Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tham Thiền trong Mười Chín Năm

28/09/201114:13(Xem: 4629)
Tham Thiền trong Mười Chín Năm

 

Tham Thiền trong Mười Chín Năm

Geshe Gyalten Kunga, thị giả của H.E. Choden Rinpoche

B.Nga Lozang Ngodrub dịch

Rinpoche sống trong nhà của người anh họ của Ngài tại Lhasa từ năm 1965 đến 1985 và không bao giờ đi ra ngoài. Ngài sống như một người tàn phế. Phòng của Ngài không có cửa sổ, chỉ có một khoảng trống nhỏ dưới cánh cửa để thông hơi. Rinpoche sống trong một căn phòng trong tám năm, rồi Ngài dọn sang một phòng khác trong mười một năm còn lại. Tôi đã nhìn thấy căn phòng thứ nhì và nó thật là tối. Khi vừa bước vào phòng, bạn chẳng nhìn thấy gì cả, nhưng khi mắt bạn đã quen dần với bóng tối thì bạn có thể thấy một vài vật nào đó. Ngay cả bây giờ, tại Tu Viện Sera, khi tôi vén màn trong phòng của Rinpoche lên, Ngài sẽ nói, “Đừng, đừng làm như vậy.” Tôi nghĩ Ngài để tôi vén màn lên là vì tôi cần ánh sáng chứ không phải vì Ngài thích như vậy. Ngài không hề bước một bước ra khỏi hai căn phòng trong nhà của người anh họ trong suốt mười chín năm.

Bình thường, khi nhập thất, bạn cần các kinh sách, một bức tranh vải của vị bổn tôn (tangka), trống, chuông và chày kim cang, những thứ đại loại như thế, nhưng Rinpoche chỉ có một xâu chuỗi mà thôi.Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này. Người Trung Hoa luôn luôn kiểm soát xem Ngài đang làm gì; họ đến nhà của Ngài vài lần trong ngày và nếu họ thấy Ngài có bất kỳ một món vật nào liên quan đến tôn giáo, họ sẽ tịch thu nó ngay. Vì thế nên Rinpoche đã hoàn tất các kỳ nhập thất trong tâm thức của Ngài; tất cả đã xảy ra trong tâm Ngài mà thôi. Tuy nhiên, Ngài không bao giờ nói như vậy; Ngài chỉ nói rằng Ngài đã ngủ và suy nghĩ chút ít về Pháp.

Ngài đã dùng tất cả thời gian để tham thiền trên giường. Người nhà của Ngài phải thay tấm trải giường mỗi tháng một lần, vì nó nặng mùi mồ hôi, thế nên Ngài chỉ rời khỏi giường khi người nhà làm việc này. Ngài ngồi trên giường suốt ngày và ban đêm thì nằm ngủ. Ngài dùng một cái bô cho việc đi vệ sinh, bởi vì Ngài giả vờ như một người bị tàn phế. Cho đến năm 1980, Ngài không hề nói chuyện với bất cứ ai, ngoại trừ người mang thức ăn vào phòng cho Ngài. Không một ai khác đã vào phòng của Ngài – nếu ai cúng dường thức ăn cho Ngài thì họ sẽ đem thức ăn đến cho gia đình Ngài và người nhà sẽ mang vào cho Ngài. Ông nội của tôi và cha tôi là đệ tử của Ngài, nên họ sẽ mang đến những gì Ngài cần. Họ nói Rinpoche để tóc dài và có một hàm râu rất dài. Họ nói Ngài là một người rất đặc biệt.

