Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thực hành tụng niệm trong Phật giáo

09/10/201408:45(Xem: 5901)
Thực hành tụng niệm trong Phật giáo


Monk in the west-1
Thực hành tụng niệm trong Phật giáo
Bhikkhu Dhammasami 
Đăng Nguyên dịch
 





Một buổi lễ tụng kinh Pali theo truyền thống Nam tông


Tụng kinh hay cầu kinh là một điều phổ biến trong các tôn giáo. Phật giáo cũng không ngoại lệ trong vấn đề này. Tuy nhiên, mục đích của việc tụng niệm thì khác nhau giữa tôn giáo này với tôn giáo khác. Phật giáo là tôn giáo duy nhất không xem tụng niệm như là cầu nguyện.

Đức Phật trong nhiều phương cách đã chỉ dạy chúng ta phải có niềm tin vào hành động của mình và kết quả của nó, và qua đó khuyến khích chúng ta nương tựa vào chính mình mà không vào một ai khác. Điều này trong thực tế là điều cốt lõi nơi thông điệp sau cùng của Ngài ở trong kinh Đại Niết-bàn (Mahaparinibbana Sutta). Một trong những thông điệp trong kinh ngày là: “Này A Nan, hãy nương tựa chính mình và chớ nương tựa vào ai khác, hãy nương tựa Chánh pháp và chớ nương tựa vào pháp nào khác”.

Khi một người Phật tử tụng niệm, vị ấy không cầu xin ai đó cứu mình ra khỏi tội lỗi hay mong chờ dành cho mình một nơi chốn ở trên thiên giới sau khi chết. Thay vào đó, thông qua việc tụng niệm vị ấy có thể học tập, giảng dạy, suy nghiệm hay nhớ lại kinh điển.
Thật sự, trong Tăng chi bộ (Anguttara Nikaya), có một vài bản kinh liên quan đến việc tụng niệm như kinhDhammavihari Sutta. Nó đề cập đến năm hạng người sử dụng kinh điển.

Đầu tiên là người nghiên cứu nó chỉ với mục đích học hỏi mà không đưa nó vào trong thực hành hay giảng giải cho người khác. Vị ấy không quán chiếu sâu vào những gì mình đã học. Vị ấy được gọi là 'Pariyatti-bahulo', người chỉ thiện xảo trong nghiên cứu nó.

Thứ hai là người thuyết giảng những gì mình đã học được từ kinh sách nhưng bản thân không thực hành nó. Vị ấy được gọi là ‘Pannyatti-bahulo’, người chỉ thiện xảo trong giảng dạy.

Thứ ba là người tụng niệm. Vị ấy nghiên tầm và tư biện về kinh điển, cố gắng dành mọi thời gian để thỏa mãn khát khao triết học của mình. Vị ấy quên ứng dụng kinh điển vào đời sống. Vị ấy được gọi là ‘Vitakka-bahulo’, người chỉ say mê thỏa mãn những khía cạnh triết học của kinh điển.

Thứ tư là người tụng niệm kinh điển chỉ để mong nhớ lâu. Vị ấy học thuộc lòng và ghi nhớ lại. Tuy nhiên, vị ấy không đi xa hơn là áp dụng nó vào trong đời sống hàng ngày. Vị ấy được gọi là ‘Sajjhayaka-bahulo’, người chỉ say mê học thuộc lòng và tụng niệm lời dạy của Đức Phật. Vị ấy thậm chí mong muốn có được thần thông từ việc tụng niệm.

Thứ năm và cuối cùng là người học hỏi kinh điển, giảng dạy chúng cho người khác, quán chiếu những điểm triết học của chúng, tụng niệm chúng thường xuyên và trên hết là thật sự thực hành chúng ở trong đời sống hàng ngày. Vị ấy là người mà Đức Phật tán thán là ‘Dhammavihari’ - một người thực hành Pháp (Dhamma), điều mà vị ấy đã học được từ kinh điển.

Sau khi đã quán chiếu bản kinh này, chúng ta hãy nhìn  xem mình thuộc về hạng người nào, và tại sao chúng ta học hay tụng kinh.
Thế thì tại sao chúng ta, những Phật tử, tụng niệm?

