Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

[221 - 230]

13/02/201217:42(Xem: 6363)
[221 - 230]

DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN

(333 Câu Chuyện Thiền)

Đỗ Đình Đồng góp nhặt

 

221. ANH CÓ PHẢI LÀ PHẬT TỬ KHÔNG?

Janwillem Van De Wettering, một người Hòa lan đến Nhật học Thiền vào những năm 1950, kể lại câu chuyện sau:

Một hôm tôi kiếm Han-san và thấy anh ta ngoài vườn đang chất dưa leo lên chiếc xe cút kít.

Tôi hỏi, “Anh có phải là Phật tử không?”

Han-san có vẻ là một thanh niên thôn quê giản dị, nhưng nắm bắt sự việc nhanh nhẹn.

“Tôi?” anh ta hỏi một cách ngây thơ. “Tôi học Phật giáo Thiền tông...”

Tôi nóng nảy nói, “Vâng, tôi biết. Nhưng anh có phải là Phật tử không?”

Han-san nói, “Ông biết rằng tôi không hiện hữu, tôi lúc nào cũng thay đổi. Mỗi phút tôi mỗi khác. Tôi hiện hữu theo cách mây hiện hữu. Một đám mây cũng là một Phật tử. Ông gọi tôi là Han-san và giả tưởng rằng tôi ngày hôm qua là những gì tôi sẽ là ngày hôm nay. Nhưng đó là chuyện của ông. Sự thực chẳng có Han-san nào cả. Làm sao một Han-san không thực có thể là một Phật tử được?”

Tôi nói, “Đừng có rắc rối như vậy. Tôi chỉ hỏi anh có phải là một thành viên của giáo hội Phật giáo hay không.”

Han-san hỏi, “Một đám mây có phải là một thành viên của bầu trời?”

(Chùa Chiền Trên Đất Mỹ)

222. VÌ TÔI LÀ Y SĨ

Có một y sĩ phục vụ trong quân đội, việc của ông ta là đi theo lính ra trận và chăm sóc lính khi họ bị thương trên chiến trường. . .

Nhưng hầu như lần nào sau khi y sĩ chữa được vết thương cho một người lính là y lập tức trở lại chiến trường, rồi cuối cùng bị giết chết. . .

Sau khi điều đó tái diễn nhiều lần, người y sĩ cuối cùng đã ngã quị . . .

Ông ta suy tư: “Nếu số phận của họ là như vậy, tại sao ta phải cứu họ? Nếu thuốc men của ta có ý nghĩa, thì tại sao họ trở lại đánh nhau để rồi bị giết.”

Không hiểu được làm y sĩ trong quân đội có ý nghĩa gì, ông ta cảm thấy cực kỳ bối rối và không thể tiếp tục làm việc nữa. . .

Vì vậy, ông ta vào núi tìm một Thiền sư nhờ giúp đỡ.

Sau khi học với Thiền sư mấy tháng, cuối cùng hiểu được vấn đề, ông ta xuống núi và tiếp tục hành nghề.

Từ đó về sau, khi có gì phiền phức vì nghi ngờ, ông ta chỉ nói:

- Vì tôi là y sĩ!

(Chơn Không Gầm Thét)

223. KHÔNG CẦU KHÔNG MONG

Một hôm Thiền sư Làm Tế Nghĩa Huyền đến viếng tháp thờ Bồ-đề-đạt-ma, Thiền Tổ thứ nhất ở Trung quốc.

Ông từ giữ tháp hỏi:

- Thầy lễ bái ai trước, Bồ-đề-đạt-ma hay Phật?

Lâm Tế đáp:

- Tôi lễ bái chẳng phải Bồ-đề-đạt-ma cũng chẳng phải Phật.

Ông từ giữ tháp lại hỏi:

- Họ đã làm gì thầy?

Lâm Tế phất tay áo, xoay mình bỏ đi.

(Chơn Không Gầm Thét)

224. SỐNG Ư? CHẾT Ư?

Tiệm Nguyên và thầy là Đạo Ngô cùng đến điếu tang tại nhà một người chết.

Tiệm Nguyên bước tới vỗ quan tài người chết, hỏi Đạo Ngô:

- Y sống hay là chết?

Đạo Ngô đáp:

- Sống ư? Ta không nói. Chết ư? Ta không nói.

