Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài thứ năm : nt

02/05/201316:13(Xem: 25351)
Bài thứ năm : nt


Phật Học Phổ Thông

HT. Thích Thiện Hoa

--- o0o ---

Khóa Thứ IX

DUY THỨC HỌC VÀ NHƠN MINH LUẬN

--- o0o ---

TẬP BA 

DUY THỨC TAM THẬP TỤNG DỊ GIẢI 

Ngài THIÊN THÂN Bồ Tát tạo luận 
Ngài HUYỀN TRANG Pháp sư dịch chữ Phạn ra chữ Hán 
Ông ĐƯỜNG ĐẠI VIÊN giải dễ gọn 
Sa môn THÍCH THIỆN HOA dịch lại chữ Việt và lượt giải.

BÀI THỨ NĂM 

CHÁNH VĂN

Hỏi:- Trên đã nói sáu loại Tâm sở tương ưng rồi, bây giờ làm sao biết được phần vị hiện khởi của các thức? 

Đáp:- Nguyên văn chũ Hán 

Tụng viết: 

Y chỉ căn bản thức 
Ngũ thức tuỳ duyên hiện 
Hoặc câu hoặc bất câu 
Như đào ba y thủy 
Ý thức thường hiện khởi 
Trừ sanh Vô tưởng thiên 
Cập vô tâm nhị định 
Thuỷ miên dữ muộn tuyệt.

Dịch nghĩa 

Luận chủ nói hai câu tụng trên để trả lời rằng: Sáu thức trước đều nương nơi thức căn bản (A-nại-da) mà hiện khởi; cũng như sóng nương nơi nước mà sanh. 

Năm thức trước tuỳ duyên mà khởi; hoặc chung sanh hoặc chẳng chung sanh. Duy có ý thức thường hiện khởi, trừ ra năm chỗ nó không sanh khởi: 1. Sanh ở cõi trời Vô tưởng, 2. Nhập định Vô tưởng, 3. Nhập định Diệt tận, 4. Ngủ mê, 5. Chết giả. 

LƯỢC GIẢI

Sáu thức trước, bên trong đều nương nơi thức Căn bản (A-nại-da) bên ngoài nhờ các duyên (căn, cảnh, tác ý, v.v...) và tuỳ theo phận vị của nó mà sanh khởi không đồng. Nếu đủ duyên thì sanh khởi, còn thiếu duyên thì nó không sanh. Cũng như sóng nương nơi nước và nhờ gió, nên có khi sanh, khi diệt. Duy có ý thức vì ít duyên nên dễ đủ; vì thế mà được thường sanh khởi, chỉ trừ năm chỗ không sanh: 

1. Trời Vô tưởng; do hành giả khi tu định, nhàm ghét diệt trừ cái "tưởng", mà được sanh về cõi trời này, nên cõi trời này không có ý thức. 

2. Nhập định Vô tưởng; do hành giả diệt trừ 6 thức trước, mới được định này. 

3. Nhập định Diệt tận; do hành giả diệt trừ phần hiện hành của bảy thức trước, mới được định này. Hai định trên đây đều không có "ý thức". 

4. Khi ngủ mê không chiêm bao, cũng không có ý thức. 

5. Khi bịnh nặng gần chết, hoặc khi bất tỉnh nhơn sự (chết giả) cũng không có ý thức. 

Xem biểu đồ:

25phpt09-3-5a

CHÁNH VĂN

Hỏi:- Trên đã phân biệt rành rõ hành tướng của ba thức năng biến, đều nương nơi hai phần, rồi tự nó biến ra; bây giờ làm sao biết được các pháp chỉ do thức biến hiện, rồi giả gọi Ngã, Pháp chớ không phải thật có, nên nói "tất cả Pháp Duy thức"? 

Đáp:- Nguyên văn chữ Hán 

Tụng viết 

Thị chư thức chuyển biến 
Phân biệt, sở phân biệt 
Do thử, bỉ giai vô 
Cố nhứt thế Duy thức. 