Ngày xưa, trước khi có những phương tiện hỗ trợ đầy đủ cho việc học tập như sách, những dịch phẩm và vi tính thì chúng ta phải học thuộc lòng một bản kinh. Sau khi chúng ta học nó, chúng ta phải tụng niệm thường xuyên để bảo lưu nó và truyền lại cho những thế hệ sau. Nếu chúng ta không tụng nó hàng ngày, chúng ta có thể quên nó và bỏ sót một số phần của nó. Kinh Tăng chi (Anguttara Nikaya) nói rằng nếu kinh điển được gìn giữ kém, điều này sẽ đưa đến sự biến mất lời dạy của Đức Phật. Vì vậy thời bấy giờ việc ghi nhớ và tụng đọc thường xuyên là điều vô cùng quan trọng. Điều này rõ ràng đã góp phần đưa đến việc thực hành tụng niệm. Tụng niệm có ý nghĩa thực sự cho việc tồn tại của Pháp.

Bây giờ chúng ta có đủ những phương tiện hỗ trợ, vậy tại sao chúng ta vẫn tụng niệm? Có lý do nào khác khi thực hành điều này? Có một số lý do đáng để tiếp tục thực hành tụng niệm. Tụng niệm thường xuyên giúp cho chúng ta có tự tin, sự hoan hỷ và gia tăng tín tâm trong ta. Tâm đạo này thật sự là một sức mạnh. Nó được gọi là tín lực (saddhabala). Nó tiếp nghị lực cho đời sống chúng ta. Tôi không rõ người khác thì thế nào. Đối với tôi, tôi thường có cảm giác hoan hỷ khi tụng niệm. Tôi trở nên tự tin hơn. Tôi thấy nó như là một phần của việc phát triển đạo tâm.

tung-niem3
Một buổi lễ tụng kinh Pali theo truyền thống Nam tông



Trong truyền thống giáo dục tự viện Phật giáo, tụng niệm và học thuộc lòng vẫn còn là một phần của việc giáo dục. Ở Miến Điện, chúng tôi học một số bản A-tỳ-đạt-ma (Abhidhamma) - những lời dạy cao nhất của Đức Phật mà nó liên quan đến bản chất tối hậu của các pháp - theo cách đó. Chúng tôi được giảng giải về ý nghĩa và những phát triển logic ở trong A-tỳ-đạt-ma như thế nào. Vào buổi tối, chúng tôi cố gắng tụng đọc nhưng không học thuộc lòng nó. Nó được biết như là lớp học ban đêm có mặt khắp ở đó. Đây là một kỹ thuật nghiên cứu A-tỳ-đạt-ma và một số kinh điển. Điều này là rất hữu ích vì nó giúp bạn quán chiếu rất nhanh. Khi chúng ta xem xét bản chất của kinh điển, lý do cho việc tụng niệm sẽ trở nên rõ ràng hơn đối với chúng ta.

Bản chất của kinh điển
Có một bản kinh, là kinh Hạnh phúc(Mangala Sutta),ở đó Đức Phật đã trả lời câu hỏi của một vị Thiên (Deva)  về sự tiến bộ thực sự trong xã hội, trong kinh tế và đời sống tâm linh. Đó là cái nhìn của Đức Phật về những điều này cũng như lời khuyên của Ngài đối với tất cả chúng ta, những người thật sự muốn tiến bộ trong đời sống xã hội và tâm linh. Nó là điều mà chúng ta nên thực hành trong suốt cuộc đời của mình từ thời thơ ấu cho đến khi trút hơi thở sau cùng. Hầu hết kinh điển đều mang bản chất này. Kinh điển là những mô tả cũng như những toa thuốc cho những căn bệnh chung là tham, sân và si.

