Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

3. Con Đường Thể Nhập Tâm Thiền

09/05/201111:33(Xem: 3566)
3. Con Đường Thể Nhập Tâm Thiền

THIỀN LÀ GÌ?
Thích Thông Huệ
Nhà xuất bản Phương Đông TP. HCM 2002

CHƯƠNG SÁU: TÂM THIỀN

III. CON ĐƯỜNG THỂ NHẬP TÂM THIỀN:

1/ Kinh Niệm xứ và Thiền Nguyên thủy

Kinh Niệm xứ là một bài kinh phổ thông, trình bày một cách căn bản về Thiền Minh Sát Tuệ (Vipassana), có tầm quan trọng đặc biệt trong hệ thống kinh điển Nguyên thủy. Nội dung của kinh là chánh niệm và quán niệm trên bốn lĩnh vực thân - thọ - tâm - pháp (*). Trong phạm vi chương này, chúng ta không đi sâu vào chi tiết của các kinh, mà chỉ nhằm làm sáng tỏ tính nhất quán trong những lời Phật dạy, dù người sau phân chia làm nhiều hệ thống, tông phái. Sự phân chia ấy thật cần thiết để phù hợp với căn cơ, trình độ của người học Phật, nhưng tất cả đều nhắm đến một mục tiêu tối hậu, là giác ngộ và giải thoát sinh tử.

Quán niệm trên các pháp, ta thấy rõ chúng do nhân duyên sinh. Vì do duyên sinh nên tự tánh của chúng là không, còn sự hiện hữu chỉ là tạm có. Khôngở đây nghĩa là không có tự thể, chứ không phải ngoan không. Đó chính là Vô ngã tánh, Bình đẳng tánh, Không tánhcủa vạn pháp. Nhận ra Tánh không tức ta có cái nhìn thấu thể đối với vạn pháp, có sự bình đẳng giữa mình và mọi vật; từ đó, không còn nhận thức lầm lẫn về tự thân và cuộc đời.

Thực hiện tinh thần Phản quan tự kỷ, Đức Phật dạy chánh niệm và quán niệm trên thân, thọ và tâm. Về thân, quan trọng nhất là theo dõi và tuệ tri trên hơi thở. Thở vào - ra, dài - ngắn ta đều biết rõ, biết mà không can thiệp, không sanh tâm.

Giai đoạn đầu là liên hệ giữa tâm và hơi thở; sau đó, hơi thở là gạch nối giữa thân và tâm. Cuối cùng là hợp nhất thân tâm. Khi tuệ tri “có thân đây”, chúng ta đã trực diện với thân trong giờ phút hiện tại, bằng cái thấy như thị.Chủ thể nhận thức làtâm hay biếtvà đối tượng nhận thức là thân bị biếttrở thành nhất như. Đây là tri kiến như thật, diệu dụng của bản tâm thanh tịnh thường nhiên.

Đối với các cảm thọ, phát sinh từ sự giao thoa giữa căn và trần, Phật dạy chúng ta theo dõi và tuệ tri mà không phát triển tư duy về chúng. Cảm thọ luôn thay đổi, lúc sinh lúc diệt, còn cái tuệ tri trên cảm thọ thì không bao giờ đổi thay. Đây là phương tiện để nhận ra tâm thể thường hằng.

Khi quán niệm trên mười sáu loại tâm hành, chúng ta thấu rõ hành tung bất định và bản chất hư ảo của chúng. Tuệ tri tất cả vọng tâm tức ta đã duy trì tự tánh hằng biết, để nắm bắt đương niệm ngay trong cuộc vận hành, ngay trong dòng sinh diệt của chúng. Tuệ tri ở đây chính là cái biết thâm nhập, cái biết bằng trực giác không qua ý thức phân biệt nhị nguyên, cái biết Tri kiến vô kiến, ý nghĩa của tự tánh hằng tri.

2/ Các kinh điển Đại thừa

Chúng ta đều biết, tất cả những điều Phật dạy trong suốt 49 năm thuyết pháp đều nhằm giúp chúng sanh thoát khỏi phiền não và sanh tử. Nhưng tùy căn tánh mà chúng sanh có thể chọn lựa cách tu hành thích hợp, tựu trung gồm 5 phương tiện chính, như năm loại xe đưa chúng sanh đến bến bờ tương ứng. Đó là Ngũ thừa Phật giáo:

1. Nhơn thừa:Tu năm giới, giúp chúng sanh tiếp tục trở lại làm người, tránh vào bốn cõi Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, A-tu-la.

