Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4. Đặc điểm của Phật giáo

19/02/201105:23(Xem: 7126)
4. Đặc điểm của Phật giáo

PHẬT HỌC CĂN BẢN
Thích Giải Hiền

4. Đặc điểm của Phật giáo

4.1. Hàm dung nhưng có lớp lang

Phật giáo lấy giáo pháp làm phương tiện cứu tế, không phải lấy người hay thần làm pháp cứu tế. Đối với hết thảy các pháp ở thế gian Phật pháp không hề biên chấp nên là pháp vô ngã, từ bi và trí tuệ. Do vậy hết thảy các thiện pháp ở đời đều là Phật pháp. Bất luận là kỷ thuật, tri thức, triết học hay tôn giáo nếu có lợi ích cho cuộc sống, nhân tâm và xã hội Phật giáo đều không bài xích nên Phật giáo hàm dung hết thảy mọi thiện pháp ở thế gian.

Phật giáo phân thiện pháp thành năm tầng thứ là Nhân, Thiên, Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ-tát. Người là chỉ cho việc hoàn mỹ đầy đủ nhân cách, làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ. Đây là điều kiện cơ bản nhất, nếu trên điều kiện căn bản này biết tu hành hạnh bố thí lợi tha nữa thì tốt đẹp vô cùng. Làm thiện chính là “Cùng tắc độc thiện kỳ thân, Đạt tắc kiêm thiện thiên hạ„.Độc thiện là thiện pháp của Người, Kiêm thiện là thiện pháp của Trời. Đẩy đủ tiêu chuẩn trời người lại biết tu tập trí tuệ và thiền định thời sẽ đạt quả vị giải thoát Niết Bàn. Đó là tầng thứ của Thanh Văn và Duyên Giác. Lấy thiện pháp của trời người làm nền tảng rồi phát Bồ-đề-tâm nổ lực tin tấn không ngừng vì lợi ích của tha nhân, không màng đáp trả chỉ vì chúng sinh mà cống hiến và phục vụ là tầng bậc của địa vị Bồ-tát tự giác giác tha. Trên nền tảng của bốn tầng thứ trên nếu đạt được cảnh giới không, vô tướng, vô nguyện thời chính là Phật.

4.2. Chính tín mà không mê tín

Đặc trưng của mê tín là sùng bái một cách mê muội, không hợp tình hợp lý, như thật nhưng là giả, chính tà không phân.

4.2.1. Sùng bái một cách mê muội

Chính là người ta vậy nên mình cũng vậy, nghe người nào đó có thần thông thì liền tin theo mà không hề suy sét rõ ràng. Như người xưa có nói: ”Tìm lưu manh hơn cảnh sát“ lưu manh có lúc cũng giúp được ta điều gì đó nhưng di chứng khó lường.

4.2.2. Không hợp tình hợp lý

Là không hợp với định luật nhân quả như tin tưởng rằng: ”Lúa không nước trời không lớn, người không hoành tài không giàu“. Nên làm những nghề đầu cơ tích trữ, cho vay nặng lãi kiếm tiền không phù hợp với lý nhân quả thời chắc rằng hậu quả sẽ khó lường, có thể sẽ ”thân bại danh liệt“, ”tán gia bại sản“, ”cửa mất nhà tan“. Lại như tin vào bùa chú, đồng cốt cầu phát tài đánh đề trúng số nhưng của đến mau thì cũng đi mau. Hoặc tham ô, móc ngoặc, hối lộ, hà hiếp lấy của dân, của nước đều là không hợp tình, hợp lý. Bất luận là dựa vào sức mạnh của thần linh, sức mạnh của ma quỷ, ô dù của con người đều không phù hợp với lý nhân quả và là trạng thái của mê tín.

4.2.3. Như thật mà giả

Là chỉ tất cả mọi tôn giáo đều có đạo lý riêng, như dựa vào sức mạnh của thần linh, hay sức mạnh của sự gia trì, chỉ cần tin theo, làm theo thời sẽ linh sẽ nghiệm có thể thành Phật, có thể lập tức khai ngộ hoặc sẽ trừ được bệnh, tiêu được tai. Đưa ra những lý luận hoang đường, như thật như giả, không hề nói rõ nguyên nhân. Những tôn giáo như thế cần thận trọng chớ vội tin vì hậu hoạn khó lường.

4.2.4. Tà chính bất phân

Là sự mê tín do quỷ thần tạo ra, quỷ thần thường dựa đồng cốt để khuyên người, dụ người mới nghe như thiện nhưng khi đã tin theo rồi thì: ”thuận chi giả xương, nghịch chi giả vong” vừa uy hiếp vừa dẫn dụ để phải tin theo vì lo sợ và phải thuần phục mãi nếu rời bỏ thì bản thân, gia đình hay sự nghiệp sẽ gặp chướng nạn. Tiêu chuẩn thị phi của họ không giống với đời thường, quan điểm nhân quả của họ thời mê mờ không rõ.

