Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17 - Nói rộng một đường hướng thượng

24/04/201318:03(Xem: 7573)
17 - Nói rộng một đường hướng thượng


Khóa Hư Lục
Tác giả:Hoàng Đế Trần Thái Tông
Dịch giả:HT. Thích Thanh Kiểm

---o0o---

QUYỂN THƯỢNG

---o0o---

Nói Rộng Một Đường Hướng Thượng(1)

Bàn-Sơn thiền-sư (2) để lại lời dạy rằng: "Một đường hướng thượng, ngàn thánh chẳng truyền. Người học nhọc hình, như vượn bắt bóng". Khiến người học khắp nơi, đều hướng con đường ấy, tham cứu thiền-ý (3). Thử hỏi tất cả mọi người, thiền-ý làm thế nào tham được? Nếu quả tham được ý ấy, lại giống như một gã si (4). Đầu lại thêm đầu, đuôi nối đuôi nữa. Bỏ bụi trong mắt, thêm bướu trên thân. Nói đến thời môi miệng méo xiên, ngó thấy thời mắt, người rơi rụng. Cụ già vàng mặt (Phật), liếc mắt dòm bên, Thày Tăng mắt xanh (Tô Đạt-Ma) chau mày đứng cạnh. Mã-Tổ treo phất (5), Thủ-Sơn dấu bề (6). Triệu-Châu xé rách thiên-sam (7), Vân-Môn vứt bỏ hồ bính. Đức-Sơn buông gậy (9), Lâm-Tế nuốt lời (10). Dấu vết Phật Phật, Tổ Tổ đều mờ, gan mật kẻ kẻ, người người đều mất. Châm không chỗ thấu, dùi củng chẳng vào. Đầu đồng tiến tới không đường, trán sắt lao vào chẳng thủng. Lửa đá sẹt mà chẳng kịp, điện chớp loáng còn chậm xa. Tĩnh ngộ vào chốn chìm say, động mê xéo đường sinh tử. Ví khiển, Linh-Sơn Phó chúc, chỉ là nơi chốn rườm rà; Thiếu-Thất đan truyền, cũng là ổ hang rắc rối. Mặc dù cơ đương tựa chốp, tiếng thét ứng cơ. Lời diễn chảy trôi, thoại đầu lưu loát. Tham đi tham lại, ngày lâu tháng dài. Chút vương miệng nói trơn tru, sao thoát thân nằm hang ổ.