2. Thiên thừa:Tu thập thiện, giúp chúng sanh vượt khỏi tứ châu (Nam-thiệm-bộ châu, Đông-thắng-thần châu, Tây-ngưu-hóa châu, Bắc-câu-lô châu), sinh lên cõi Trời.

Hai đường tu này vẫn còn trong vòng luân hồi, chưa phải thật sự giải thoát.

3. Thanh văn thừa: Tu pháp Tứ đế, giải thoát sanh tử, chứng A-la-hán.

4. Duyên giác thừa:Tu mười hai nhân duyên, giải thoát sinh tử, thành Bích Chi Phật.

Thanh Văn và Duyên Giác thừa đã liễu thoát tam giới, nhưng nặng phần tự lợi mà xem nhẹ lợi tha, nên tạm gọi là Tiểu thừa (cổ xe nhỏ).

5. Bồ-tát thừa:Cầu đạo vô thượng Bồ-đề, tu Lục độ vạn hạnh, nguyện độ tất cả chúng sanh. Vừa tự lợi vừa lợi tha nên được gọi là Đại thừa (xe lớn).

Trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật chỉ dạy cặn kẽ: Dù trước đây Phật có nói nhiều pháp khác nhau, nhưng đó chỉ là những phương tiện dẫn dắt chúng sanh từng bước đến mục đích cuối cùng. Mục đích này cũng là bản hoài của chư Phật - khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến. Chỉ có một Phật thừa, không có thừa nào khác. “Phật tri kiến” sẵn đủ nơi tất cả chúng sanh, không phân biệt giống loài, giới tính, căn cơ, tuổi tác. Khai và thị(mở ra và chỉ cho thấy) Phật tri kiến là việc làm của chư Phật Bồ-tát, còn ngộ và nhập (nhận ra và sống với) tánh giác là vấn đề của chúng sanh, mỗi cá nhân phải tự đảm đương lấy. Tánh giác ở ngay nơi thân thất đại; muốn nhận ra nó, phải thu nhiếp mọi vọng tưởng, như muốn thấy Phật Đa Bảo trong tháp bảy báu, phải nhóm tất cả Phật phân thân ở mười phương về một chỗ.

Kinh Lăng Nghiêm, đức Phật chỉ rõ hơn. Từ câu hỏi đầu tiên cho tôn giả A Nan: “Vì lý do gì ông xuất gia?” đưa đến bảy chỗ hỏi tâm, Phật lần lượt phá tất cả các chấp giả, đồng thời chỉ cái chân thật. Từ tánh thấy ví như mặt trăng thứ hai, Phật dạy về Như Lai Tạng. Đây chính là tâm thể, là mặt trăng thật. Lối chỉ thẳng này dành cho hàng thượng căn đốn ngộ, có khác gì “trực chỉ nhân tâm” của nhà Thiền? Khi nhận ra bản tâm tức đã kiến tánh, hành giả khởi tu bằng phương tiện của Bồ-tát Quán Thế Âm, phương tiện thù thắng và thích hợp nhất đối với chúng sanh cõi Ta-bà: Hằng sống với tánh nghe mà không dính mắc với tiếng bị nghe (phương pháp Nhĩ căn viên thông hay Phản văn văn tự tánh);khi thuần thục thì năng và sở đều dứt, chỉ còn một thể thanh tịnh như như - ý nghĩa của tâm Thiền.

Đọc kinh Kim-Cang, chúng ta thoạt nhớ câu chuyện ngộ đạo của Lục Tổ Huệ Năng ở Trung Hoa và vua Trần Thái Tông của Việt Nam. Toàn bộ bản kinh nhằm trả lời hai câu hỏi của tôn giả Tu Bồ Đề: “Khi người nam lành, người nữ lành phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, làm sao an trụ? Làm sao hàng phục tâm ấy?”. Phật dạy, muốn hàng phục tâm, phải đưa mọi vọng tưởng (chúng sanh tâm) vào chỗ vô sanh mà không chấp bốn tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Muốn an trụ tâm, phải buông xả hết sáu trần, ngay nơi không có chỗ dính mắc mà sanh tâm Vô thượng Bồ-đề. Như vậy, người phát tâm cầu thành Phật, phải thực hành theo tinh thần: “Ngoài không dính mắc các trần, trong không theo vọng tưởng”, ngay đó liền nhận ra tánh giác bất sanh bất diệt của chính mình. Lục Tổ và vua Trần nghe đến đoạn này liền nhận được yếu chỉ.