Chính tín của Phật giáo là lấy Phật, Pháp, Tăng làm đối tượng để tín ngưỡng. Tin Phật không có nghĩa là sùng bái xác thân của Phật mà là tôn kính trí tuệ, từ bi và ân đức mà Đức Phật đã dành cho chúng ta. Tin vào giáo pháp của Phật đà nếu chúng ta thực hành theo thì sẽ đạt đến mục tiêu tự lợi lợi tha. Khi Đức Thế Tôn nhập diệt chúng đệ tử bạch hỏi: ”Sau khi Phật diệt độ chúng con lấy ai làm Thầy“ Phật dạy: “Chúng đệ tử lấy pháp làm Thầy, lấy giới làm Thầy“ . Dựa vào chính pháp của Phật đã dạy xây dựng tín tâm, như pháp tu hành thì đạt được giải thoát chứng Bồ-đề. Tin vào giáo đoàn Tăng Ni đệ tử Phật được truyền thừa từ đời này sang đời khác. Khi thọ giới thì Tăng đại diện cho Tam Bảo trụ trì Phật pháp. Lấy Tam Bảo làm đối tượng tín ngưỡng không có nghĩa là thần thánh hoá các vị xuất gia. Các vị xuất gia tuy chưa thành Phật, chưa chứng ngộ nhưng lấy pháp làm Thầy, sống trong giới luật, cần tu định tuệ và hướng dẫn quần chúng tu tập nên hình tướng xuất gia của quý vị là biểu trưng cho sự thanh tịnh ly dục của Phật giáo chúng ta.

Chính tín Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo thiếu một không được. Nếu chỉ tin Phật mà không tin pháp, không tin Tăng thì chẳng khác gì tin quỷ thần. Nếu chỉ tin pháp, không tin Phật, không tin Tăng thì khác gì đãy đựng sách. Nếu chỉ tin Tăng, không tin Phật, không tin pháp thì khác chi việc nhận cha mẹ nuôi. Phải tin đủ Phật Pháp Tăng Tam Bảo thì mới là chính tín Phật giáo.

4.3. Thần thánh mà không thần bí

Thần bí là cao vời vợi không với tới được nhưng vẫn cảm nhận được uy lực của vị ấy có thể khống chế mình ở mọi nơi nhưng không biết rõ được là họ đang ở đâu. Tuỳ lúc mà họ có thể cho mình sự giúp đỡ nhưng không biết vì lý do gì, có thể trừng phạt mình bất kỳ lúc nào nhưng tìm chẳng thấy họ đâu. Thường biểu hiện những năng lực phi thường nhưng chưa chắc là có ích cho chúng ta. Tất cả những biểu hiện này có thể là do con người dùng kỷ xảo tạo ra, cũng có thể là do sự phản ứng không bình thường của tâm lý chúng ta, cũng có cái do linh lực của quỷ thần.

