Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

[271 - 280]

13/02/201217:42(Xem: 6471)
[271 - 280]

DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN

(333 Câu Chuyện Thiền)

Đỗ Đình Đồng góp nhặt

 

271. VẼ TÁNH

Ekichu, vị sư thứ 17 của chùa Thọ Phúc, nổi tiếng là một họa sĩ. Một hôm Nobumitsu đến gặp sư và hỏi sư có thể vẽ được hương thơm tả trong câu thơ nổi tiếng, “Qua hoa rồi, vó ngựa còn thơm”. Sư liền vẽ chiếc vó ngựa có bầy bướm vờn quanh.

Rồi Nobumitsu dẫn một câu khác, “Gió xuân mơn man thổi qua bờ sông”, và yêu cầu vẽ bức tranh gió nhẹ mơn man. Sư liền vẽ một cành liễu đong đưa.

Nobumitsu đọc lên câu nói lừng danh của Thiền, “Chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”. Anh ta yêu cầu vẽ bức tranh về tâm. Sư lấy cây cọ quẹt nhẹ lên mặt Nobumitsu một vệt. Chiến sĩ ngạc nhiên và bực tức. Sư liền phác họa bộ mặt tức giận ấy.

Rồi Nobumitsu yêu cầu vẽ một tranh về tánh như trong chữ “thấy tánh”. Sư bẻ gãy cây cọ, nói:

- Đó là bức tranh.

Nobumitsu không hiểu và sư bảo:

- Nếu anh không có con mắt thấy đó thì anh chẳng thấy được.

Nobumitsu nói:
- Hãy lấy cây cọ khác vẽ tánh đi.

Sư bảo:

- Hãy chỉ tôi thấy cái tánh của anh rồi tôi vẽ cho.

Nobumitsu không lời để nói.

(Thiền và Đạo Thuật)

272. BẢN SAO

Một vị tăng thủ tọa đến chào Gyokuzan, vị sư thứ 21 của chùa Kiến Trường. Thủ tọa hỏi mượn sư các bài thuyết pháp của Thiền sư Đại Giác, người sáng lập chùa Kiến Trường, về Lâm Tế Lục.

Sư ngồi im lặng hồi lâu rồi hỏi:

- Ông đã sao chép chưa?

Thủ tọa đáp:

- Sao, con chưa có mượn mà.

Sư nói:

- Thiền của Lâm Tế là tâm tâm tương thông--ông cần chữ viết để làm gì? Nếu ông muốn có chữ viết, hãy dùng núi Ashigara làm bút, bờ biển Yui làm nghiêng mực mà sao chép.

Thủ tọa hét một tiếng Katsu! và nói:

- Con đã sao xong.

(Thiền và Đạo Thuật)

273. BÀI PHÁP CỦA NI SƯ SHIDO

Vào tuần nhiếp tâm Lạp Bát (mồng 8 tháng 12) năm 1304 ở chùa Viên Giác, hòa thượng Chokei đã chính thức ấn khả cho ni cô Shido, người sáng lập chùa Đông Khánh, thành ni sư. Vị tăng thủ tọa không chấp nhận sự ấn khả ấy, và hỏi câu sau đây để trắc nghiệm ni sư:

- Trong dòng hệ của chúng ta, người được nhận ấn khả phải thuyết pháp về Lâm Tế Lục. Cô thực có thể múa gậy Pháp trên Pháp tòa không?

Ni sư đối diện với vị thủ tọa, rút ra một con dao dài hai tấc rưỡi (tất cả đàn bà thuộc giai cấp chiến sĩ đều mang dao loại này), giơ lên:

- Chắc chắn một Thiền sư thuộc dòng của tổ sẽ lên tòa cao nói về sách đó. Nhưng tôi là một người đàn bà thuộc dòng chiến sĩ, tôi sẽ nói pháp khi thực sự đối mặt với lưỡi kiếm đã rút ra khỏi vỏ. Tôi cần sách gì?

Vị tăng thủ tọa hỏi:

- Trước khi cha mẹ sinh ra, lúc ấy ni sư lấy gì tuyên giáo?

Ni sư nhắm mắt lại một lúc, rồi hỏi:

- Thủ tọa hiểu không?

Thủ tọa nói:

- Bầu rượu đã bị lật úp trong khe Đào,

Cặp mắt say nhìn thấy hoa mười dặm.