Trong kinh Viên-Giác, ngay chương đầu đức Phật đã nói thẳng về nhơn địa tu nơi Viên Giác của Như Lai: Chỉ cần biết tất cả pháp như hoa đốm trong hư không, liền không bị lưu chuyển trong sanh tử. Tựu trung chỉ có một chữ BIẾT- biết bằng trực giác, biết không qua trung gian suy luận, không phân ranh người biết và đối tượng biết. Ánh sáng trực giác thẩm thấu vào muôn pháp, biết chúng đều là huyễn. Biết huyễn thì lìa huyễn, lìa huyễn liền là giác. Đây là pháp môn đốn siêu phương tiện, dành cho các bậc thượng căn.

Đối với kinh Lăng-Già, bộ kinh được dùng làm tâm ấn trong nhà Thiền, tư tưởng chủ đạo thật rõ ràng: “Dĩ tâm vi tông, dĩ vô môn vi pháp môn” (Lấy tâm làm chủ, lấy cửa không làm cửa pháp). Người tu thấy tất cả các pháp đều như mộng huyễn, nên tất cả chấp trước đều xa lìa, ngay cả cái chấp vào Phật năng giácNiết-bàn sở giác. Thấu triệt Bình-Đẳng-Tánh của muôn pháp, hành giả không dính mắc hai bên; từ đó nhận ra Mâu-ni tịch tĩnh, tức Pháp thân thường trụ.

Một số bản kinh chúng ta vừa khảo sát, cho thấy một điều quan yếu: Dù đức Phật dùng phương tiện gì, dùng cách diễn đạt nào, dùng tên gọi ra sao, cũng chỉ có một chủ đích duy nhất: chỉ cho thính chúng nhận được bản tâm tịch tĩnh hằng giác của mỗi người. Bản tâm vốn sẵn đủ, không có hình tướng, trùm khắp pháp giới, tĩnh lặng mà chiếu soi. Vì không hình tướng nên không chuyển dịch theo không gian và biến đổi theo thời gian; vì trùm khắp nên không đến không đi; vì tĩnh lặng mà chiếu soi nên không có gì là chẳng biết. Đức Phật dùng rất nhiều tên để gọi và nhiều lời để diễn tả, chỉ vì quá từ bi, muốn chúng sanh bước đầu làm quen với một cái không tên và không diễn tả được bằng lời. Sau này, các vị Thiền sư tùy duyên mà sử dụng mọi phương tiện khác nhau, cũng chỉ nhằm mục đích giúp môn đệ nhận ra bản tâm ấy.

3. Thiền Đốn ngộ

Đoạn vấn đáp sau đây giữa một Thiền khách với Quốc sư Huệ Trung có thể tóm lược toàn bộ pháp tu của nhà Thiền:

Tăng hỏi (H):Làm sao được tương ưng?

Quốc sư đáp (Đ):Chẳng nghĩ thiện ác, tự thấy Phật tánh.

H:Thế nào là Phật?

Đ: Tức tâm là Phật

H:Tâm có phiền não chăng?

Đ: Tánh phiền não tự lìa.

H:Chẳng rơi vào đoạn diệt sao?

Đ: Đoạn phiền não là Nhị thừa, phiền não chẳng sanh gọi là Đại Niết-bàn.

H:Ngồi thiền, quán tịnh, việc ấy thế nào?

Đ: Vốn chẳng nhơ sạch, đâu cần khởi tâm quán tướng tịnh.

H:Tức tâm là Phật, có cần tu muôn hạnh chăng?

Đ: Chư Phật đều đủ Phước và Trí trang nghiêm, đâu có bác không nhân quả.

“Chẳng nghĩ thiện ác, tự thấy Phật tánh” là yếu chỉ Thiền Tông, theo tinh thần của Lục Tổ khai thị cho Thượng Tọa Huệ Minh thuở trước. Thiện-ác là tượng trưng cho tất cả tâm phân biệt hai bên (phải-trái, tốt-xấu, đúng-sai, hay-dở...). Do phân biệt nên có ưa ghét, của ta của người... Đây là đầu mối của sanh tử. Tâm thường lặng lẽ, không dính mắc, luôn tỉnh luôn giác, ấy là Phật tánh tự hiển bày. Tâm ấy tức Phật, chẳng phải tìm cầu bên ngoài.

