Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

8. Niệm Ân Đức Tam Bảo

01/02/201111:44(Xem: 9303)
8. Niệm Ân Đức Tam Bảo

CĂN BẢNPHẬT GIÁO
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, TL. 2005 - PL. 2549

NiệmÂn Đức Tam Bảo

BìnhAnson

---*---

Hằngngày,vào buổi sáng sớm và buổi tối, các Phật tử trongtruyền thống Nam tông thường tụng các bài kinh văn căn bản,trong đó, có bài tụng về các ân đức Tam Bảo, Phật-Pháp-Tăng.Ở đây, xin mạo muội trình bày sơ lược về ý nghĩa cáclời tán dương Tam Bảo đó, dựa theo một tập sách học tiếngPàli của Tỳ-khưu Nguyệt Thiên Indacanda.

*

Bắtđầumỗi buổi lễ, chúng ta thường nghe tụng câu:

Namotassa bhagavato arahato sammà sambuddhassa

Trongđó,

Namotassa: Xin cung kính đến vị ấy.
bhagavato:đức Thế Tôn, đức Phá-ga-va.
arahato:bậc A-la-hán, Ứng Cúng.
sammàsambuddhassa: đấng Chánh Biến Tri, Chánh Đẳng Giác, BậcTự Giác Ngộ hoàn toàn, không ai chỉ dạy.
Nghĩatoàncâu: "Cung kính đến Ngài là đức Thế Tôn (Phá-ga-va),bậc A-la-hán (Ứng Cúng), đấng Chánh Biến Tri".

*

Tiếptheo,là các câu tụng về ân đức Tam Bảo như sau:

1)Ân đức Phật Bảo:

Itipiso Bhagavà Araham Sammàsambuddho Vijjàcaranasampanno Sugato LokavidùAnuttaro Purisadammasàrathi Satthà devamanussànam Buddho Bhagavàti

Itipiso:Thật vậy, vị ấy là ...
Bhagavà:đức Thế Tôn.
Araham:người không còn ô nhiễm, bậc A-la-hán, bậc Ứng Cúng.
Sammàsambuddho:đấng Chánh Biến Tri, Chánh Đẳng Giác, Bậc Tự Giác Ngộhoàn toàn, không ai chỉ dạy.
Vijjàcaranasampanno:Minh Hạnh Túc, người có trí tuệ và đức hạnh thành tựumột cách trọn vẹn.
Sugato:bậc Thiện Thệ, vị đã ra đi một cách trọn vẹn, đã Niết-bàn.
Lokavidù:người hiểu biết rõ ràng về thế gian, Thế Gian Giải.
Anuttaro:không gì hơn được, Vô Thượng Sĩ.
Purisadammasàrathi:người có khả năng điều khiển, huấn luyện kẻ khác,Ðiều Ngự Trượng Phu.
Satthàdevamanussànam:vị thầy của chư thiên và loài người,Thiên Nhân Sư.
Buddho:bậc đã giác ngộ, đức Phật.
Bhagavà:Đức Thế Tôn.

Nghĩatoàncâu:"Thật vậy, bậc đáng kính trọng ấy làA-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, ThếGian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên NhânSư, Phật, Thế Tôn."

Đâylàđoạn văn rất thường gặp trong các bài kinh thuộc ĐạiTạng Kinh do ngài Hòa thượng Thích Minh Châu dịch sang Việtngữ. Đó cũng là 10 Danh hiệu của Đức Phật. Tuy nhiên, trongmột vài kinh sách, chúng ta chỉ thấy đề cập đến 9 danhhiệu, đó là vì 2 danh hiệu Vô Thượng SĩÐiềuNgự Trượng Phuđôi khi được gộp chung thành một, nhưcó giải thích trong bộ luận Thanh Tịnh Đạo, Chương VII,của ngài Phật Âm (Buddhaghosa).