(Thiền và Đạo Thuật)

274. TỔ SƯ HIỆP SĨ TỪ PHƯƠNG TÂY ĐẾN

Yamana Morofuyu là một chiến sĩ dũng cảm của dòng họ Ashikagas, được thuyên chuyển từ một thuyền trưởng hải quân sang kỵ binh. Sau đó một thời gian, ông ta đã tu học Thiền ở chùa Viên Giác. Một năm nọ, ông đến tham dự tuần nhiếp tâm Lạp Bát, nhưng ông không ngồi trong thiền phòng dành cho các chiến sĩ. Thay vào đó suốt ngày ông cỡi ngựa băng rừng vượt núi. Daikyo, vị sư thứ 43 của chùa Viên Giác, vì vậy cảnh cáo ông ta, nói:

- Trên lưng ngựa, tâm dễ bị phân tán. Trong tuần nhiếp tâm Lạp Bát, hãy ngồi trong thiền đường.

Ông ta nói:

- Tăng nhân là người của Thiền ngồi, chắc chắn nên ngồi ở chỗ đặc biệt có Phật. Nhưng tôi là một hiệp sĩ, nên tập thiền định trên lưng ngựa.

Sư nói:

- Ngài trước kia là một thuyền trưởng này trở thành một hiệp sĩ. Tổ sư đến trên sóng [chỉ Bồ-đề Đạt-Ma] và tổ sư đến trên lưng ngựa, ý ấy là đồng hay là khác?

Morofuyu ngập ngừng.

Sư giựt lấy cây roi, đánh Morofuyu và nói:

- Ôi, cưỡi đi, cưỡi đi!

(Thiền và Đạo Thuật)

275. THIỀN MỘT CHIẾC ÁO CỦA ĐẠI GIÁC

Một ông tăng sĩ từ dinh của quan nhiếp chính Bắc Điều Thái Thời [Hojo Yasutoki] đến viếng chùa Kiến Trường, nói với Đại Giác:

- Vinh Tây và Hành Dũng đã bắt đầu truyền bá Thiền tông ở Khiêm Thương này, nhưng hai vị sư vĩ đại nhất của Tổ đạo là Đạo Nguyên của phái Tào Động và Thánh Nhất. Cả hai đến Khiêm Thương dạy Thiền theo lời mời của quan nhiếp chính Yokiyori, nhưng chưa hết một năm cả hai đều từ giả. Vì vậy, trong hàng chiến sĩ ở đây không bao nhiêu người hiểu Thiền nhiều. Sự thật, một số người ngu đến độ nghĩ rằng Thiền--[viết theo chữ Hán] là do hai chữ “y” (áo) và chữ “đơn” (một) ghép lại--chỉ có nghĩa như vậy. Họ tin rằng các Thiền tăng của Ấn độ ở trên núi tu các phép khổ hạnh đặc biệt, và ngay cả trong mùa đông cũng chỉ mặc có một chiếc áo vải, và tên của tông phái phát xuất từ đó.

Đại Giác lắng nghe tất cả rồi cười lớn, nói:

- Người Khiêm Thương đúng khi nói rằng Thiền có nghĩa là chỉ mặc một chiếc áo. Họ hiểu đúng tông phái tượng trưng cho cái gì. Một người tầm thường mặc các lớp áo ba độc và năm ham muốn, và mặc dù cố công niệm Phật, tụng kinh để lột bỏ các lớp áo đó, nhưng y không thể thoát được các lớp áo phiền não. Thiền vốn không có nghĩa là có nhiều lớp áo mà có nghĩa là chỉ có một mảnh. Niệm Phật--ấy là xa lìa Pháp không ta, và không ta không Pháp, để ta và Pháp là một mảnh. Đây gọi là “nhồi thành một khối”. Chiến sĩ Khiêm Thương, khi nói Thiền tông có nghĩa là tông phái một chiếc áo, họ đã lãnh hội được yếu tánh thâm sâu nhất của nó.

Nếu ông không có các lớp áo ấy, là ông đang tu dưỡng đan điền theo kiểu Thiền. Giờ đây hãy để một người lột bỏ tám ngàn lớp áo Pháp Tạng và chỉ còn một chiếc áo giản dị. Làm sao được như vậy?

Tăng sĩ lễ bái và từ giả.

(Thiền và Đạo Thuật)

276. THIỀN CÁI KHỐ CỦA PHẬT QUANG

Ở trên ban tham mưu của Yasutsura Genbansuke, một thượng thư của quan nhiếp chính Bắc Điều Thái Thời [Hojo Yasutaki], là một Morikatsu đã bất ngờ đến chùa Viên Giác. Ở đó ông ta đã gặp một trong những thị giả của Phật Quang, là Nhất Tâm (người đã biên tập các bài pháp của Phật Quang thành tập Phật Quang Lục).

