Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

5. Tuy hai mà một

21/02/201115:20(Xem: 3849)
5. Tuy hai mà một

SỐNG THIỀN
Nguyên Minh

CHƯƠNG I: CUỘC SỐNG NHIỆM MẦU

Tuy hai mà một

Đến đây, bạn có thể sẽ đặt ra một câu hỏi. Chúng ta ngồi thiền để tỉnh thức và nhận biết những chuyển biến trong dòng tư tưởng, như vậy thì sự tỉnh thức và nhận biết đó là ta, hay dòng tư tưởng đó là ta?

Đa số người mới học thiền thường có ác cảm với những niệm tưởng luôn dao động, và cho rằng đó chính là “kẻ thù” của tâm tỉnh thức. Trong nhà thiền gọi các tư tưởng dao động đến và đi, sinh và diệt liên tục ấy là vọng niệm, hay tạp niệm. Còn sự tỉnh thức và nhận biết mà chúng ta vừa bàn đến được gọi là chánh niệm. Sự phân biệt gọi tên như thế cũng làm cho không ít người đi đến chỗ chia tách chánh niệm và vọng niệm như là hai đối tượng trái ngược nhau. Và cũng thật dễ hiểu khi chánh niệm được xem là “phe ta” mà vọng niệm tất nhiên là “phe địch”.

Thật ra, nếu bảo chánh niệm là ta mà vọng niệm chẳng phải là ta, vậy khi chưa thực hành thiền quán, chưa có chánh niệm, “cái ta” lẽ nào chưa từng hiện hữu hay sao? Và khi thực hành thiền quán, có được chánh niệm, nếu bảo chánh niệm ấy là ta, vậy “cái ta” đó là từ đâu sinh ra? Rõ ràng sự phân biệt này đã đi đến chỗ bế tắc.

Tuy nhiên, chánh niệm nhận biết vọng niệm là điều có thật. Vậy lẽ nào cùng lúc có cả hai “cái ta”, một “cái ta vọng niệm” và một “cái ta chánh niệm”? Cách hiểu này cũng không ổn.

Vì thế, đi sâu vào thiền quán chúng ta sẽ nhận ra chánh niệm và vọng niệm thật ra cũng chỉ là từ nơi tâm sinh khởi, không thể chia tách ra thành hai đối tượng khác nhau. Chính điều này giải thích được lý do vì sao khi chúng ta càng cố gắng dẹp bỏ các vọng niệm đi thì chúng lại càng sinh khởi mạnh mẽ hơn, nhưng một khi ánh sáng chánh niệm bắt đầu soi rọi thì tự nhiên dòng sông tạp niệm sẽ trở nên hiền hòa, dễ chịu.

Chánh niệm hay vọng niệm, hay gọi tên theo một cách khác, chân tâm hay vọng tâm, không phải là hai đối tượng để chúng ta có thể lấy hoặc bỏ. Bỏ vọng tâm đi thì cũng không có chân tâm. Chúng chỉ là hai biểu hiện khác nhau của cùng một tâm. Trong nhà thiền thường dùng hình ảnh sóng và nước để minh họa cho điều này. Sóng hiện ra trên mặt nước như những hình ảnh cá biệt, cụ thể, nhưng sóng đó cũng chính là nước. Mặt nước yên lặng kia, tuy nhìn thấy có sự khác biệt, nhưng cũng chính là sóng. Sóng và nước tuy hai mà một. Có thể có những lúc “sóng lặng” để “nước yên”, nhưng từ chối không thừa nhận sóng thì cũng chẳng còn có nước.

Tương tự như thế, khi chúng ta duy trì được chánh niệm, thường xuyên tỉnh thức và nhận biết, thì “sóng vọng niệm” sẽ dần dần lắng xuống, và mặt “nước chân tâm” hiển hiện yên bình. Còn khi chánh niệm bị mất đi, ngoại cảnh tác động vào tâm sẽ dễ dàng làm cho những đợt “sóng vọng niệm” nối tiếp nhau mà nổi lên không cùng tận.

Hiểu được như vậy, người ngồi thiền sẽ không còn ác cảm với vọng tâm, mà sẽ có thái độ ôn hòa hơn, cảm thông hơn. Ngay từ thái độ đó, ánh sáng chánh niệm mới có thể bắt đầu tỏa chiếu để mang lại sự sáng suốt cần thiết giúp chúng ta nhận ra vấn đề.