Tiệm Nguyên hỏi:

- Tại sao hòa thượng không nói?

Đạo Ngô đáp:

- Không nói là không nói.

Tiệm Nguyên đe dọa:

- Hoà thượng không nói, con quật ngã hòa thượng liền.

Đạo Ngô nói:

- Muốn đánh cứ đánh. Không nói là không nói.

Tiệm Nguyên nói:

- Thầy gì mà lạ thế, không chịu nói cho học trò! . . . . . . .

Sau đó ít lâu, Đạo Ngô qua đời. Tiệm Nguyên đến một Thiền sư khác tên là Thạch Sương và hỏi cùng một câu ấy.

Thạch Sương đáp:

- Sống ư? Ta không nói. Chết ư? Ta không nói.

Ngay đây Tiệm Nguyên hoát nhiên ngộ được.

Ngày hôm sau, Tiệm Nguyên vác cây cuốc đi qua đi lại trong pháp đường.

Thạch Sương hỏi:

- Ông làm gì vậy?

Tiệm Nguyên đáp:

- Tìm linh cốt tiên sư.

Thạch Sương hỏi:

- Nước lũ linh láng, sóng dậy ngập trời. Linh cốt tiên sư ở đâu mà tìm?

Tiệm Nguyên đáp:

- Là lúc tận lực vậy.

(Chơn Không Gầm Thét)

225. CHỈ MẶT TRĂNG

Một hôm, một ni cô tên Vô Tận Tạng hỏi Huệ Năng, Thiền Tổ thứ sáu ở Trung quốc:

- Tôi đã học kinh Niết bàn nhiều năm, nhưng có vài đoạn vẫn chưa hiểu thấu đáo. Sư có thể giải thích giùm không?

Huệ Năng đáp:

- Tiếc là tôi không đọc được. Nhưng nếu cô đọc vài đoạn cho tôi nghe, tôi sẽ giúp cô hiểu được.

Ni cô ngạc nhiên hỏi:

- Chữ còn chưa biết làm sao biết nghĩa?

Huệ Năng đáp:

- Chữ và đạo không quan hệ nhau. Có thể so sánh đạo với mặt trăng, và chữ với ngón tay. Tôi có thể dùng ngón tay để chỉ mặt trăng và cô không cần ngón tay của tôi để thấy mặt trăng, phải không?

(Chơn Không Gầm Thét)

226. KHỈ TRONG CHUỒNG

Một hôm Ngưỡng Sơn hỏi Thiền sư Hồng Ân:

- Thấy tánh là thế nào?

Hồng Ân cho một ví dụ:

- Giống như một cái chuồng có sáu cửa, bên trong có nhốt một con khỉ. Nếu phía đông có người kêu “khẹt khẹt”, bên trong khỉ cũng đáp lại “khẹt khẹt.” Tiếng kêu sẽ do sáu cửa ra vào ứng nhau.

Ngưỡng Sơn hỏi lại:

- Nếu như bên trong khỉ ngủ thì sao?

Hông Ân liền bước xuống giường thiền, một tay nắm gậy một tay nắm Ngưỡng Sơn, vừa múa vừa nói lớn:

- Khỉ ơi, khỉ ơi, ta cùng ngươi đang đối diện nhau đây.

(Thung Dung Lục)

227. VÔ TÂM

Một hôm, một ông tăng hỏi Thượng sĩ Tuệ Trung (1230-1291):

- Bạch Thượng sĩ, tôi vì sanh tử là việc lớn, vô thường nhanh chóng, song chưa biết thân này từ đâu sanh ra, chết sẽ đi về đâu?

Tuệ Trung đáp:

Giữa trời phỏng có đôi vành chuyển,

Bể cả ngại gì bọt nước xao.

Ông tăng lại hỏi:

- Thế nào là đạo?

Tuệ Trung đáp:

Đạo không có trong câu hỏi,

Câu hỏi không có trong đạo.

- Hàng đạt đức ngày xưa nói: “Không tâm tức là đạo.” Đúng chăng?

Tuệ Trung đáp:

Không tâm chẳng phải đạo,

Không đạo cũng không tâm.

Nếu họ nói “Không tâm là đạo,” thì tất cả cây cỏ đều là đạo cả sao? Bằng ngược lại nói “Không tâm chẳng phải đạo,” thì cần gì nói có không? Lắng nghe ta nói kệ đây:

Vốn không tâm không đạo,

Có đạo chẳng không tâm.