Thượng tọa Bằng-Nhan một hôm tham vấn Thiền-sư Thần Lộc:

- Thế nào là tâm xưa nay?

Sư gọi:

- Bằng Nhan!

Thượng tọa Nhan ứng thinh:

- Dạ.

Sư bảo:

- Cùng lão tăng uống trà đi!

“Tâm xưa nay” ở chỗ lời gọi tên Bằng-Nhan hay ở chỗ uống trà? Nếu khéo từ cửa Quan Âm thể nhập tự tánh, thì có thể cùng Thiền sư uống trà Triệu Châu. Nếu mờ mịt chẳng hiểu gì, đã bị đầu lưỡi Hòa thượng lừa, dẫn đi xa tít.

Vậy thì, tìm giác ngộ ở đâu? Thiền Đốn Ngộ chủ trương chỉ thẳng tâm người ngay thực tại hiện tiền, tác động vào sáu căn. Quá khứ là những gì đã qua, tương lai thì chưa đến, đều không thực có. An trú trong hiện tại, chánh niệm tỉnh giác trong mọi nơi chốn, mọi thời khắc, mới khế hợp với tâm Thiền.

Thế nào là “Tánh phiền não tự lìa”? Hoàng-Bá-Hy-Vận trong Uyển Lăng lục đã nói: “Ngay khi ông biết vọng khởi, biết ấy chính là Phật”. Tâm biết có vọng, biết có phiền não là tâm hằng hữu tỉnh giác. Phiền não là khách, tự đến tự đi; tâm tỉnh giác là chủ, chẳng sanh chẳng diệt. Nếu thấy có phiền não để đoạn, Niết-Bàn để chứng, đó là cái thấy hai bên của Nhị Thừa. Không sanh không diệt, không đến không đi là Đại Niết-Bàn, là Như Lai không từ đâu đến, chẳng đi về đâu.

Lời Quốc Sư đáp lại câu hỏi: “Ngồi thiền quán tịnh...”khiến chúng ta nhớ đến câu chuyện mài gạch không thành gương của Ngài Nam Nhạc, lúc khai thị cho Mã Tổ Đạo Nhất: Ông học ngồi thiền hay học ngồi Phật? Nếu học ngồi thiền, thiền chẳng phải ngồi nằm. Nếu học ngồi Phật, Phật không tướng cố định, không trụ các pháp, cũng chẳng lấy bỏ. Nếu chấp tướng ngồi, chẳng đạt lý kia”. Nếu đã sống bằng tâm Thiền, thì mọi giờ phút, mọi oai nghi đều là Thiền, không chỉ có tướng ngồi. Bản tâm luôn thanh tịnh, không một vật thì không có nhơ sạch, vốn tự tánh định, tự tánh huệ. Nếu khởi quán tịnh tức có phân chia năng quán sở quán, ấy đã xa rời tự tánh.

Ở đây, chúng ta cần lưu ý một điều: Hiểu theo lý, Phật tánh sẵn đủ ở muôn loài, không phải tìm cầu mới thấy. Chúng sanh do quên tánh giác nên tạo nghiệp và trầm luân; nếu thầm nhớ và sống với tánh giác thì đồng đẳng với chư Phật. Vậy, mê (quên) là chúng sanh, ngộ (nhớ) là Phật, thật là đơn giản! Do hiểu quá dễ dàng và đơn giản như thế, chúng ta cứ ngỡ thành Phật tác Tổ là chuyện một sớm một chiều. Từ đó không tinh cần công phu, bài bác lý nhân quả, xem thường muôn hạnh. Đây là điều lầm lẫn lớn lao!