Ngoàira, trong nhiều kinh sách Bắc tông, có thấy thêm vào danh hiệuNhư Lai, tạo ra 11 danh hiệu. Để có được con số 10danh hiệu, có sách gộp chung Vô Thượng Sĩ ĐiềuNgự Trượng Phu thành một, hay gộp chung PhậtThế Tônthành một danh hiệu.

Trongquyển "Nghi thức tụng niệm" của chùa Pháp Luân, Texas, HoaKỳ, có dịch là:

HồngdanhPhật nhiệm mầu Ứng Cúng,
ChánhBiến Tri, Minh Hạnh đủ đầy,

Ðứcân Thiện Thệ cao dày,

BậcThế Gian Giải chỉ bày lý chân,

VôThượng Sĩ pháp âm tịnh diệu,

BậcTrượng Phu Ðiều Ngự độ sanh,

ThiênNhân Sư đấng cha lành,

PhậtÐà toàn giác, Thế Tôn trong đời.

*

2)Ânđức Pháp Bảo:

Svàkkhàtobhagavato dhammo sanditthiko akàliko ehipassiko opanayiko paccattam veditabbovinnùhìti

Svàkkhàto:đã khéo được thuyết giảng.
bhagavato:của đức Thế Tôn.
dhammo:giáo pháp.
Svàkkhàtobhagavatodhammo: Pháp của đức Thế Tôn đã khéo đượcthuyết giảng
sanditthiko:hoàn toàn hiển nhiên, được thấy rõ ràng.
akàliko:không đợi thời gian, không bị chi phối bởi thời gian.
ehipassiko:hãy đến và hãy thấy, mời đến để thấy.
opanayiko:có khả năng hướng thượng, dẫn dắt về hướng thượng(Niết-bàn).
paccattam:tự cá nhân, riêng rẽ.
veditabbo:nên được hiểu biết.
vinnùhì:bởi các bậc trí tuệ.

Nghĩatoàncâu:"Pháp của đức Thế Tôn đã khéo đượcthuyết giảng, hoàn toàn hiển nhiên, không bị chi phối bởithời gian, hãy đến và hãy thấy, có khả năng dẫn dắt vềhướng (Niết-bàn), và nên được hiểu biết tự cá nhânbởi các bậc trí tuệ."

Trongcácbộ kinh Nikàya, Hòa thượng Minh Châu dịch là "Ðâylà Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, cóquả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng,do người trí tự mình giác hiểu."

Trongquyển "Nghi thức tụng niệm" của chùa Pháp Luân, Texas, HoaKỳ, có dịch là:

Phápvidiệu, cha lành khéo dạy,
Lìadanh ngôn, giác ngộ hiện tiền,

Vượtthời gian, chứng vô biên,

Sátna đại ngộ, hoát nhiên liễu tường,

Ðạovô thượng, đến rồi thấy rõ,

Hướngthượng tâm, thoát ngõ vọng trần,

Trínhân tự ngộ giả chân,

Diệuthường tịnh lạc, Pháp ân nhiệm mầu.

*

3)Ânđức Tăng Bảo:

