Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

6. Trưởng lão ni Sanghamitta: Vị Ni trưởng đầu tiên tại Sri Lanka

07/02/201114:09(Xem: 8968)
6. Trưởng lão ni Sanghamitta: Vị Ni trưởng đầu tiên tại Sri Lanka

LÝ THUYẾTVÀ THỰC TẾ
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo TL. 2008 - PL. 2551
-6-

Trưởnglão ni Sanghamitta:
VịNi trưởng đầu tiên tại Sri Lanka

LornaDewaraja

Hằngnăm, vào ngày Rằm tháng Mười Một âm lịch, Phật tử khắpnơi trong đảo quốc Sri Lanka hành lễ tưởng niệm Trưởnglão ni Sanghamitta, là vị nữ tu sĩ cùng với anh trai của bàlà ngài Trưởng lão Mahinda đã mang Phật giáo truyền vào đảoquốc hơn 2300 năm trước, trong triều đại vua Davanampiya Tissa.Một điều quan trọng đáng ghi nhận là khi Ngài Mahinda hoằngpháp tại vùng Anuradhapura, đa số cư sĩ lắng tâm chuyên chúthính pháp là phụ nữ, trong hàng hoàng gia lẫn hàng thườngdân. Sự kiện đó vẫn tiếp tục cho đến ngày nay, số nữcư sĩ tham gia vào các cuộc lễ Phật giáo bao giờ cũng đônghơn số nam cư sĩ.

Saukhi nghe Ngài Trưởng lão Mahinda thuyết giảng, Hoàng hậu Anuladevi,vợ của Phó vương Mahanaga, phát tâm tín thành nơi lời dạycủa Đức Phật, và ngỏ ý muốn xuất gia để trở thànhmột vị Tỳ khưu ni. Khi được biết ý định nầy, Ngài Mahindanói với vua rằng theo đúng giới luật tu sĩ, Ngài không thểtruyền giới cho phụ nữ. Ngài đề nghị nhà vua gửi vănthư đến vua Asoka (A-dục) của xứ Maurya, Ấn Độ, yêu cầuvua Asoka gửi con gái của vua là Trưởng lão ni Sanghamitta sangđảo quốc, và đem theo một nhánh của cây bồ đề tại Bồđề Đạo tràng, nơi Đức Phật đã thành đạo.

Lúcbấy giờ, bang giao giữa hai triều đình rất tốt đẹp, nênvua Devanampiya Tissa không ngần ngại gửi một vị quan là ngàiArittha đến thành phố Pataliputra (bây giờ là Patna) của xứẤn Độ, để gặp vua Asoka, chuyển đạt lời thỉnh cầuấy.

Lúcđầu, vua Asoka ngần ngại, không muốn gửi con gái mình rađi truyền giáo ở nước ngoài, nhưng vì Trưởng lão ni Sanghamittacương quyết yêu cầu nhà vua cho phép bà xuất dương đi hoằngđạo, nên sau cùng, vua Asoka đồng ý cho phép. Một đoàn mườimột vị Tỳ khưu ni cùng lên thuyền đi với bà Sanghamitta,vượt biển sang đảo quốc, mang theo nhánh cây bồ đề, vớisự hướng dẫn của quan Arittha. Đây là một việc làm dũngcảm của bà Sanghamitta, vì vào thời đó, khi người ta vẫncòn có thành kiến xem thường phụ nữ, bà Sanghamitta đã cóđủ nghị lực và can đảm để thực hiện cuộc hành trìnhvượt biển đầy nguy hiểm, mà không có người trong hoàngtộc cùng đi để bảo vệ bà.

Tạicảng Jambukolapattana (nay là cảng Pedro, bán đảo Jaffna), vuacủa đảo quốc cùng với Trưởng lão Mahinda và rất đôngcác tín đồ Phật tử đã ra nghênh đón Trưởng lão ni cùngvới Ni chúng từ Ấn Độ sang, mang theo nhánh cây bồ đề.Nhà vua đã tổ chức buổi lễ tiếp rước rất long trọng,và rất đông dân chúng đã tham gia cùng với phái đoàn truyềngiáo đưa nhánh cây nầy về kinh đô Anuradhapura, cuộc hànhtrình kéo dài 14 ngày bằng đường bộ. Nhánh cây nầy đượctrồng trong vườn Mahamegha tại một nơi tôn nghiêm. Từ ngàyấy cho đến nay, trong suốt 23 thế kỷ qua, vua chúa và dânchúng đảo quốc Sri Lanka tiếp tục gìn giữ, bảo vệ vàtôn quý cây bồ đề này, như là một bảo vật quốc gia.Cổ thụ bồ đề ngày nay được xem như là một trong nhữngcổ thụ lâu năm nhất trên thế giới.