Bản chất khác của kinh điển là bảo vệ hay chữa bệnh. Kinh Châu báu (Ratana Sutta) là một trong những ví dụ nổi bật nhất ở đây. Kinh này được dạy cho Tôn giả A Nan để thầy tụng đọc quanh kinh thành Vệ-xá-li khi dân chúng ở đây đang đối mặt với hiểm nạn và đói kém. Kinh Angulimala cũng được xếp vào phân loại này khi nó giải thoát đau đớn và rắc rối cho một người sắp làm mẹ. Kinh Đại hội (Mahasamaya Sutta) và kinh Atanatiya cũng xếp vào cùng loại bởi chúng nhấn mạnh vào hộ trì và chữa bệnh. Nến nhớ rằng Tôn giả A Nan và Angulimala đã tu tập lòng từ bi trước khi tụng niệm những bản kinh dành cho việc cầu an đặc biệt này.

Ba bản kinh Thất giác chi (gồm: Maha Kassapa Bojjhanga Sutta, Moggallana Bojjhanga Sutta, và Maha Cunda Bojjhanga Sutta) thì được sử dụng phổ biến để giúp giải thoát đau khổ của một người bệnh. Đây là bản chất thứ ba của kinh điển mà tôi đang cố hiểu và quán chiếu. Thậm chí Đức Phật yêu cầu Tôn giả Cunda tụng đọc kinh Thất giác chi khi Ngài bị bệnh. Chính Ngài đã tụng đọc kinh Thất giác chi khi những Đại đệ tử của Ngài là Tôn giả Maha Kassapa và Tôn giả Maha Moggallana bị bệnh. Đây là những bản kinh mà chúng bao gồm cả những hướng dẫn cho việc thực hành thiền và năng lực chữa bệnh. Kinh Từ bi (Karaniyametta Sutta) có những bản chất tương tự: hướng dẫn thực hành hàng ngày để phát triển lợi ích tinh thần và tiêu trừ những điều xấu.

Nói cách khác, tụng niệm trong Phật giáo đáp ứng như một cách nhắc nhở sự thực hành mà ta cần làm trong đời sống hàng ngày. Nếu chúng ta hiểu và học cách để thực hành nó đúng đắn, thì chính đó là một cách khác của thiền định. Nó cũng đồng thời là một sự chữa trị hay cầu an.

Lợi ích cuối cùng chúng ta có thể có được từ việc tụng đọc kinh điển là một cách thiền định. Khi chúng ta tụng đọc, nếu chúng ta cố gắng tập trung tốt vào việc tụng đọc của mình, tâm của chúng ta trở nên chuyên nhất, không rong ruổi, và không sinh khởi những suy nghĩ bất thiện. Cố Hòa thượng H.Saddhatissa Mahanayaka Thero, người sáng lập SIBC (Saddhatissa International Buddhist Centre), đã có sự nhận xét đúng đắn trong cuốn sách của ngài, rằng hầu hết những thực hành của Phật giáo không có điều gì khác hơn ngoài thiền định. 