Phật Pháp Tăng Tam Bảo là Thần Thánh, vì Phật là người có trí tuệ, lòng từ bi và nhân cách cứu cánh viên mãn. Pháp là phương pháp và đạo lý để đoạn trừ phiền não chứng Bồ-đề. Tăng là những bậc tu hành trên cầu vô thượng chính giác, dưới hoá độ vô biên chúng sinh. Tam Bảo trong Đạo Phật không phải bất kỳ tôn giáo nào cũng có thể có được nên thần thánh không thể nghỉ bàn nhưng không phải là thần bí của quỷ thần. Người theo đạo Phật phải phát tâm vô thượng Bồ-đề học Phật, tu pháp, hành Bồ-tát đạo, dùng Phật pháp giúp chúng sinh đoạn trừ việc ác đã sinh, ngăn ngừa việc ác chưa sinh là khiến cho chúng sinh sớm lìa khổ. Lại làm cho chúng sinh tăng trưởng những điều thiện đã phát sinh, phát triển những điều thiện chưa sinh, đó chính là khiến cho chúng sinh sớm được an lạc. Không cầu an lạc cho bản thân chỉ mong cho chúng sinh được an lạc là tâm Bồ-đề vô ngã, không cần phải dùng hình tướng của Bồ-tát hay hoá Phật để dạy bảo chúng sinh mà dùng hình tướng chúng sinh đặng khuyến hoá họ. Thần Thánh mà không thần bí là vậy.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/03/2013(Xem: 4288)
Luận Phật Thừa Tông Yếu là tùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bản và cương yếu của Phật pháp. Thế nên bộ luận này cũng có tên là Khái Luận Về Phật Pháp Hiện Đại.
16/02/2013(Xem: 4986)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến: Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này. Hán dịch Pratīya là Duyên và Anh dịch là Condition. Trong Māhyamika, Ngài Nāgārjuna giải thích chữ Pratīya như sau: Utpadyate pratītyemān itīme pratyayaḥ kīla (1). Nghĩa là, do làm điều kiện cho cái kia sinh khởi, những cái này người ta gọi là Duyên. Samutpāda có nghĩa là tập khởi, đồng khởi, sinh khởi, tương khởi, cộng khởi… Do những ý nghĩa trên, mà Pratīya-samutpāda được các nhà Hán dịch là Duyên khởi hay Duyên sinh, tức là sự khởi sinh của vạn pháp cần phải có điều kiện (pratīya), nếu không có điều kiện, thì các pháp không thể sinh khởi.
31/12/2012(Xem: 4945)
Theo nghĩa hẹp, nhẫn nhục là nhịn chịu mọi nhục nhã và mọi khó khăn trở ngại, và vượt qua chúng một cách bình ổn. Nhà Phật gọi những chướng duyên làm ngăn trơ ûsự tiến tu là ma chướng, gồm ngoại ma (trở ngại do người khác hoặc hoàn cảnh bên ngoài gây ra)và nội ma (trở ngại từ chính thân tâm mình)
28/12/2012(Xem: 24961)
Là người mới bắt đầu học Phật, tôi nhận thấy quyển sách nhỏ này thể hiện tốt tinh thần vừa giáo dục vừa khai sáng. Mặc dù đạo Phật có bề dày lịch sử phong phú, đầy những giá trị, điều cần thiết đối với người học Phật ngày nay vẫn là làm thế nào để ứng dụng lời đức Phật dạy vào đời sống hàng ngày. Quyển 100 điều đạo đức tại gia này giúp tôi hiểu tầm ảnh hưởng của đạo Phật đối với cuộc sống thường nhật của con người. Nó có thể được xem như quyển sổ tay hướng dẫn chúng ta sống cuộc đời theo chánh pháp.
09/12/2012(Xem: 13169)
Người ta thường nói rằng tác giả 14 điều Phật dạy là Hòa thượng Kim Cang Tử. Thực tế không phải như vậy. Hòa thượng Kim Cang Tử chỉ có công phiên dịch 14 điều này ra từ chữ Hán. Vào những năm 1998-1999, ta mới thấy 14 câu này được lưu hành. Gần đây, chúng tôi có đọc được bản nguyên tác chữ Hán có ghi rõ xuất xứ là chùa Thiếu Lâm ở Trung Quốc tặng cho các phái đoàn Việt Nam.
08/11/2012(Xem: 8744)
Cách đây ít lâu - chính xác là ngày 14 tháng 9 - một bài viết được đăng lên trang Phật giáo Thư viện Hoa sen có nhan đề “Kinh Vu Lan Bồn thực hay giả?”của tác giả Đáo Bỉ Ngạn. Ngay hôm sau đó, bài viết này cũng xuất hiện trên trang Văn hóa Phật giáo và gợi lên một loạt những tranh biện kéo dài đến hơn một tháng sau. Ý kiến cuối cùng được đăng bên dưới bài viết này là vào ngày 20 tháng 10.
31/07/2012(Xem: 6642)
Chúng tôi viết quyển sách này cho nhữngngười mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quantrọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được. Người học Phật khimới vào đạo không hiểu đúng tinh thần Phật giáo, về sau sẽ hỏng cả một đời tu.Người có trách nhiệm hướng dẫn không thể xem thường kẻ mới học, cần phải xâydựng có một căn bản vững chắc, đi đúng đường hướng của Phật dạy. Hiểu Phật giáomột cách đúng đắn, mới mong thành một Phật tử chân chánh.
27/05/2012(Xem: 12507)
Trải qua nửa thế kỷ thuyết pháp độ sinh, Đức Đạo sư đã hóa độ đủ mọi hạng người, không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, sang hèn. Những đệ tử được Thế Tôn hóa độ, do căn cơ trình độ, tuổi tác, giới tính bất đồng, vì thế được chia thành 7 nhóm và được gọi là 7 chúng đệ tử của Phật. Trong đó, hai nhóm đầu là Ưu bà tắc và Ưu bà di thuộc hàng đệ tử tại gia; năm nhóm sau là Sa di, Sa di ni, Thức xoa ma na, Tỷ kheo và Tỷ kheo ni thuộc hàng đệ tử xuất gia. Trong bài này, chúng tôi sẽ tuần tự trình bày những giới pháp mà mỗi chúng đệ tử phải lãnh thọ, hành trì trên lộ trình tiến đến giải thoát.
12/02/2012(Xem: 5088)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
21/01/2012(Xem: 14642)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567