Hình ảnh sóng và nước còn cho thấy tính chất đồng thể giữa chân tâm với vọng tâm. Khi chúng ta hình dung chánh niệm như ngọn đèn soi sáng vào những chuyển biến, thay đổi của dòng sông tư tưởng, chúng ta thường nhầm lẫn một điều là, nhận thức về tâm nhận biết với tâm vọng động như hai tính chất khác biệt, thậm chí trái ngược nhau. Tuy vậy, thật ra thì chúng chỉ là một, đồng nhất với nhau về bản chất. Vì thế, chánh niệm không phá tan hoặc diệt trừ vọng tưởng như nhiều người vẫn thường nói, mà là chuyển hóa chúng, đưa chúng trở về với bản chất yên tĩnh, sáng suốt vốn đã sẵn có.

Vào buổi sáng khi mặt trời lên, chúng ta nhìn thấy cây lá trong vườn tỏa sáng một màu xanh tươi mát. Màu lá xanh ta nhìn thấy đó có được là nhờ nơi ánh nắng mặt trời. Tuy về mặt hiện tượng chúng ta nhìn thấy ánh nắng và màu xanh của lá là hoàn toàn khác nhau, nhưng về mặt bản chất chúng chỉ là một. Ánh nắng đã đi vào lá cây, có tác dụng chuyển hóa để tạo ra màu xanh của lá, nên lá xanh với nắng thật ra chỉ là một. Không có ánh nắng thì không có màu lá xanh. Cũng vậy, tâm an tĩnh sáng suốt có được nhờ vào chánh niệm, cũng là quá trình chuyển hóa do “ánh nắng chánh niệm” tác động lên “lá cây vọng tưởng” mà sinh ra. Vì thế, về bản chất của chúng là tuy hai mà một.

Nhưng chúng ta cũng đừng vội vã đồng nhất cả hai thành một, bởi vì chúng tuy là một mà vẫn là khác nhau. Nếu có thể đồng nhất chúng hoàn toàn với nhau thì việc ngồi thiền chẳng còn lý do gì để tồn tại. Nắng là nắng mà lá xanh là lá xanh. Chánh niệm là chánh niệm mà vọng tưởng vẫn là vọng tưởng. Ánh sáng chánh niệm cần phải được thắp lên, không chỉ để soi sáng vào dòng sông vọng tưởng, mà cũng là để soi sáng cho chính nó. Vì thế mà chúng ta có thể “biết là đang biết”, có thể “ý thức được trạng thái đang ý thức”. Nói cách khác, “cái biết” và “đối tượng của cái biết”, hay nói theo Duy thức học là tâm năng quán và tâm sở quán, là không thể tách rời nhau, vì cái biết cũng là đối tượng của chính nó.