Bài báo này xuất hiện lần đầu tiên trong Tạp Chí Mandala, tháng Bảy/Tám 2000.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2014(Xem: 5441)
Diễm, từ Việt Nam gửi một tin nhắn cho tôi qua Yahoo Messenger để hỏi về Mật Tông. Cô bảo sáng nay vào paltalk nghe thiên hạ nói về hai chữ đó mà phút cuối vẫn mù mờ. Tôi hỏi sao cô không hỏi trực tiếp trong Room, cô nói giọng Huế của mình trọ trẹ khó nghe, nói ra lỡ người ta không hiểu thì dị òm (mắc cỡ chết). Tôi cứ băn khoăn không biết phải nói sao về một chuyện không phải sở trường của mình. Không nói thì kẹt cho cả đôi bên: Diễm tiếp tục mù tịt về một chuyện kể cũng nên biết và tôi mang tiếng ăn quẩn cối xay. Dù thiệt ra thiên hạ có nghĩ sao thì trái đất vẫn quay mà.
31/05/2014(Xem: 8554)
Để giải thích về giá trị của Kalachakra - Thời Luân, Đức Dalai Lama đã nhấn mạnh tiềm năng vĩ đại về lợi ích Kalachakra đem lại như sau: “Quán đảnh Thời Luân là một trong những điểm đạo quan trọng nhất … vì chúng ta sẽ vận dụng được tất cả các yếu tố như thân và tâm của con người bên trong, cùng với toàn thể môi trường bên ngoài gồm có vũ trụ và thiên văn. Chúng ta có niềm tin vững chắc rằng đại lễ Thời Luân có năng lực giúp giảm thiểu các xung đột và chúng ta cũng tin tưởng rằng Thời Luân còn có khả năng kiến tạo niềm an lạc tinh thần, và qua đó, mang lại hòa bình cho thế giới.” - His Holiness the Dalai Lama in C. Levenson’s “The Dalai Lama, A Biography”
14/06/2013(Xem: 4503)
Đại thừa (Mahāyāna) phát triển một nhận thức mới về bản chất lịch sử của Đức Phật Śākyamuni. Điều nầy được nói đến đầu tiên trong chương “Mạng sống của Như lai (Tathāgata)” trong kinh Liên Hoa (Lotus Sūtra), một tác phẩm được hoàn thành cuối cùng vào khoảng năm 200 trước Công nguyên. Ở đây, Đức Phật giải t
06/06/2013(Xem: 8881)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
04/06/2013(Xem: 21860)
Phật giáo có nguồn gốc lâu đời từ Ấn Độ, ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Lịch sử, truyền thuyết, và nhân loại đều công nhận Phật giáo được khai sáng bởi Đức Phật Thích Ca Mầu Ni (Shakyamuni Buddha). Truyện kể về cuộc đời của Đức Phật từ khi đản sinh cho đến khi lập gia đình là năm 16 tuổi; năm 29 tuổi thái tử Tất Đạt Đa (Siddhārtha) quyết chí xuất gia tu hành tìm đường diệt khổ; đến năm 35 tuổi giác ngộ ra chân lý, đắc đạo và trở thành Phật. Trong suốt 45 năm sau đó Ngài đi thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh rồi cuối cùng viên tịch nhập niết bàn vào năm 80 tuổi.
28/04/2013(Xem: 30126)
Từ lâu không biết bao nhiêu người, ở ngoài đời cũng như trong đạo, rất bỡ ngỡ về vấn đề tu hành. Như một kẻ bộ hành ngơ ngác, lạc lõng giữa ngả ba đường, họ băn khoăn tự hỏi: Tu làm sao đây? Tu phương pháp gì? Và phải hạ thủ công phu làm sao mới đúng?
18/04/2013(Xem: 7529)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thương và lòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
18/04/2013(Xem: 6987)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
18/04/2013(Xem: 6660)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệ và từ bi...
09/04/2013(Xem: 5807)
Thuở xưa, trú xứ của những người xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình thường là khu rừng, vách núi, hang động, đồng hoang… Ngay cả Đức Thế Tôn, khi đã có những tu viện do các cư sĩ xây dựng cúng dường như Trúc Lâm, Kỳ Viên… thì Ngài cũng chỉ cư trú trong ba tháng an cư mùa mưa, còn phần lớn thời gian Ngài đi hoằng pháp và nghỉ lại trong những khu rừng trên lộ trình du hóa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567