Morikatsu nói với thị giả:

- Bọn ngu ngốc ở Khiêm Thương không biết cách viết tên tông phái của các thầy cho đúng mà cứ lộn nó với chữ “cái khố”. Thật là kỳ khôi.

Vị tăng thị giả cảm thấy thất vọng vì như vậy là người ta đã làm giảm giá trị chữ Thiền và kể cho thầy nghe. Phật Quang cười và nói:

- Thật ra cái khố là mối quan tâm lớn của tông môn chúng ta. Không nên khinh khi những chiến sĩ Khiêm Thương thiếu học đó. Cái gì đem lại sự sống cho con người là quyền lực của cổng trước và khi họ chết, nó kết thúc (bài tiết) ở cổng sau. Không phải sự sống chết này là mối quan tâm lớn của Thiền môn sao? Và cái bao bọc những cơ quan của sống và chết là chiếc khố. Nếu ông đi sâu vào cái bao bọc cả hai, ông sẽ biết sinh từ đâu đến và chết đi về đâu. Bây giờ hãy dùng cái khố chỉ giáo chút ít cho gã khờ đó, và bảo y cách phá bỏ cái khố ấy.

Nhất Tâm đến vung cái khố trước mặt Morikatsu, nói:

- Tất cả chúng sinh đều vật vã trong cái khố này, khi ông phá bỏ cái khố thì thế nào?

Morikatsu không lời để nói.

(Thiền và Đạo Thuật)

277. ĐỊA TẠNG RA KHỎI CHÁNH ĐIỆN

Vào năm 1331, khi bọn lính của Nitta Sadayoshi đốt phá vùng thôn quê, chúng dùng lửa tấn công các ngôi chùa ở Khiêm Thương. Chùa Kiến Trường đã bị chúng đốt trong thời gian đó. Người ta nói rằng người chấp sự chánh điện của chùa đã cõng pho tượng Địa Tạng to lớn ra khỏi nguy hiểm. Pho tượng cao và rộng khoảng 5 mét, nặng khoảng 326 ký lô. Cửa của Phật điện chỉ mở ra được khoảng 2 mét 5. Làm sao ông tăng đem được Địa Tạng ra cửa?

(Thiền và Đạo Thuật)

278. VÂY RỒNG

Trong giờ giải lao ở vườn chùa, vài ông tăng làm vườn nghỉ dưới gốc mấy cây thông trong vườn phía sau phòng phương trượng. Nhớ lại ngày xưa, Hojo Tokimasa [1138-1215; 1203-5, là quan nhiếp chính], lúc còn là một thanh niên, đến ẩn cư trong một ngôi chùa trên đảo Enoshima, cầu nguyện cho cuộc đấu tranh của ông thành công lâu dài như thế nào. Vào đêm cuối cùng của kỳ ẩn cư hai mươi mốt ngày, một công chúa xinh đẹp trong bộ y phục màu xanh lá cây hiện ra và tiên đoán, “Dòng phái của ông sẽ được chí tôn, và cơn thủy triều vinh quang sẽ tràn vào cổng nhà ông.” Rồi công chúa biến thành con rắn dài bảy mét, bơi xuống biển để lại trên bờ biển ba cái vảy giống như vảy cá. Tokimasa lấy ba cái vảy đó làm một lá cờ sáng ngời . Vì vậy, người ta nói rằng những ngôi chùa lớn như Kiến Trường, Viên Giác và các chùa khác đều có ba cái vảy cá trên nóc chùa. Rồi mấy ông tăng tranh cãi nhau về con rồng chạm trên cây cột trong một căn phòng của chùa Viên Giác, sao nó lại không có những vảy rồng hình tam giác giống như nóc chùa. Do đó, có người bảo rằng thần Biện tài (Benzaiten: thần của cải) không thể nào là con rồng, vì vậy câu chuyện cứ lòng vòng.

Phật Quang ở trong phòng phương trượng nghe họ tranh cãi, liền ra nói:

- Hãy tạm gác lại chuyện vảy rồng, có ai trong các ông từng thấy rồng chưa?

Ông tăng tri viên nói:

- Chưa, con chưa từng gặp ai thấy rồng cả.