Này mọi người! Đến chỗ ấy rồi, chẳng được buông qua một bước. Xô người học đưa mắt nhìn vách đá treo leo, càng khó tiến bước. Ta ngày nay vì tất cả các người! Chẳng khỏi vuốt râu miệng hùm, đầu sào tiến bước. Chốn nói thời như gió bay tùng réo, chốn im thời tựa trăng chiếu đầm trong. Khi đi, nước cuốn mây bay; khi đứng, núi yên non vững. Lời lời là Thích-Ca hoạt-kế, câu câu là Đạt-Ma gia-phong. Buông ra thời 8 chữ mở tung, thu lại thời một môn đóng chặt (11). Ở trong hang quỷ, cũng là Di-Lặc lâu đài, trụ dưới núi đen, chẳng khác Phổ-Hiền cảnh-giới. Nơi nơi là đại-quang-minh-tạng, cơ cơ là bất nhị pháp môn. Mặc cho sáng lại tối đi, quản gì mây che trăng khuất. Trên tay ngọc sáng, xanh ánh xanh, vàng ánh vàng; gương xưa đương-đài, Hồ hiện Hồ, Hán hiện Hán. Dù ngay huyễn thể, hết là Pháp-thân. Chẳng nhọc trên đỉnh phóng quang, vốn đủ lục-thông diệu-dụng. Cung điện Ma-Vương lật đổ, tâm can ngoại đạo mở toang. Biến trái đất làm cõi nước vàng son, khuấy sông dài cho trời người nước sữa. Trong hổng mũi pháp-luân thường chuyển, dưới lông mày bảo-sát hiện ra. Gái đá (12) trong nước múa điệu bà-sa, người gỗ thổi kèn hát bài khoản-đãi. Hoặc gặp trường bận rộn, hoặc được chốn thảnh thơi. Hoặc thõng tay (xuống núi) giúp đời, hoặc quay đầu đồng nội. Khi biếng nhác ngủ mây gối đá, lúc thích hứng vịnh gió ngâm trăng. Rong chơi nơi quán rượu phòng trà, cười đùa giữa đường hoa ngõ liễu. Hoa vàng tua tủa, đều là Bát-nhã tâm, trúc biếc xanh xanh, hết là Chân-như lý. Vén cỏ hiện bản-lai diện-mục, xới đất dứt đường rẽ tử sinh. quay đầu ngựa sắt (13) cưỡi rong về, xỏ mũi trâu đất đi lùi bước. Chẳng lấy muôn pháp làm bạn, ai bảo một vật hãy còn. Phật cũng không, tâm cũng không, chân cũng được, giã cũng được. Ngoài cửa tam yếu, tha hồ thét hai làm ba, chữ thập đầu đường, mặc sức gọi mười làm chín. Sáo không lỗ (14) tấy vô-sinh khúc, đàn không giây gẩy khoái-hoạt ca. Nơi nơi kia đều là tri-âm, chốn chốn nọ há dung tai lắng. Chỉ một đường hướng thượng này, ngần ngại nói thế nào đây! Chà! Lửa ấy chưa từng đốt miệng! Nghe cho kỹ, nghe cho kỹ! Ví bằng nghe được lời ấy, ắt phải tai điếc ba ngày. Nếu nghe chẳng được, mau nên chạy qua. Còn ngần ngại gì!

Chốn chốn dương xanh kham buộc ngựa,

Nhà nhà có lối đến Trường-An.

Trở về dưới nguyệt người thưa vắng,

Một ánh trăng soi đại-địa hàn. (15)

(Xứ xứ lục dương kham hệ mã,

Gia gia hữu lộ đáo Trường-An.

Hồi trình nguyệt hạ nhân hy đáo,

Nhất đạo thiều quang đại-địa hàn).

* Chú thích:

(1) Nói rộng một đường hướng thượng: Nói rộng (phổ thuyết): Trái với độc-tham. Nghĩa là nối về yếu chỉ chính truyền của Phật, Tổ và bàn rộng tới các kinh luận, chứng tích của các thiền-sư xưa nay, để chỉ bảo cho kẻ hậu học. Một đường hướng thượng (nhất lộ hướng thượng) nói về nghĩa tối thượng. Cựa tắc của hướng thượng, ta không thể đem ngôn ngữ suy tư để diễn tả.

(2) Tức Bàn-Sơn Bảo-Tích thiền-sư đời Đường, pháp-tự của Mã-Tổ.

(3) Thiền-ý: ý cùng cực thiền, không dấu vết, không tự tánh, bất khả đắc. Hoặc gọi là tư-tưởng thiền.

(4) Gã Si (Si nhi): Chỉ kẻ ngu, chẳng biết tìm trí-tuệ ở tự mình, tức tự-Phật, lại cứ đuổi theo ngoại-cảnh, tìm phật bên ngoài, chẳng khác gì như kẻ si , đầu lại thêm đầu.

(5) Mã-Tổ treo phất (Mã-Tổ quải phấi): Phất là một dụng cụ đuổi ruồi muỗi. Xưa đức phật chế cho hàng đệ tử dùng, có cán làm bằng tre hay gỗ. Phất làm bằng lông ngựa hay giây gai. Sau này các thiền-sư dùng phất để mỗi khi thượng đường thuyết pháp. Mã-Tổ, tức Mã-Tổ Đạo-Nhất đời Đường, pháp tự của Nam-Nhạc Hoài-Nhượng. Mỗi khi có học nhân tới tham-vấn, Mã-Tổ dựng phất để biểu thị thiền-cơ. Đây nói treo phất tức gác cái phất lại. Có ý nghĩa là không cần tới. Các câu sau ý nghĩa tương tự.