Trong thời đại khoa học kỹ thuật tiên tiến, trí thông minh của con người cũng phát triển. Chúng ta dễ dàng được đọc, được nghe rất nhiều kinh lục và lời giảng của các bậc cao tăng. Chúng ta dễ dàng thấu hiểu những vấn đề uyên áo tế nhị của Thiền gia, mà người xưa đôi khi mất một thời gian dài mới lãnh hội được. Chúng ta cũng dễ dàng rõ biết mình có tánh giác bản lai, và biết nhiều phương tiện thể nhập tự tánh. Nhưng đó chỉ là kết quả của suy luận, phân tích, tư duy nhờ ý thức, nên lúc nhớ lúc quên; lúc vô sự tưởng mình là Thánh, khi có chuyện bất như ý xảy ra thì mình vẫn là một chúng sanh với đầy đủ phiền não mê lầm! Ngài Nam-Nhạc Hoài-Nhượng là bậc tu hành chân chính, đã có chỗ giải ngộ nơi Quốc sư An. Thế mà, để trả lời câu hỏi của Lục Tổ: “Đem vật gì đến?”, Ngài phải mất đến 8 năm ôm ấp mối nghi, mới thưa được một lời:

- Nói giống một vật tức chẳng trúng

Vấn đề cốt lõi ở đây là, tám năm trời ròng rã, Ngài chỉ chuyên chú với một nghi tình duy nhất cho đến khi bùng vỡ. Phải có sự trực nhận bằng trực giác mới có chuyển hóa tận gốc rễ, mới hoàn toàn sống được với bản tâm, mới có thể một bước không lìa. Cho nên, khi Lục Tổ hỏi câu thứ hai: “Có tu chứng chăng?”,Ngài trả lời ngay: “Tu chứng chẳng phải không, nhiễm ô không thể được”. Bản tánh thanh tịnh vốn sẵn đủ, vốn chẳng thể nhiễm ô, nhưng phải có công phu tu trì miên mật mới mong có kết quả.

Khi đã kiến tánh, tức mới đi được nửa đoạn đường. Việc tu hành đã nhẹ nhàng, nhưng cũng phải tinh cần bào mòn tập khí, chuyên tu muôn hạnh. Người xưa có câu “Thật tế lý địa bất thọ nhất trần, Vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp”. Tuy trong lý chân thật không nhận một mảy trần, nhưng trong cửa muôn hạnh thì chẳng từ một pháp nào. Đây là ý nghĩa của Phước-Huệ song tu. Phước đức sung mãn, hành giả chuyển được nghiệp xấu, tránh bớt chướng duyên, tạo điều kiện cho trí huệ tăng trưởng. Càng có trí huệ, hành giả càng có cơ hội thể nhập lý như thật. Đức Phật được tôn xưng là Bậc Lưỡng túc tôn hay Minh Hạnh túc, Vì Ngài đã thành tựu viên mãn Phước và Trí. Vì thế, những hàng hậu học chúng ta, nếu tự xét thấy chưa đủ hai điều kiện trên, chớ vội bác không nhân quả, làm người vô sự!

Và đây là hai câu nói của hai vị Thiền sư, có thể minh chứng cho cái tri kiến qua từng giai đoạn trong đời tu: Thiền sư Duy Tín nói: “Trước ba mươi năm, tôi thấy núi sông là núi sông. Khi gặp Thiện tri thức chỉ dạy, tôi thấy núi sông không phải là núi sông. Sau ba mươi năm, tôi thấy núi sông vẫn là núi sông.”Thiền sư Vân Môn đưa cây gậy lên trước chúng, bảo: “Phàm phu gọi nó là thật, Nhị thừa phân tích gọi nó là không, Duyên giác gọi là huyễn có, Bồ-tát thì đương thể tức không. Thiền gia thấy cây gậy nói là cây gậy, đi chỉ đi, ngồi chỉ ngồi, không được động đến”.Phàm phu chưa biết đạo, sống trong mê mờ, nhận cái giả cho là thật nên vướng kẹt vào các pháp. Vì thế, nhìn núi sông hay cây gậy đều cho là thật có. Đối với người tu, tùy công phu quán chiếu các pháp mà có cái thấy khác nhau, dù tựu trung đều biết các pháp không thật. Hàng Thanh Văn thấy các pháp vô thường, nay còn nhưng mai mất. Duyên Giác quán các pháp do nhân duyên sanh, thấy chúng không có tự thể, nên là huyễn có. Các bậc Bồ-tát thấu tột lý nhân duyên, nhận ra tự tánh không của các pháp nên ngay đó biết rõ chúng là không. Cái thấy của Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ-tát đều thấu rõ bản chất các pháp là vô thường, duyên sinh, vô ngã; nhưng các Ngài nhìn sự vật theo khái niệm chủ quan của mình mà chối bỏ sự hiện hữu của các pháp.