Sư nói:

- Nếu các ông chưa từng thấy rồng thì làm sao tranh luận vảy rồng phải như thế nào? Các ông giống như người các tông phái khác phê bình Phật tâm tông mà chưa từng thoáng thấy Phật tâm. Nếu các ông muốn biết vảy rồng ra sao, hãy đến Enoshima ẩn cư và cầu nguyện cho thấy được một con rồng. Rồi các ông sẽ không cần hành cước chỗ khác hay đi đâu xa xôi. Thần Biện tài chân thực ở trên đỉnh đầu mọi người. Hãy ẩn cư thiền định tại đây, trong thiền đường chùa Viên Giác này, hai mươi mốt ngày. Nếu hoàn toàn chuyên chú, các ông sẽ có thể thấy rồng vào ngày cuối. Nếu các ông chưa thấy được rồng, hãy tu thêm hăm mốt tuần. Nếu vẫn chưa thấy nữa, hãy tu thêm hăm mốt năm, suốt ngày suốt đêm, không bao giờ quên quyết tâm. Đến ngày cuối, chắc chắn các ông sẽ gặp và thấy một con.

(Thiền và Đạo Thuật)

279. VẬT DƯỚI RỐN CỦA THỜI TÔNG

Lúc chiến tranh bùng nổ, Bắc Điều Thời Tông (Hojo Tokimune) đến viếng sư Phật Quang, ông đã hét lên một tiếng Yaa! phóng thẳng tới trước. Tiếng hét to đến nỗi nó vang dội cả núi Lộc Sơn

Hòa thượng Nghĩa Ông nói:

-Tướng quân có vật vĩ đại dưới rốn [khí hải đan điền], nên tiếng hét to như vậy.

Quan cận thần Masanori, khi hiểu Nghĩa Ông nói gì, hỏi:
- Tôn giả thấy kích thước cái vật dưới rốn của tướng quân hồi nào?

Nghĩa Ông đáp:

- Trước khi tướng quân sinh ra, tôi đã thấy nó rồi.

Quan cận thần không hiểu.

Nghĩa Ông nói:

- Nếu ngài không hiểu cái vĩ đại ở dưới rốn tướng quân, thì hãy xem cái vĩ đại ở dưới rốn chính ngài trước khi ngài sinh ra. Làm sao cái ấy trở nên lớn hay bé hơn vì vinh hay nhục của [địa vị] cao hay thấp? Quan cận thần vẫn ngơ ngác chẳng hiểu.

Nghĩa Ông hét một tiếng “Yaa!” và nói:

- Tiếng của nó, của cái đó, là như thế.

Ngay câu nói này, quan cận thần tỉnh ngộ và nói:
- Tiểu quan hôm nay may mắn nhận được một tiếng hét của tôn giả. Tiểu quan đã biết cái vĩ đại ở dưới rốn của tướng quân rồi.

Nghĩa Ông hỏi:

- Cái ấy dài rộng như thế nào? Nói!

Quan cận thần nói:

- Dài xuyên ba cõi, rộng khắp mười phương.

Nghĩa Ông nói:
- Xin quí quan hãy cho cái vĩ đại ấy hét một tiếng xem nào.

Quan cận thần không thể mở miệng đáp lời.

(Thiền và Đạo Thuật)

280. CỔNG VÀO THẾ GIỚI CHƯ PHẬT

Chùa Viên Giác vốn là cấm địa đối với đàn bà, ngoại trừ những người đàn bà không lấy chồng của một gia đình chiến sĩ tu Thiền là được phép vào ra cổng. Sau năm 1334, lại có luật trừ phi người đàn bà đã thấy tánh thì không được phép lên Đại Quang Minh Điện. Lúc đó nó đã trở thành lệ cho người gác cổng, khi người đàn bà đi qua cổng phải trình một câu hỏi trắc nghiệm. Theo một truyền thống Thiền từ lúc đó, năm trắc nghiệm được dùng ở cổng chùa Viên Giác là:

- Cổng vào có nhiều bậc: ngay cả Phật và Tổ cũng không thể qua được.

Nếu muốn vào, hãy trình mật ngữ.

- Cửa sắt cứng chắc khó mở.

Hãy để người có thần lực dựt đứt bản lề.

- Trải ra mênh mông mọi hướng--không cửa, không cổng.

Làm sao nhận ra cổng ấy?

- Tám mươi bốn ngàn cổng đồng thời mở.

Duy kẻ có mắt, hãy cho y thấy.

- Là cái gì? Do cổng này

Tất cả chư Phật đi vào thế gian.