(6) Thủ-Sơn giấu bề:(Thủ-Sơn tàng bề): Bề tức trúc-bề. Các thiền-sư dùng để tiếp dẫn học-đồ. Trúc-bề dài khoảng 3 tấc, làm bằng tre, hình khom cánh cung, sơn son. Thủ-Sơn, tức Thủ-Sơn Tỉnh-Niệm thiền-sư đời Đường, dòng Lâm-Tế. Khi thượng-đường, Thủ-Sơn dựng cây trúc-bề (cây thước) thị chúng rằng: "Này tất cả mọi người. Nếu gọi là cây thước thời phải (khẳng định), nếu chẳng gọi là cây thước thời trái (phủ định). Vậy tất cả mọi người gọi là cái gì?". Giấu bề có nghĩa không cần tới trúc-bề.

(7) Triệu-Châu xé rách thiên-sam (Triệu-Châu liệt phá bố-sam). Triệu-Châu tức Triệu-Châu Tòng-Thẩm, thiền-sư đời Đường, dòng phái Nam-Nhạc. Theo công-án, một vị Tăng hỏi Triệu-Châu: "Muốn pháp trở về một, một về chốn nào?" Sư đáp: "Ta ở Thanh-Châu làm một áo vải nặng 7 cân" (Ngã tại Thanh-Châu tác nhất lãnh bố-sam trọng thất cân). Bố-sam tức là áo thiên-sam bằng vải. Thiên-sam là một thứ áo lót cộc tay, treo từ trên vai phía trái xuống, bọc che hai bên nách. Xẻ rách áo thiên-sam, nghĩa là không cần đến áo thiên-sam.

(8) Vân-Môn vứt bỏ hồ-bính: (Vân-Môn quyên khước hồ-bính). Vân-Môn tức là Vân-Môn Văn-Yển thiền-sư, khai sáng tông Vân-Môn. Theo công-án, có vị Tăng hỏi Vân-Môn: "Thế nào là lời bàn siêu Phật, việt Tổ"? Vân-Môn đáp "Hồ-bính". Hồ-bính là một thứ bánh là bằng bột và vừng.

(9) Đức-Sơn buông gậy: (Đức-Sơn khí bổng). Đức-Sơn, tức Đức-Sơn Tuyên-Giám thiền sư, pháp tự của Long-Đàm Sùng-Tín. Mỗi khi học-đồ tới tham-học, hỏi đạo, ngài đều dùng gậy để chỉ bảo hướng dẫn về ý-chỉ Thiền.

(10) Lâm-Tế nuốt lời (Lâm-Tế thôn thanh): Lâm-Tế tức Lâm-Tế Nghĩa-Huyền thiền-sư, Tổ sáng lập tông Lâm-Tế. Học đồ mỗi khi đến tham thiền hỏi đạo, ngài thường dùng tiếng "Thét" để tiếp dẫn.

(11) Buông ra thời tám chữ mở tung, thu lại thời một môn đóng chặt: Dịch câu "Phóng chi tắc bát tự đả khai, bả chi tắc nhất môn tuyệt hố". Câu trên có nghĩa là nhất phóng tức phóng ra, buông ra. Câu dưới có ý nghĩa là nhất thu, bắt lại. Hướng thượng tới cảnh giới tuyệt đối bằng đẳng cùng cực có nghĩa thu lại, thu lại thời một môn đóng chặt. Khi hướng hạ độ sinh có nghĩa buông ra, buông ra thời tám chữ mở tung. Vậy tám chữ đây, ám chỉ cho tám hướng, mười phương hay nhiều phương hướng, không chỉ giới hạn ở số tám.

(12) Gái đá nhẩy múa (thạch nữ khởi vũ) là người gái khắc bằng đá nhẩy múa. Người gỗ thổi kèn (suy-dịch mộc nhân), đều dụ cho phần diệu dụng thiên-chân vô-tác, xa lìa mọi hình thức phân biệt.