Tâm đạo vốn hư tịch,

Chỗ nào đâu đuổi tầm?

Ông tăng chợt nhận ra ý chỉ, xá lạy lui ra.

(Thiền Sư Việt Nam)

228. ĐỨA TRẺ BA TUỔI CŨNG BIẾT

Bạch Cư Dị là một nhà thơ nổi tiếng đời nhà Đường. Ông được bổ nhiệm giữ chức thái thú một vùng. Trong vùng ông quản lý có một Thiền sư được mọi người gọi là Điểu Sào, có nghĩa là cái tổ chim, vì sư hay tọa thiền trên cành cây. Một hôm Bạch Cư Dị đến viếng sư, nói:

- Chỗ thầy ngồi trên ấy thật là nguy hiểm.

Sư đáp:

- Chỗ của thái thú còn nguy hiểm hơn nhiều.

Bạch Cư Dị nói:

- Chỗ của tôi là trấn giang sơn, đâu có gì nguy hiểm.

Sư nói:

- Lửa nước qua lại, thức tánh không ngừng, sao không nguy hiểm?

Bạch Cư Dị lại hỏi:

- Phật giáo dạy điều gì?

Sư đọc bài kệ bốn câu nổi tiếng này:

Điều xấu phải tránh,

Điều tốt nên làm.

Giữ lòng trong sạch,

Là lời Phật dạy.

Song thái thú họ Bạch phản đối:

- Cái đó đứa trẻ ba tuổi cũng biết.

- Nhưng ông lão tám mươi cũng khó làm được.

Thiền sư ngồi trên cây kết luận.

(Chơn Không Gầm Thét)

229. TÔI CHỈ ĐỨNG ĐÂY THÔI

Các Thiền sư thường sống trên núi, nên thỉnh thoảng người đi đường chợt thấy có người đứng thong dong trên đỉnh cao chót vót. Họ không hiểu người kia đứng đó làm gì, và muốn biết lý do.

Một người hỏi:

- Người đứng trên đỉnh núi cao kia làm gì vậy?

Một người khác nói:

- Không hiểu, mình lên đó hỏi y xem.

Sau khi hì hục leo đến nơi, họ thấy đó là một nhà sư. Một người hỏi:

- Thầy đứng đây chờ bạn phải không?

Sư đáp:

- Không.

Một người khác hỏi:

- Vậy, chắc thầy đến đây để thở không khí trong lành, phải không?

Sư đáp:

- Không.

Người thứ ba hỏi:

- Thế thì thầy đứng đây làm gì?

Sư đáp:

- Tôi chỉ đứng đây thôi.

(Chơn Không Gầm Thét)

230. TRÊN ĐỈNH CÔ PHONG

Thiền sư Không Lộ, tịch năm 1119, là truyền nhân đời thứ chín dòng Vô Ngôn Thông.

Sư phong cách thoát tục, ăn mặc thế nào xong thì thôi, không vướng mắc vật chất thường tình, chỉ tinh chuyên thiền định, trải bao năm tu tập, ăn cây mặc cỏ, quên cả thân mình.

Sau khi đắc đạo, sư có thể bay lên không, hoặc đi trên mặt nước. Những pháp thuật thần bí của sư không đo lường được.

Tác phẩm của sư còn lưu lại gồm có bài kệ Ngôn Hoài và bài thơ Ngư Nhàn. Sau đây là bài kệ Ngôn Hoài:

Trạch đắc long xà địa khả cư,

Dã tình chung nhật lạc vô dư.

Hữu thời trực thượng cô phong đỉnh,

Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.

Nghĩa là:

Đất rồng rắn an cư ta chọn,

Mối tình quê vui hưởng trọn ngày.

Đầu núi thẳm có lần lên thẳng,

Lạnh trời xanh một tiếng hú dài.