Supatipannobhagavato sàvakasangho
ujupatipannobhagavato sàvakasangho

nàyapatipannobhagavato sàvakasangho

sàmìcipatipannobhagavato sàvakasangho

yadidamcattàri purisayugàni atthapurisapuggalà

esabhagavato sàvakasangho

àhuneyyopàhuneyyo dakkhineyyo anjalikaranìyo

anuttarampunnakkhettam lokassàti

Supatipanno:đã tu hành tốt đẹp trong thiện đạo (thiện hạnh)
bhagavato:của đức Thế Tôn.
sàvakasangho:Tăng chúng đệ tử.
bhagavatosàvakasangho:Tăng chúng đệ tử của đức Thế Tôn.
ujupatipanno:đã tu hành trong trực đạo (trực hạnh)
nàyapatipanno:đã tu hành trong chân đạo (như lý hạnh).
sàmìcipatipanno:đã tu hành trong chánh đạo (chân chánh hạnh).
yadidam:điều trên có nghĩa là thế này.
cattàri:bốn (số đếm).
purisayugàni:(bốn) cặp / đôi hạng người: Đạo quả Dự lưu, Đạo quảNhất lai, Đạo quả Bất lai, Đạo quả A-la-hán (Đạo vàQuả tính chung thành một đôi).
atthapurisapuggalà:tám hạng người, nếu tính đơn, đó là Đạo và Quả táchrời ra.
esa:nhóm người ấy, nhóm người đã nói ở trên.
bhagavato:của đức Thế Tôn.
sàvakasangho:Tăng chúng đệ tử.
àhuneyyo:đáng được cung kính.
pàhuneyyo:đáng được thân cận.
dakkhineyyo:đáng được cúng dường.
anjalikaranìyo:đáng được chắp tay, đáng được lễ bái.
anuttaram:không gì hơn được, vô thượng.
punnakkhettam:nơi để gieo nhân phước báu, phước điền.
lokassà:của thế gian.

Nghĩatoàncâu:Trong các bộ kinh Nikàya, Hòa thượng Minh Châudịch là "Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Thiện hạnh;chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Trực hạnh; chúng Tăngđệ tử Thế Tôn là bậc Như lý hạnh; chúng Tăng đệ tửThế Tôn là bậc Chân Chánh hạnh; tức là bốn đôi, tám chúng.Chúng Tăng đệ tử này của Thế Tôn đáng được cung kính,đáng được thân cận, đáng được cúng dường, đáng đượcchấp tay chào, là phước điền vô thượng ở trên đời."

Trongquyển"Nghi thức tụng niệm" của chùa Pháp Luân, Texas, HoaKỳ, có dịch là:

Bậcdiệuhạnh, thinh văn Thích Tử,
Bậctrực hạnh, pháp lữ thiền gia,

Bậcnhư lý hạnh, Tăng Già,

Bậcchân chánh hạnh, dưới toà Thế Tôn,

Thànhđạo quả bốn đôi, tám chúng,

Ðệtử Phật ứng cúng tôn nghiêm,

Cungnghinh kính lễ một niềm,

Thánhchúng vô thượng, phước điền thế gian.

*

Trìtụng,ghi nhớ và thông hiểu rõ ràng 3 câu tụng trên là mộtpháp hành căn bản nhưng rất quan trọng. Khi thông hiểu ýnghĩa, chúng ta tăng trưởng niềm tín thành nơi Tam Bảo. Khighi nhớ và trì tụng đều đặn, thường xuyên, chúng ta dưỡngnuôi sự định tâm.

TrongTương Ưng Bộ 11.3, kinh Đầu Lá Cờ, Đức Phật khuyên cácvị Tỳ-khưu khi hành thiền, sống độc cư trong rừng vắng,nên thường xuyên tụng niệm và quán tưởng đến ân đứcTam Bảo qua các câu trên để giúp các vị ấy có thêm tựtin, không còn lo âu, sợ hãi. Ngài tóm tắt trong câu kệ:

"Nàycác vị Tỳ-khưu,
Trongrừng hay gốc cây,

Haytại căn nhà trống,

Hãyniệm bậc Chánh Giác.

CácÔng có sợ hãi,

Sợhãi sẽ tiêu diệt.

Nếukhôngtư niệm Phật,
Tốithượng chủ ở đời,

Vàcũng là Ngưu vương,

Trongthế giới loài Người,

Vậyhãy tư niệm Pháp,

Hướngthượng, khéo tuyên thuyết.

Nếukhông tư niệm Pháp,
Hướngthượng, khéo tuyên thuyết,

Vậyhãy tư niệm Tăng,

Làphước điền vô thượng.

Vậynày các Tỳ-khưu,
Nhưvậy tư niệm Phật,

Tưniệm Pháp và Tăng,

Sợhãi hay hoảng hốt,

Khôngbao giờ khởi lên".