(13) Ngựa sắt, trâu đất (thiết mã, nê ngưu)Ngựa làm bằng sắt, trâu nặn bằng đất, đều dụ cho cảnh giới giải-thoát vô-ý-thức, xa lìa mọi phân biệt.

(14) Sáo không lỗ (một khổng địch), đàn không dây (vô huyền cầm) dụ cho thuyết pháp không lệ thuộc vào ngôn ngữ, lìa mọi tình thức.

(15) Đại ý bài thơ nói: Người người đều có bản lai diện mục (Phật-Tính) nên người người đều có lối đến Trường-An. Trở lại được có rất ít người. Nhưng một khi đã trở về được, thì một ánh trăng soi đại-địa hàn, tức chứng ngộ được nhất chân thế-giới

---o0o---

Vi tính: Việt Dũng

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/06/2014(Xem: 6091)
Trong hai ngày 08, 09-5-Giáp Ngọ (tức 04 và 05.6.2014), TT.Thích Thiện Thông, trụ trì chùa Sắc tứ Minh Thiện, xã Diên Lạc (Diên Khánh); Đại đức Thích Như Chuẩn, trụ trì chùa Phước Duyên, xã Diên Phước (Diên Khánh) đã thành kính tổ chức lễ tưởng niệm húy nhật lần thứ 6 HT Thích Huệ Đăng, tổ Khai sơn chùa Phước Duyên, phương trượng chùa Sắc tứ Minh Thiện, nguyên Ủy viên Ban Hoằng Pháp Trung Ương Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam.
06/06/2014(Xem: 5759)
Ngày 07-5-Giáp Ngọ (tức 02 đến 05.6.2014), TT.Thích Quảng Tâm, UV Ban Nghi lễ GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, trụ trì chùa Thanh Hải (xã Cam Thịnh Đông, TP.Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa) đã thành kính trang nghiêm tổ chức lễ tưởng niệm húy nhật lần thứ 44 tổ Khai sơn chùa Thanh Hải HT.Thích Nhơn Hưng. Chứng minh và tham dự có Đại lão HT.Thích Đồng Giải nguyên Trưởng Ban Trị sự GHPGVN huyện Củng Sơn, Chứng minh BTS GHPGVN huyện Sông Cầu, trụ trì chùa Linh Đài - Hòa Đa (Phú Yên) chư tôn đức Tăng và môn đồ pháp quyến, cùng thân quyến Tổ Khai sơn, Phật tử chùa Thanh Hải, đạo tràng chùa Linh Sơn Pháp Ấn, chùa Linh Thứu, chùa Linh Quang (TP.Nha Trang).
10/05/2014(Xem: 13974)
Tập sách Phù Tang Ký Sự do Đại Đức Thích Phước Thái biên soạn, ghi lại cuộc hành trình trong chuyến đi Nhật Bản lần đầu tiên của tác giả và của đoàn. Tổng số người đi là 25 người đa số là những liên hữu trong đạo tràng Quang Minh. Mục đích của chuyến đi nầy, nhằm thực hiện cầu an, cầu siêu cho các nạn nhân thiên tai sóng thần đã xảy ra vào ngày 11 tháng 3 năm 2011, tại tỉnh Miyagi thành phố Sendai thuộc miền Đông Bắc Nhật Bản. Ai cũng biết đó là trận thiên tai sóng thần ác liệt đã gây ra thiệt hại nặng nề về tài sản và sinh mạng. Có hơn 15.000 người chết và trên 3.000 người bị mất tích. Đồng thời, đoàn cũng cỏn đến thăm viếng thuyết giảng và ủy lạo cho 24 gia đình nghèo tại chung cư Hiệp Hội Từ Thiện. Ngoài ra, đoàn còn đi tham quan chiêm bái những danh lam thắng cảnh ở một vài nơi khác. Tất cả đã được tác giả ghi lại từng ngày, từng nơi, mà đoàn đã đi qua và thực hiện. Ngoài việc ghi chép theo lịch trình thời gian ra, tác giả còn cho chúng ta biết qua một vài vấn đề có liên quan đến đ