(Thiền và Đạo Thuật)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/04/2013(Xem: 9543)
Ngày nay việc thực hành Thiền Quán đã được phổ biến rộng rãi khắp thế giới, tuy nhiên, để đạt được sự thành công như hiện nay, pháp hành này đã trải qua nhiều biến đổi tế nhị. Thay vì được giảng dạy như một phần chính yếu của con đường tu tập Phật giáo, bây giờ pháp hành này thường được trình bày như một môn học thế gian mà những kết quả đạt được thuộc về đời sống trong thế giới này hơn là sự giải thoát siêu thế gian.
22/04/2013(Xem: 7772)
Vào mùa Xuân năm 1992, chiếc máy Fax trong văn phòng của giáo sư Richard Davidson ở khoa Tâm lý học thuộc Viện Đại học Wisconsin bất ngờ in ra một bức thư của Tenzin Gyatso, vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng. Giáo sư Davidson là một nhà thần kinh học được đào tạo từ Viện Đại học Harvard, ông đã nổi danh nhờ công trình nghiên cứu về các tình cảm tích cực, và tin đồn về những thành tựu khoa học của ông đã lan truyền đến miền Bắc Ấn Độ.
22/04/2013(Xem: 9510)
Tại các quốc gia Âu Mỹ, pháp thiền trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy thường được hiểu như là pháp thiền minh sát, cho đến nổi có nhiều người thực hành trong truyền thống này xem mình như là các thiền giả minh sát. Tuy nhiên, các bản kinh Pali -- tài liệu cổ xưa ghi lại các bài giảng của Đức Phật, không xem thiền minh sát như là một hệ thống tu thiền độc lập nhưng là một thành tố của một cặp kỷ năng hành thiền gọi là Samatha và Vipassanà, An Chỉ và Minh Quán -- hay Chỉ và Quán.
10/04/2013(Xem: 6982)
Như chúng ta đã biết, con đường giải thoát sinh tử khổ đau là con đường Giới, Định, Tuệ. Nói gọn là con đường Thiền định với "Ba mươi bảy phẩm trợ đạo" là tiêu biểu. Thế Tôn dạy: "Này các Tỷ kheo, khi nào các Thầy có giới khéo thanh tịnh và Chánh tri kiến, các Thầy hãy y cứ trên giới, tu tập Tứ Niệm Xứ theo ba cách: Nhiệt tâm, Chánh niệm tỉnh giác và nhiếp phục tham ưu ở đời"
09/04/2013(Xem: 13499)
Người Tây Phương đã có những công trình nghiên cứu đạo Phật một cách qui mô vào cuối thế kỷ 19. Những học giả người Anh, người Đức, tiêu biển nhất là những hội viên của Pali Text Society và Royal Asiatic Academy đã để lại những dịch phẩm, tác phẩm mà đến nay vẫn mang giá trị to lớn cho Phật học thế giới. Một số cá nhân đi xa hơn trở thành những tu sĩ Tây phương tại các quốc gia Phật giáo. Họ tìm thấy môi trường tu tập tuyệt vời khi sống giữa những người Phật tử Á Đông.
09/04/2013(Xem: 5238)
Thiền định , thiền quán và thiền định thiền quán song tu, hay nói gọi theo thời xưa là Chỉ, Quán và Chỉ Quán song tu, của Đại thừa được đặt trên thực tại tối hậu mà các kinh thường gọi là Thật tướng của tất cả các pháp.
04/04/2013(Xem: 6574)
"Như Lai Thiền trong kinh tạng Pàli, hay Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng", là một công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến Như Lai Thiền mà không đề cập đến Tổ Sư Thiền.
02/04/2013(Xem: 2257)
Tất cả những ai đến thực tập Thiền Minh Sát Tuệ [hay Thiền Minh Sát] đều mong phát triển Trí Tuệ thật nhanh. Tất cả những ai chưa khai triển Trí Tuệ đều mong phát sanh Trí Tuệ thật nhanh. Tất cả những ai đã có vài Tuệ giác đều mong phát triển thêm Trí Tuệ thật nhanh. Mọi người mong phát triển Trí Tuệ thật nhanh.
21/03/2013(Xem: 14110)
NIẾT BÀN, phỏng dịch theo nguyên bản mang tựa đề: “NIRVANA IN A NUTSHELL” của SCOTT SHAW, do Barnes & Noble ấn hành năm 2003. Tác giả Scott Shaw là một nhà văn điêu luyện, một nhà giáo, một nhà võ và đồng thời là một Phật tử thuận thành.
28/12/2012(Xem: 14031)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầuthiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinhđiển thiền ngữ” (六十六條經典禪語),có nghĩa là “66 câu thiền ngữ trong Kinhđiển [Phật giáo]”, được phổ biếntrên internet vào khoảng năm 2004. Bản dịch tiếng Việt được phổ biến năm 2010,có tựa đề là “66 cầu làm chấn động thiền ngữ thế giới” hoặc “66 câu Phật họclàm chấn động thiền ngữ” đều không chuẩn với nguyên tác Hoa ngữ, đồng thời, đãthêm cụm từ “chấn động thế giới” và tỉnh lược từ “kinh điển”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567