Đối với các Thiền sư, các Ngài nhìn muôn sự muôn vật bằng tâm như như của chính mình. Đây là cái thấy trong trạng thái vô tâm, không hủy hoại, không sanh tâm trên các pháp, và trả các pháp về ngay bản vị của chúng. Đây là cái thấy trút sạch khái niệm vọng chấp, không phân biệt người thấy và vật bị thấy. Đây là cái thấy đúng như thực tại đang là, nên có tên “như thị tri, như thị kiến”. Giai đoạn này được các Ngài diễn tả bằng vài từ tuy rất nhẹ nhàng nên thơ “thấy cây gậy nói là cây gậy”, hoặc “thấy núi sông vẫn là núi sông”, nhưng đã bao hàm đầy đủ ý nghĩa tâm chứng của mình!

Thiền là tâm của Phật, kinh là miệng của Phật. Đức Phật tâm-khẩu tương ưng, nên ý kinh không khác yếu chỉ của Thiền. Chúng sanh có tám vạn bốn ngàn trần lao phiền não, thì Đức Phật cũng có tám vạn bốn ngàn phương thuốc điều trị, nên gọi Ngài là Bậc Vô Thượng Y Vương. Tuy nhiên, những phương thuốc ấy chỉ trị được triệu chứng của bệnh; còn muốn điều trị tận gốc, tức dứt tuyệt mối manh sinh tử, phải có loại thuốc đặc hiệu, độc đáo. Sau 49 ngày đêm thiền định, Đức Phật đã tìm ra loại thuốc ấy và đã trị lành bệnh cho mình. Sau đó, như một người thầy tận tụy, Ngài dạy lại cho chúng sanh, không giấu giếm điều gì. Rất nhiều môn đệ của Ngài, theo đúng lời Ngài dạy, cũng đã tự chữa khỏi bệnh, thoát ly sanh tử. Chúng ta ngày nay, có những cơ sở để tin lời Phật dạy là chân lý, tin con đường Ngài đi có thể đưa đến giác ngộ giải thoát, thì còn chần chờ gì nữa mà không mau tiến bước theo lộ trình của Ngài?

