ra, thì chắc chắn là tương lai hậu kiếp của họ thật đen tối vô cùng.

Bởi vậy cổ nhân có câu:

Thiện ác đáo đầu chung hữu báo

Chỉ tranh lai táo dữ lai trì.

Tạm dịch là:

Việc lành hay việc dữ đều có quả báo

Chỉ khác nhau là đến sớm hay muộn mà thôi.

Lại cũng có người thắc mắc: theo luật nhân quả thì ai làm nấy chịu, tại sao cha làm mà con phải gánh? Theo giáo lý nhà Phật thì Nhân quả Nghiệp báo có hai loại:

Ø Biệt nghiệp: là nghiệp báo riêng của mỗi chúng sinh, có nghĩa là mình tạo thì mình hưởng.

Ø Công nghiệp: là nghiệp chung cho nhiều chúng sinh, cùng sống trong một hoàn cảnh. Do đó khi sống chung trong một gia đình thì cái nghiệp quả phải có liên quan với nhau.

Bởi vậy sách có câu:

Nhất nhơn tác phước, thiên nhơn hưởng;

Độc thọ khai hoa, vạn thọ hương.

Nghĩa là: một người làm phước, ngàn người được nhờ. Một cây trổ hoa, muôn cây thơm lây.

Khi Bồ tát Văn Thù hỏi về thiện tri thức?

Đức Phật trả lời rằng:”Thiện tri thức tâm tánh mềm mỏng hòa nhã, giới hạnh tinh chuyên, lòng không tham lam tật đố, không ái luyến vật chất, tâm thường bình đẳng, ý không thương ghét. Có đại phương tiện độ mình độ người, tùy theo căn tánh của mỗi người mà giáo hóa, đủ pháp tổng trì. Lòng tốt đối với người, làm ơn cho người chẳng cần trả, tu hành trong sạch, không có lỗi lầm, thuyết pháp luận nghĩa đều hiệp ý kinh.

Nếu có trí tuệ hơn người, phước đức siêu quần, không chỗ nào chẳng lành, không pháp nào chẳng biết. Mở cửa chánh đạo, ngăn dẹp đường tà, trồng trí huệ thơm khắp, căn cơ lớn, diệu dụng lớn, hạnh nguyện lớn, uy lực lớn. Đây chính là đại thiện tri thức chân chánh”.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/04/2023(Xem: 9926)
Học đạo quý vô tâm Làm, nghĩ, nói không lầm Sáng trong và lặng lẽ Giản dị mới uyên thâm
18/03/2023(Xem: 6509)
Tây phương Kinh tế học có thể bị chỉ trích bởi dựa trên sự hợp lý hóa hành vi cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuận vì lợi ích của một nhóm nhỏ, phụ thuộc vào sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và sự suy thoái môi trường chung của chúng ta. Trong khi đó, Kinh tế học Phật giáo được hình thành dựa trên sự tương tác phụ thuộc lẫn nhau của con người và môi trường, do đó mang lại sự an lạc hạnh phúc dựa trên từ bi tâm đối với tất cả chúng sinh. Mục tiêu của nó là duy sự phát triển bền vững gắn liền bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay, đồng thời khẳng định sự thịnh vượng chung và mang đến sự an lạc thịnh đạt cho người lao động, khách hàng, cổ đông và xã hội.
18/03/2023(Xem: 3782)
Công nghệ phát triển thay đổi cuộc sống con người, tuy nhiên sẽ thật ngây thơ khi tin rằng công nghệ chỉ mang lại lợi ích mà không phải trả giá. Một chủ đề lặp đi lặp lại trong lịch sử là sự ra đời của các công cụ và cơ bản công nghệ đổi mới, sẽ thay đổi cách chúng ta nhìn nhận bản thân và thế giới, cũng như trong đó có vai trò của chúng ta. Từ sự phát triển động cơ hơi nước, hàng không, xử lý máy tính và gần đây hơn là trí tuệ nhân tạo (AI), các công cụ và công nghệ đã cải thiện phúc lợi đáng kể và năng suất của con người nhưng không nhất thiết là phúc lợi của con người và các hệ sinh thái của thế giới.
15/03/2023(Xem: 3994)
Từ khi con người bắt đầu quy tụ sống thành nhóm, thành đoàn, và sau này phát triển đông đảo thành cộng đồng, xã hội, quốc gia, người ta đã biết tổ chức phân quyền, đưa ra những nguyên tắc luật lệ chung để mọi người dân sống trong cộng đồng quốc gia phải tuân theo. Những ai phạm tội phá rối trị an sẽ bị đem ra xét xử và trừng phạt theo nội quy luật lệ của quốc gia nơi họ cư ngụ. Có như thế thì mọi sinh hoạt trong cộng đồng xã hội mới giữ được trật tự, đời sống cá nhân mới được bảo đảm an toàn.
31/01/2023(Xem: 6427)
Kinh Châu Báu, thuộc kinh điển Nam Truyền, Tiểu Bộ Kinh, là một bài kinh Hộ Trì hay Cầu An, do Đức Phật Thích Ca nói ra khi Ngài được thỉnh đến thành Vesali, dân chúng đang chịu ba thứ nạn, nạn dịch bệch, nạn đói và nạn Phi Nhân. Dân chúng ở đây cầu mong nhờ ân đức cao trọng của Đức Phật, nhờ Phật Lực mà các hoạn nạn được tiêu trừ.
23/12/2022(Xem: 13983)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
02/11/2022(Xem: 18474)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 14012)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 12363)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6592)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567