05/04/2014(Xem: 12346)
Khi biên soạn tập tài liệu nhỏ nầy, mục đích chính của chúng tôi là nhằm giúp thêm tài liệu cho quý tăng ni học chúng tại Tổ Đình Phước Huệ. Từ trước tới nay trong mỗi mùa an cư tại Tổ Đình, quý tăng ni học chúng đều có học qua các môn: Kinh, Luật và Luận. Ngoài ra, họ còn phải học thêm các bộ môn khác như: lịch sử, nghi lễ, hành chánh v.v... đặc biệt nhất là phần nghệ thuật diễn giảng. Riêng trong mùa an cư của năm 2007, Hòa thượng Tông Trưởng có sai bảo chúng tôi, nên biên soạn tài liệu để hướng dẫn giúp cho học chúng về vấn đề nghệ thuật diễn giảng. Hòa thượng thường nói với chúng tôi, người xuất gia muốn làm giảng sư, không phải chỉ có kiến thức Phật pháp không thôi là đủ, mà nó còn đòi hỏi phải có nhiều khía cạnh khác, nhất là phần nghệ thuật diễn giảng. Hòa thượng cũng thường khuyến khích khuyên bảo học chúng: “sống trong thời đại mới nầy, các vị nên cố gắng trau giồi thêm về những kiến thức ngoại điển để có thể thích nghi với trào lưu tư tưởng của nhơn loại trong việc hoằng
13/03/2014(Xem: 9417)
Nghi Thức Sám Hối này do cư sĩ Hạnh Cơ soạn và chú thích. Nội dung của nghi thức đã được dịch từ bài “Lục Thì Sám Hối Khoa Nghi” (bằng Hán văn) của vua Trần Thái Tông (1218-1277). Nghi thức đã được lựa chọn và sắp xếp lại thành chỉ có một thời, khác với nguyên tác.
28/02/2014(Xem: 9407)
Trung Tâm Phật Giáo – Chùa Việt Nam xin trân trọng thông báo đến quý đồng hương và Phật tử xa gần được rõ: Lễ Hội Quan Âm - Ngày Hành Hương và Cầu Nguyện Năm Thứ 14 sẽ được tổ chức vào các ngày Thứ Sáu, 28/3 và Thứ Bảy, 29/3/2014 với chương trình tổng quát như sau: Thứ Sáu Ngày 28 Tháng 3 Năm 2014 9giờ 30 sáng - Pháp Hội Quan Âm 1 3giờ chiều - Pháp Hội Quan Âm 2 6giờ 30 tối: - Lễ Khai Mạc - Cử Pháp Cổ & Múa Lân - Hành Hương Tam Bộ Nhất Bái - Hội Hoa Đăng - Cầu Nguyện
12/02/2014(Xem: 13430)
Bộ kinh in khổ đẹp, trình bày trang nhã với bìa sách đỉnh đạc rất giá trị, do Thượng Tọa Thích Nhật Từ biên soạn, phiên dịch, sắp xếp 63 bài kinh quan trọng theo 5 nhóm chủ đề: Đạo đức, xã hội, triết lý, thiền định và Tịnh độ được tuyển dịch từ kinh tạng Pali và kinh điển Bắc truyền.
12/02/2014(Xem: 10191)
Từ ngàn xưa người Việt Nam chúng ta đã được thấm nhuần tinh thần từ bi của đạo Phật, tổ tiên ta đã Phật hóa gia đình, giáo dục con cháu phải biết chia sẻ hạnh phúc, ban rải tình thương đến mọi người, mọi loài, cỏ cây đất đá.
05/02/2014(Xem: 14535)
Nghi Thức Niệm Phật A-Di-Đà Thích Nhật Từ biên soạn
05/02/2014(Xem: 13265)
Nghi Thức Trì Chú Dược Sư Thích Nhật Từ biên soạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567