-----------------------


*Xin xemThiền kinh niệm xứ lược giải cùng một tác giả


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/06/2024(Xem: 1175)
Soi sáng thực tại thực ra là tên chúng tôi đặt cho những bài ghi chép tóm tắt các buổi đàm đạo hay tham vấn thiền với Hòa thượng Viên Minh trong giờ uống trà buổi sáng tại khách đường Chùa Bửu Long. Những buổi đàm đạo này đã có từ lâu nhưng chỉ giới hạn trong nội bộ chùa. Về sau một Phật tử đến tham dự buổi trà đàm thấy hay nên muốn được nghe thường xuyên đã sắm cho chùa thiết bị để có thể nghe từ xa qua Skype. Từ đó số người đến trực tiếp nghe thầy nói chuyện hoặc nghe từ xa ngày càng đông nên đã mở thêm qua YouTube theo nhu cầu của Phật tử muốn tham dự.
31/10/2023(Xem: 2710)
Phật Tánh? Xin nói rằng, tôi không biết. Tôi không thể trả lời câu hỏi có Phật Tánh hay không, và nếu có, thì là như thế nào. Bài viết này không nhằm trả lời những câu hỏi tương tự, mà chỉ là một khảo sát từ cương vị một người học Phật, chưa học tới đâu và cũng chưa tu tới đâu. Bài viết này là một lời thú nhận, rằng không biết chắc có bao nhiêu phần đúng, nhưng hy vọng sẽ phần nào giúp được một số độc giả để dùng làm viên gạch dò đường qua sông. Xin mời độc giả khảo sát, nghi vấn từng câu, từng chữ trong bài này, và rồi nên dựa vào Kinh Phật để đối chiếu.
03/08/2022(Xem: 4446)
Hít vào thở ra, đếm: "một" Hít vào thở ra, đếm: "hai" Cứ thế, đến "mười" rồi nghỉ Vài giây sau, lại bắt đầu
05/07/2022(Xem: 7369)
“Niêm hoa vi tiếu” (Chữ Hán: 拈花微笑, Nghĩa Việt: cầm hoa mỉm cười), gọi đầy đủ là “Niêm hoa thuấn mục phá nhan vi tiếu” (Chữ Hán: 拈華瞬目破顏微笑; Nghĩa Việt: Đưa hoa ra, trong chớp mắt thì chuyển mặt mỉm cười), chuyện kể Đức Phật thông qua hành động im lặng cầm hoa sen truyền Tâm Ấn Trí Tuệ Bát-nhã cho Ngài Ma-ha Ca-diếp. Giai thoại này được cho là bắt nguồn từ giới Thiền Tông Trung Quốc nhằm dẫn chứng cho hệ truyền thừa Thiền Tông bắt nguồn từ Đức Phật.
12/03/2022(Xem: 11673)
Thái tử con vua bỏ cõi trần Xuất gia học đạo quyết tìm chân Thừa đương ấn pháp du Hoa lục Đảm nhiệm tông phong báo Phật ân Thiếu Thất trừng tâm truy diện mục Tung Sơn diện vách bặt ngôn âm Chín năm huyền sử bày chân tướng Lục diệu pháp môn mở diệu tâm.
10/02/2022(Xem: 9880)
Hiện nay phong trào tu thiền nở rộ nhất là Thiền Chánh Niệm, Thiền Vipassana khiến cho một số người coi thường pháp môn tu tập có tính truyền thống. Thậm chí một số cho rằng lối tu truyền thống bao gồm tụng kinh, niệm Phật trở nên lỗi thời, chỉ có tu theo Thiền Chánh Niệm mới giải thoát mà thôi. Quan niệm đó hoàn toàn sai, trái với lời Phật dạy. Trong Kinh Kim Cang Đức Phật dạy rằng, “Pháp của ta không có thấp có cao”. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Phật lại dạy rằng “vạn pháp bất tịnh, bất cấu, bất tăng, bất giảm” và diễn rộng là là “bất thấp, bất cao, bất đúng, bất sai”. Tất cả tùy căn cơ của mỗi chúng sinh mà thôi.
02/12/2021(Xem: 19250)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
23/11/2021(Xem: 5995)
Đề tài diễn giảng chuyên môn đầu tiên "Phật giáo và Tâm lý trị liệu" (佛教與心理療癒) của Kế hoạch nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Đại học Phật Quang Sơn tổ chức tại sảnh Vân Thủy, ngày 17 tháng 11 vừa qua, tiếp đến chủ đề "Tu hành và Chuyển hóa - Đối thoại giữa Tu thiền và Tư vấn Tâm lý" (修行與轉化 禪修與心理諮商的對話), do Thạc sĩ Dương Bội (楊蓓), Chủ nhiệm Khoa Giáo dục đời sống thuộc Học viện Dharma Drum Institute of Liberal Arts (法鼓文理學院); Giáo sư Quách Triều Thuận (郭朝順), người Tổng chủ trì Kế hoạch nghiên cứu, Viện trưởng Học viện Phật giáo Phật Quang Sơn chủ trì. Gần 70 vị Giáo sư nổi tiếng, thuộc Khoa Phật học, Khoa Tâm lý học, Học viện Nghiên cứu Tôn giáo đã tham dự buổi tọa đàm đầy ý nghĩa.
19/11/2021(Xem: 7939)
Trung Bộ Kinh Nikãya có bốn bài kinh số 131, 132, 133 và 134 có cùng nội dung chỉ khác nơi và người giảng. Cả bốn bài kinh này có tên là “Bhaddeka ratta Sutta” đã được cố đại lão Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pãli sang tiếng Việt, gọi chung là “Nhất Dạ Hiền Giả”. Trước đây chúng tôi đã có bài viết “Tìm Hiểu Kinh Nhất Dạ Hiền Giả”, số 131 (*). Nay, với tinh thần cầu học, chúng tôi muốn chia xẻ thêm với các bạn thiền sinh, cũng đề tài này qua văn phong dịch thuật của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh với tựa đề là “Kinh Người Biết Sống Một Mình”.
18/11/2021(Xem: 4485)
Dù nhìn dưới góc độ nào hay y cứ theo ý nghĩa của bất kỳ truyền thống nào thì Triết gia Karl Marx (1818-1883) không phải là một Phật tử. Từ những nguồn có thể xác định được, trong những chuyến vân du đó đây vòng quanh châu Âu, cá nhân Triết gia Karl Marx chưa bao giờ tiếp cận với bất kỳ hình thức Phật giáo "dân tộc" nào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com