Bhikkhu Dhammasami 
Đăng Nguyên dịch
(Nguồn: urbandharma.org)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/12/2021(Xem: 5066)
Kiến Sơ chùa cổ bặt không ngôn Diện vách nhiều năm hướng nội tâm Cảm hoá thiền tăng trao kệ ngọc Thiền tông hưng khởi rạng trời Nam
11/12/2021(Xem: 12740)
Hương trầm thơm ngát cả rừng thiền, Vườn tuệ chiên đàn nguyện kết nên. Đao Giới vót thành hình núi thẳm, Lư lòng thắp sáng nguyện dâng lên.
03/09/2021(Xem: 31025)
(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm) 1. TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN: Án, lam xóa ha. (3 lần) 2. TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN: Tu rị, Tu rị, Ma ha tu rị, Tu tu rị, Ta bà ha. (3 lần) 3. TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN Án, Ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần) 4. PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN: Án, Nga nga nẵng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần) 5. AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN: Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, Án, độ rô độ rô, địa vỷ ta bà ha (3 lần) Hộ pháp, Vĩ Đà thị chứng minh Thân trụ Phật tiền Tâm Tư nguyện Tưởng bằng bí chú đắc oan linh Hà chơn bất thức trì niệm Luật Thiên kinh vạn quyển vô nhất tự Nẳng mô tô tất đế, đa rị, đa rị, mạn đà, mạn đà, ta bà ha (3 lần)
12/08/2021(Xem: 68571)
Trầm nhủ chiên đàn giá mật luân Hương yên tài nhiệt phúng tường vân Nhơn ôn biến triệt tam thiên giới Vi thoại vi tường đạt Thế Tôn.
10/08/2021(Xem: 4108)
Hiếu đồ cung tựu cảm buồn thương Thành kính dâng hương lễ cúng dường Tưởng niệm ân sư đền nghĩa cả Dốc lòng đảnh lễ thọ tâm tang
08/08/2021(Xem: 6775)
v Duy na xướng: Hiếu đồ tựu vị. Ai thành bài ban. Đảnh lễ tam bái – Quỳ – Phần hương – Thượng hương – Khởi thân đảnh lễ tam bái – Hồ quỳ. v Pháp ngữ vân: Ký tùy duyên nhi thuận tịch, nãi y pháp dĩ biếm truân. Cơ niên dư hoằng đạo chi xu, quy nhất lộ niết bàn chi cảnh. Ngưỡng lao đại chúng, đồng trợ chơn thuyên. v Cử tán: Tâm nhiên ngũ phận, Giới Định Tuệ hương. Giải thoát tri kiến chủ kiền thành, tịnh độ khởi căn nguyên. Diệp biến tam thiên, phụng hiến giác linh tiền. - Tiến Giác Linh Bồ Tát (tam xưng).
11/06/2021(Xem: 8917)
LỜI ĐẦU SÁCH Giáo pháp của Đức Phật đã được truyền đến khắp năm châu bốn bể và tại mỗi địa phương ngày nay, giáo lý ấy được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhằm phổ biến đến những người tin Phật có cơ hội hiểu rõ và đúng với chân tinh thần của đạo Phật. Đức Phật vẫn luôn dạy đệ tử của Ngài rằng: “Các ngươi tin ta phải hiểu ta, nếu tin mà không hiểu ta, tức hủy báng ta vậy”. Lời dạy ấy rất sâu sắc và có giá trị muôn đời cho những ai tìm đến giáo lý đạo Phật. Một hệ thống giáo lý rất sáng ngời trong tình thương, trí tuệ và giải thoát. Giáo lý đạo Phật là chất liệu dưỡng sinh trong cuộc sống tinh thần của người Phật tử. Vì thế, trước khi tin vào giáo lý, thiết tưởng cần phải hiểu rõ giáo lý ấy có thể giúp ta được những gì. Nếu không hoặc chưa rõ mục đích, chúng ta có quyền chưa tin và cũng không nên tin vội. Dầu lời dạy ấy là của những người thông thái, của các vị Thiên Thần hay ngay cả của chính đức Phật.
05/06/2020(Xem: 4339)
Cúi đầu đảnh lễ Như Lai, Chứng minh đệ tử ngày nay phát nguyền. Con xin đem dạ chí thiền, Thành tâm sám hối nghiệp khiên đã làm. Bởi xưa chưa rõ dạ phàm, Nên chi kết tạo dây oan cõi trần,
12/05/2020(Xem: 15840)
Pháp Hồng Danh Sám Hối này cũng thuộc về sự, do Ngài Bất Động Pháp Sư đời Tống bên Trung Hoa soạn ra. Ngài rút 53 danh hiệu Phật trong Kinh "Ngũ Thập Tam Phật " tức là từ đức Phật Phổ Quang cho đến Phật Nhứt Thế Pháp Tràng Mãn Vương, và rút 35 hiệu Phật trong Kinh "Quán Dược Vương, Dược Thượng" với pháp thân đức Phật A Di Đà, sau thêm vào kệ Phổ Hiền Đại Nguyện, thành nghi sám hối này, tổng cộng là 108 lạy, để ám chỉ trừ 108 phiền não.
09/04/2020(Xem: 4793)
“Xây chùa, tạo tượng, đúc chuông, ba công đức ấy thập phương nên làm”, xây dựng ngôi Tam bảo, bao gồm hình thức và nội dung của cơ sở Tự viện, Tịnh xá, Tịnh thất, Niệm Phật đường. Qua đó, Trụ trì mới có cơ sở hành đạo, thi hành Phật sự, hóa độ chúng sanh, báo Phật ân đức.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567