ĐứcPhật cũng khuyên hàng đệ tử cư sĩ có những tùy niệm tươngtự như thế. Trong Tăng Chi Bộ 11.12, Ngài dạy vị cư sĩ ĐạiDanh (Mahànàma)về 6 tùy niệm: niệm Phật, niệm Pháp,niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí (Bố thí), và niệm chư Thiên.Về niệm Phật-Pháp-Tăng, Ngài nói:

--"NàyMahànàma,trong khi vị Thánh đệ tử tùy niệm Tam Bảo (Phật-Pháp-Tăng),tâm của vị ấy không bị tham ám ảnh, không bị sân ám ảnh,không bị si ám ảnh. Tâm của vị ấy được chánh trực nhờduyên Tam Bảo. Vị Thánh đệ tử ấy, với tâm chánh trực,có được nghĩa tín thọ, có được pháp tín thọ, có đượchân hoan liên hệ đến pháp. Khi có hân hoan, hỷ sanh; khi cóhỷ, thân được khinh an; khi thân được khinh an, cảm giácđược lạc thọ; khi có lạc thọ, tâm được định tĩnh.Này Mahànàma, như vậy gọi là bậc Thánh đệ tử sống đạtđược bình đẳng với chúng sanh không bình đẳng, sống đạtđược vô sân với chúng sanh có sân, nhập được pháp lưu,tu tập tùy niệm Tam Bảo".

Trongbộ luận Thanh Tịnh Đạo, Chương VII, ngài Phật Âm đề cậpđến các lợi ích của pháp niệm ân đức Tam Bảo như sau:

--"Khi vị hành giả chú tâm đến việc suy niệm đấng GiácNgộ như vậy, suy niệm Chánh Pháp như vậy, suy niệm chư ThánhTăng như vậy, vị ấy có lòng tôn kính đức Phật, tôn kínhGiáo Pháp của Ngài, tôn kính chư Thánh Tăng đệ tử củaNgài. Vị ấy đạt đến sự viên mãn về đức tin, chánhniệm, trí tuệ và công đức. Vị ấy có nhiều hạnh phúcvà an lạc, nhiếp phục được sự sợ hãi khủng bố, vàcó khả năng kham nhẫn, chịu đựng các khổ đau. Vị ấycó cảm giác như mình đang sống trước mặt đấng Đạo sư,đang sống trong Chánh Pháp, đang sống với các bậc Thánh Tăng.Trong khi an trú suy niệm những đức tính đặc biệt của TamBảo, thân thể của vị hành giả ấy trở thành một nơiđáng tôn trọng như một đền thờ. Tâm vị ấy hướng vềchư Phật, hướng về Pháp vô thượng, hướng về chư ThánhTăng. Hành giả ấy cảm thấy hổ thẹn và e sợ (tàm và quý)trước các ác pháp, và như thế giúp vị ấy không phạm giới.Nếu vị ấy không chứng đạt được quả vị cao thượngtrong kiếp này, thì ít nhất, vị ấy cũng sẽ tái sinh vàomột cảnh giới an lạc sau khi chết".

*

Đasố Phật tử Việt Nam chúng ta, thường không quen thuộc vớicác bài kinh tụng trong truyền thống Phật giáo Nam tông, cólẽ sẽ cảm thấy bỡ ngỡ, khó khăn khi bắt đầu tụng niệmcác câu ân đức Tam Bảo trình bày ở trên. Tuy nhiên, nếucó dịp gần gũi với chư Tăng Nam tông và các cộng đồngPhật tử trong vùng Nam Á và Đông Nam Á như: Thái Lan, Cam-pu-chia,Lào, Miến Điện và Tích Lan, và nếu chúng ta thường xuyêntham dự các khóa tu thiền, dần dần, chúng ta sẽ quen nghecác câu tụng căn bản đó. Các bài tụng nầy đã đượcthu âm và quảng bá rộng rãi trên các trang web Phật Giáo củamạng Internet, qua các băng audio-cassette và đĩa CD; và điềuđó sẽ giúp chúng ta học thuộc và tụng đọc dễ dàng hơn,nếu có quyết tâm học tập.