Dịch nghĩa 

Luận chủ nói một bài tụng để trả lời rằng: Chỉ do các thức biến ra Năng phân biệt thức (kiến phần) và Sở phân biệt (tướng phần). Song Năng phân biệt (thử) và Sở phân biệt (bỉ) đều không thật có, nên nói: "tất cả pháp Duy thức". 

LƯỢC GIẢI

Mỗi thức và mỗi Tâm sở đều có 4 phần: 1. Kiến phần (phần Năng phân biệt), 2. Tướng phần (phần bị phân biệt, tức là cảnh vật), 3. Tự chứng phần: phần này tự chứng minh cho Kiến phần, 4. Chứng tự chứng phần: Phần này chứng minh cho phần tự chứng. 

Trong bốn phần này, về phần thứ ba là Tự chứng, không những có công năng chứng minh cho phần thứ hai là Kiến phần, mà cũng có công năng đặc biệt là trở lại chứng minh phần thứ tư là Chứng tự chứng phần. Bởi thế nên không cần phải có phần thứ năm. 

Thứ lớp 4 phần duyên nhau:

25phpt09-3-5b

Xin nói một thí dụ để giải rõ bốn phần: Thí như anh A và anh B hùn nhau buôn bán. Anh A ra tiền (vật có hình tướng) là dụ cho "Tướng phần". Anh B ra công (không hình tướng) là dụ cho "Kiến phần". Hai người lập một tờ hợp đồng (giao kèo) để chứng minh một bên ra công và một bên xuất của. Tờ hợp đồng là dụ cho "Tự chứng phần". Vì hai anh tranh giành nhau, nên đem đến quan kiện. Ông quan chiếu theo tờ hợp đồng mà phân xử. Ông quan là dụ cho "Chứng tự chứng phần". 

Trên đã nói rõ hành tướng của ba thức năng biến: Từ nơi hai phần bên trong là Tự Chứng Phần và Chứng Tự Chứng Phần, biến sanh ra hai phần bên ngoài là Kiến phần và Tướng phần. Vậy thì hai phần bên trong là "thể" làm chỗ bị y chỉ (nương tựa), còn hai phần bên ngoài là "dụng" là "năng y chỉ". 

Thí dụ như con ốc hương, đầu và mình con ốc là dụ cho "Tự chứng phần" và "Chứng tự chứng phần"; còn hai cái vòi là dụ cho Kiến phần và Tướng phần. Hai vòi có khi lòi ra, có lúc lại thụt vào, là dụ cho cai dụng Kiến phần và Tướng phần, sanh diệt không thường; còn cái đầu và mình của con ốc thì thường còn, để dụ cho cái thể Tự chứng phần và Chứng tự chứng phần, không sanh không diệt. 

Luận chủ và ngoại nhơn hai bên rất mâu thuẫn nhau. Nếu lý Duy thức của Luận chủ được thành, thì sự chấp thật có Ngã, Pháp của ngoại nhơn không thành; trái lại, nếu sự chấp Ngã, Pháp của ngoại nhơn được thành, thì lý Duy thức của Luận chủ bất thành. 

Ý của ngoại nhơn hỏi: Làm sao biết Ngã, Pháp đều nương nơi thức biến ra, chẳng phải thật có, nên nói "Tất cả Pháp đều Duy thức"? 

Ý của Luận chủ đáp: Trên đã nói ba thức Năng biến, mỗi thức đều từ nơi tự thể mà biến sanh ra Kiến phần và Tướng phần; Kiến phần là phần năng phân biệt, mà Tướng phần là phần bị phân biệt. Phần bị phân biệt là các cảnh vật như núi, sông, đại địa, v.v ...Phần năng phân biệt tức là tác dụng thấy, nghe, hay biết các cảnh vật. 

Bởi phần năng phân biệt (thấy) và phần bị phân biệt (cảnh) đều do thức thể biến ra, toàn không thật có, nên nói "Tất cả pháp Duy thức". 