Vì thế, một khi chúng ta nhận ra được chánh niệm vừa bị mất, thì lập tức chánh niệm sẽ trở về với chúng ta cũng ngay trong lúc đó. Nói một cách khác, tâm chánh niệm không chỉ giúp ta nhận biết vọng tưởng, mà nó còn giúp vào việc duy trì chính nó.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/12/2012(Xem: 14997)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầuthiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinhđiển thiền ngữ” (六十六條經典禪語),có nghĩa là “66 câu thiền ngữ trong Kinhđiển [Phật giáo]”, được phổ biếntrên internet vào khoảng năm 2004. Bản dịch tiếng Việt được phổ biến năm 2010,có tựa đề là “66 cầu làm chấn động thiền ngữ thế giới” hoặc “66 câu Phật họclàm chấn động thiền ngữ” đều không chuẩn với nguyên tác Hoa ngữ, đồng thời, đãthêm cụm từ “chấn động thế giới” và tỉnh lược từ “kinh điển”.
17/11/2012(Xem: 4128)
Thân người có ba chứng bệnh là bệnh thuộc về phong, bệnh thuộc về hàn và bệnh thuộc về nhiệt, nhưng ba chứng bệnh này gây họa không lớn, chỉ khổ trong một đời. Tâm cũng có ba nhóm bệnh, nhưng ba bệnh này gây họa thật nghiêm trọng, khiến con người phải chịu khổ đau vô lượng kiếp. Chỉ có Đức Phật, một đại lương y mới có thể ban thuốc chữa trị. Người tu hành trong vô lượng thế giới mãi bị các căn bệnh hiểm nghèo này, hôm nay mới có cơ hội tu dưỡng đức hạnh. Thế nên phải có ý chí kiên định, siêng năng tu tập, không tiếc thân mạng. Như một chiến tướng xông trận, nếu lòng không kiên định thì không thể phá giặc, phá giặc loạn tưởng
03/10/2012(Xem: 6265)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
30/09/2012(Xem: 9245)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiền là Thiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên Thai và Tam Luận chớ không nhất thiết chỉcó Đạt Ma tông. Nhưng từ đời Đường về sau, Đạt Ma tông trở nên hưng thịnh vì thế từ ngữ Thiền tông liền chuyển sang để chỉ cho Đạt Ma tông.
01/08/2012(Xem: 16042)
Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật. Lời Phật chỉ là phương tiện dẫn lối, đưa người vào ngôi nhà Chánh giác, giống như ngón tay chỉ trăng. Tâm Phật mới là cứu cánh của Chân lý bất nhị. Cho nên Phật dạy Tâm là tông chỉ, cửa Không là cửa Pháp. Đã là cửa Không, thì tại sao bày chi Mười cổng? Há chẳng nghe người xưa bảo, “Từ cửa mà vào thì không phải là của báu trong nhà. Nhờ duyên mà thành tựu tất phải có vay mượn bên ngoài.” Nói như vậy thật chẳng khác gì đất bằng dậy sóng, thịt da đang lành lặn lại đem ra cắt mổ đớn đau. Đã là tự tánh thì ai cũng vốn sẵn có đầy đủ, xưa chẳng bớt, nay chẳng thêm. Nhưng vì vô minh phủ lấp, hể còn sống trong đối đãi thì phải dùng pháp đối trị để ngăn ngừa vọng tâm điên đảo: Sáng đối với tối, Tịnh đối với nhiễm, Giới Định Huệ đối với Tham sân si v.v…
30/07/2012(Xem: 14415)
Nói về Giáo, trong Kinh Trung A Hàm (Bahuvedaniya-Majjhima Nikaya) số 57, đức Phật đã chỉ dẫn Mười loại Hạnh phúc Tối thượng, sắp xếp thứ tự do kết quả tu chứng, trong đó có: Đoạn thứ 6. “ Này Anandà. Nơi đây vượt hẳn lên khỏi mọi tri giác và hình thể (Sắc), không còn phản ứng của giác quan, hoàn toàn không chú tâm đến mọi sự khác nhau của tri giác ….” Đoạn thứ 10. “Nơi đây vượt hẳn lên khỏi cảnh giới Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng (Chẳng Phải Tưởng, Chẳng Phải Chẳng Có Tưởng), đạt đến sự chấm dứt mọi Tri giác và Cảm giác (Sãnnavedayita Niroda).”
28/07/2012(Xem: 8801)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữvà Đạt tâm. Do đó, chư Phật, chư Tổ ứng cơ thị hiện, tiếp dẫn độ sanh, nhằm mục đích tạo cho con người có một cuộc sống an bình tự tại. Phương tiện thì nhiều, nhưng cứu cánh chỉ có một. Nếu chúng ta biết tự chủ, nỗ lực tinh tiến dũng mãnh không chi chẳng thành tựu. Tinh tiến ít thì đạt kết quả ít, tinh tiến nhiều thì đạt kết quả nhiều. Tinh tiến rốt ráo thì kết quả viên mãn.
26/07/2012(Xem: 12489)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
25/07/2012(Xem: 15284)
Thiền (Zen) nghĩa là nhận biết Tự tánh (True Sefl). “ Ta là gì ?” (What am I?) Đó là câu hỏi rất quan trọng. Nhất thể trong sạch sáng suốt là gì? Nếu thấu hiểu, quý vị sẽ được tự do tự tại trong sanh tử. Làm thế nào đạt được tự do tự tại trong sanh tử? Trước hết, điều cần thiết là hướng đi phải rõ ràng.
09/07/2012(Xem: 3413)
Thiền và cảm xúc có một mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình tu tập, chuyển hoá tâm cho đến khi đạt được mục đích giác ngộ và giải thoát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]