Quakinh nghiệm bản thân cũng như qua các trao đổi với các bạnthiền sinh khác, một khi chúng ta thông hiểu ý nghĩa và trìtụng ân đức Tam Bảo thuần thục đều đặn mỗi ngày, chúngta sẽ thấy được nhiều lợi lạc do pháp hành tùy niệmđó mang đến cho sự hành thiền và làm phong phú thêm cho đờisống tinh thần của mình, như Đức Phật đã thường khuyêndạy cho hàng đệ tử, khi Ngài còn tại thế.

Tháng9-2004


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/04/2023(Xem: 9884)
Học đạo quý vô tâm Làm, nghĩ, nói không lầm Sáng trong và lặng lẽ Giản dị mới uyên thâm
18/03/2023(Xem: 6481)
Tây phương Kinh tế học có thể bị chỉ trích bởi dựa trên sự hợp lý hóa hành vi cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuận vì lợi ích của một nhóm nhỏ, phụ thuộc vào sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và sự suy thoái môi trường chung của chúng ta. Trong khi đó, Kinh tế học Phật giáo được hình thành dựa trên sự tương tác phụ thuộc lẫn nhau của con người và môi trường, do đó mang lại sự an lạc hạnh phúc dựa trên từ bi tâm đối với tất cả chúng sinh. Mục tiêu của nó là duy sự phát triển bền vững gắn liền bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay, đồng thời khẳng định sự thịnh vượng chung và mang đến sự an lạc thịnh đạt cho người lao động, khách hàng, cổ đông và xã hội.
18/03/2023(Xem: 3761)
Công nghệ phát triển thay đổi cuộc sống con người, tuy nhiên sẽ thật ngây thơ khi tin rằng công nghệ chỉ mang lại lợi ích mà không phải trả giá. Một chủ đề lặp đi lặp lại trong lịch sử là sự ra đời của các công cụ và cơ bản công nghệ đổi mới, sẽ thay đổi cách chúng ta nhìn nhận bản thân và thế giới, cũng như trong đó có vai trò của chúng ta. Từ sự phát triển động cơ hơi nước, hàng không, xử lý máy tính và gần đây hơn là trí tuệ nhân tạo (AI), các công cụ và công nghệ đã cải thiện phúc lợi đáng kể và năng suất của con người nhưng không nhất thiết là phúc lợi của con người và các hệ sinh thái của thế giới.
15/03/2023(Xem: 3968)
Từ khi con người bắt đầu quy tụ sống thành nhóm, thành đoàn, và sau này phát triển đông đảo thành cộng đồng, xã hội, quốc gia, người ta đã biết tổ chức phân quyền, đưa ra những nguyên tắc luật lệ chung để mọi người dân sống trong cộng đồng quốc gia phải tuân theo. Những ai phạm tội phá rối trị an sẽ bị đem ra xét xử và trừng phạt theo nội quy luật lệ của quốc gia nơi họ cư ngụ. Có như thế thì mọi sinh hoạt trong cộng đồng xã hội mới giữ được trật tự, đời sống cá nhân mới được bảo đảm an toàn.
31/01/2023(Xem: 6398)
Kinh Châu Báu, thuộc kinh điển Nam Truyền, Tiểu Bộ Kinh, là một bài kinh Hộ Trì hay Cầu An, do Đức Phật Thích Ca nói ra khi Ngài được thỉnh đến thành Vesali, dân chúng đang chịu ba thứ nạn, nạn dịch bệch, nạn đói và nạn Phi Nhân. Dân chúng ở đây cầu mong nhờ ân đức cao trọng của Đức Phật, nhờ Phật Lực mà các hoạn nạn được tiêu trừ.
23/12/2022(Xem: 13896)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
02/11/2022(Xem: 18418)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 13973)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 12341)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6567)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567