(Thiền Sư Việt Nam)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2012(Xem: 3679)
Thân người có ba chứng bệnh là bệnh thuộc về phong, bệnh thuộc về hàn và bệnh thuộc về nhiệt, nhưng ba chứng bệnh này gây họa không lớn, chỉ khổ trong một đời. Tâm cũng có ba nhóm bệnh, nhưng ba bệnh này gây họa thật nghiêm trọng, khiến con người phải chịu khổ đau vô lượng kiếp. Chỉ có Đức Phật, một đại lương y mới có thể ban thuốc chữa trị. Người tu hành trong vô lượng thế giới mãi bị các căn bệnh hiểm nghèo này, hôm nay mới có cơ hội tu dưỡng đức hạnh. Thế nên phải có ý chí kiên định, siêng năng tu tập, không tiếc thân mạng. Như một chiến tướng xông trận, nếu lòng không kiên định thì không thể phá giặc, phá giặc loạn tưởng
03/10/2012(Xem: 5712)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
30/09/2012(Xem: 8438)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiền là Thiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên Thai và Tam Luận chớ không nhất thiết chỉcó Đạt Ma tông. Nhưng từ đời Đường về sau, Đạt Ma tông trở nên hưng thịnh vì thế từ ngữ Thiền tông liền chuyển sang để chỉ cho Đạt Ma tông.
01/08/2012(Xem: 14111)
Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật. Lời Phật chỉ là phương tiện dẫn lối, đưa người vào ngôi nhà Chánh giác, giống như ngón tay chỉ trăng. Tâm Phật mới là cứu cánh của Chân lý bất nhị. Cho nên Phật dạy Tâm là tông chỉ, cửa Không là cửa Pháp. Đã là cửa Không, thì tại sao bày chi Mười cổng? Há chẳng nghe người xưa bảo, “Từ cửa mà vào thì không phải là của báu trong nhà. Nhờ duyên mà thành tựu tất phải có vay mượn bên ngoài.” Nói như vậy thật chẳng khác gì đất bằng dậy sóng, thịt da đang lành lặn lại đem ra cắt mổ đớn đau. Đã là tự tánh thì ai cũng vốn sẵn có đầy đủ, xưa chẳng bớt, nay chẳng thêm. Nhưng vì vô minh phủ lấp, hể còn sống trong đối đãi thì phải dùng pháp đối trị để ngăn ngừa vọng tâm điên đảo: Sáng đối với tối, Tịnh đối với nhiễm, Giới Định Huệ đối với Tham sân si v.v…
30/07/2012(Xem: 12440)
Nói về Giáo, trong Kinh Trung A Hàm (Bahuvedaniya-Majjhima Nikaya) số 57, đức Phật đã chỉ dẫn Mười loại Hạnh phúc Tối thượng, sắp xếp thứ tự do kết quả tu chứng, trong đó có: Đoạn thứ 6. “ Này Anandà. Nơi đây vượt hẳn lên khỏi mọi tri giác và hình thể (Sắc), không còn phản ứng của giác quan, hoàn toàn không chú tâm đến mọi sự khác nhau của tri giác ….” Đoạn thứ 10. “Nơi đây vượt hẳn lên khỏi cảnh giới Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng (Chẳng Phải Tưởng, Chẳng Phải Chẳng Có Tưởng), đạt đến sự chấm dứt mọi Tri giác và Cảm giác (Sãnnavedayita Niroda).”
28/07/2012(Xem: 8316)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữvà Đạt tâm. Do đó, chư Phật, chư Tổ ứng cơ thị hiện, tiếp dẫn độ sanh, nhằm mục đích tạo cho con người có một cuộc sống an bình tự tại. Phương tiện thì nhiều, nhưng cứu cánh chỉ có một. Nếu chúng ta biết tự chủ, nỗ lực tinh tiến dũng mãnh không chi chẳng thành tựu. Tinh tiến ít thì đạt kết quả ít, tinh tiến nhiều thì đạt kết quả nhiều. Tinh tiến rốt ráo thì kết quả viên mãn.
26/07/2012(Xem: 11557)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
25/07/2012(Xem: 13941)
Thiền (Zen) nghĩa là nhận biết Tự tánh (True Sefl). “ Ta là gì ?” (What am I?) Đó là câu hỏi rất quan trọng. Nhất thể trong sạch sáng suốt là gì? Nếu thấu hiểu, quý vị sẽ được tự do tự tại trong sanh tử. Làm thế nào đạt được tự do tự tại trong sanh tử? Trước hết, điều cần thiết là hướng đi phải rõ ràng.
09/07/2012(Xem: 3005)
Thiền và cảm xúc có một mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình tu tập, chuyển hoá tâm cho đến khi đạt được mục đích giác ngộ và giải thoát.
19/06/2012(Xem: 8707)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567