25phpt09-3-5c


--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 6849)
Quy mệnh Thiên Quang Nhãn. Đại Bi Quán Tự Tại. Đầy đủ trăm ngàn tay. Muôn mắt cũng như vậy. Làm cha mẹ Thế gian. Hay cho chúng sinh nguyện. Vì thế Bạc Già Phạm. Mật nói Thắng Pháp này. Trước tiên phát nguyện lớn.
08/04/2013(Xem: 10362)
Một thời Đức Phật ngự trong Tịnh Xá tại nước Xá Vệ Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Tôn Giả A Nan Đà (Ananda) rằng:”Nay ông hãy lắng nghe. Có Kinh Tiêu Trừ Nhất Thiết Thiểm Điện Chướng Nạn Tùy Cầu Như Ý Đà La Ni mà đấng Như Lai Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác...
08/04/2013(Xem: 6148)
Tại miền Trung Thiên Trúc, nước Ma-già-đà (Ma-kiệt-đà: Magadha), thành Vương Xá (Rajagraha), chùa Na-lan-đà Trúc Lâm (Nalanda), có vị Tam tạng Sa-môn húy là Du-ba-ca-la, Trung Hoa gọi là Thiện Vô Uùy (Subhakarasimha).
08/04/2013(Xem: 8474)
Đức Như Lai ở trăm ngàn Câu chi A tăng kỳ kiếp gom chứa chất liệu Bồ Đề, gia trì văn tự Chân Ngôn của Đà La Ni khiến cho Bậc Bồ Tát đến ngộ tương ứng với điều này mà đốn tập chất liệu của Phước Đức và Trí Tuệ. Ở nơi Đại Thừa, cần tu hành hai lối của Bồ Tát Đạo để chứng đạo Vô Thượng Bồ Đề.
08/04/2013(Xem: 14343)
Trì Thế Bồ Tát có tên Phạn là Àrya Sutàre (Thánh Thiện Cứu Độ) hay Sudhàre (Thiện Trì), Dhàralokajvala (Trì Thế Quang Minh), nhưng trong các Kinh bản thì thường dùng tên gọi là Vasudhàra hoặc Vasudhàri (Danh xưng này tương đương với các vị Thần Đất hay bảo vệ mùa màng thuộc truyền thống An Độ)
08/04/2013(Xem: 7740)
Nếu muốn cầu Tức Tai, cần diệt hết 7 loại tai nạn là : Mặt trời mặt trăng che nuốt, 5 vì sao sai trái mất độ bình thường, binh giặc nổi dậy, nước cạn chẳng đúng thời, gió mưa mất độ, bầy tôi phản nghịch gây tổn hại cho quốc dân, cọp sói thú ác ăn nuốt chúng sinh, lúa gạo (Ngũ cốc ) chẳng được mùa.
08/04/2013(Xem: 10423)
Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Phật ngự tại giảng đường Trùng Các của Tinh Xá Đại Lâm trong vườn cây Am La thuộc nước Tỳ Xá Ly cùng với 1250 vị Tỳ Kheo đều là các bậc A La Hán đã dứt các Lậu, chẳng thọ thân sau nữa như là vàng ròng đã tinh luyện, thân tâm lặng trong, 6 Thông không ngại.
08/04/2013(Xem: 11023)
Bấy giờ Đức Phật bảo A Nan rằng:”Quán Thế Am Bồ Tát này đã nói Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Thần Chú chân thật không hư dối. Nếu có nhóm người đã cầu nguyện mà muốn thỉnh cầu Quán Thế Am Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát...
08/04/2013(Xem: 4749)
Cúi đầu lễ Đại Mật Từ Trì Kim Cương sinh Mở diễn Nghi vi diệu Khế chân thật giản yếu Người tu tập Du Già Nguyện hưng tâm lợi lạc Hết mười phương không sót Tất cả Giới Chúng Sinh Thành tựu Tính Chân Ngôn Tùy theo ý xưng tụng
08/04/2013(Xem: 5384)
桮輆 屹楠 伋? 才?¦觜X摓叨 亦? OM SARVA YOGA CITTAM UTPÀDA MI (? YÀMI) 向?ư 介?雽 VAJRAM JALIM (? JALI) 向?z 向?_ VAJRA BANDHA 向?z 向?_ 氛?誆 VAJRA BANDHA TRAT 向?z吒在珆 VAJRA VE’SA (? AVI’SA) AH... 鉏先?氛? 觠 SURATRA (? SURATA) STVAM _
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]