Trưởnglão ni Sanghamitta đã thực hiện một công tác quan trọng nhấttại đảo quốc là truyền giới và hướng dẫn tu tập choHoàng hậu Anuladevi và các thị nữ sau khi các vị nầy xuấtgia với Bà. Từ đó, Ni đoàn Sri Lanka được thành lập vàkéo dài khoảng 1000 năm. Theo các nguồn sử liệu Trung quốc,vào năm 429 CN, Ni đoàn nầy đã gửi 9 vị Tỳ khưu ni do Nisư Deva Sara lãnh đạo, vượt đại dương, đi thuyền đếnTrung quốc để truyền giới cho 300 vị tu nữ tại Nam kinh,thành lập Ni đoàn tại xứ sở đó; và từ Trung quốc, đãphát triển đến các quốc gia khác trong vùng Đông Á cho đếnngày nay.

Trưởnglão ni Sanghamitta lưu lại tại đảo quốc, tiếp tục côngtrình hoằng pháp, truyền bá đạo Phật, và viên tịch tạiđó, vào tuổi 59. Bà là tấm gương dũng cảm cho các vị nữtu sĩ, đã không ngần ngại lên đường mạo hiểm nơi xa xôiđể hoằng dương Chánh Pháp. Bà cũng là một vị nữ đạisứ đầu tiên trong lịch sử ngoại giao cận đại, đã đượcmột vị quốc trưởng gửi đi theo lời mời của một vịquốc trưởng khác. Cho đến ngày nay, phụ nữ Sri Lanka nóiriêng, và Phật giáo Sri Lanka nói chung, đều thành tâm ghi ânvà tán thán công đức của Bà.

BìnhAnson trích dịch
TâyÚc, tháng 3-2007

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/02/2011(Xem: 17537)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
07/02/2011(Xem: 18548)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bình và hạnh phúc.
02/02/2011(Xem: 17638)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
30/01/2011(Xem: 14484)
Rõ ràng hơi thở là một sợi dây nhạy cảm buộc vào thân vào tâm, là cái cầu nối giữa thân và tâm. Nói khác đi, ta có thể dùng quán sát hơi thở để kiểm soát cảm xúc và hành vi của ta.
21/01/2011(Xem: 4085)
Muốn hành thiền, trước tiên bạn phải tìm một nơi thích hợp để giúp cho việc hành thiền của bạn được tốt đẹp. Nơi thích hợp là nơi yên tịnh. Bạn có thể tìm được nơi yên tịnh trong thiên nhiên. Tuy nhiên, nếu bạn hành thiền trong nhà, bạn phải tìm một nơi thích hợp cho việc định tâm của bạn, và mỗi khi hành thiền bạn nên đến đó.
21/01/2011(Xem: 14360)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
20/01/2011(Xem: 8258)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
19/01/2011(Xem: 14879)
Lời cầu nguyện cho Bồ đề tâm sanh ra và tăng trưởng : “Cầuchonguyện vọng quý giá đạt đến Giác Ngộ nảy sanh khắpnơi chỗ nào nó chưa có, và phát triển không bao giờ lui sụtở nơi nào nó đã có.” Bao giờ hư không vẫn còn tồn tại, Bao giờ vẫn còn dẫu một chúng sanh, Nguyện rằng tôi còn ở lại đời đời Để chấm dứt khổ đau cho thế giới. (Bài kệ kết thúc Diễn văn Nobel Hòa Bình)
18/01/2011(Xem: 18235)
Sở dĩ được gọi là Mật giáo vì đa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
17/01/2011(Xem: 6518)
Biên tập từ các bài pháp thoại của ngài Thiền sư Ajahn Brahmavamso trong khóa thiền tích cực 9 ngày, vào tháng 12-1997, tại North Perth, Tây Úc. Nguyên tác Anh ngữ được ấn tống lần đầu tiên năm 1998, đến năm 2003 đã được tái bản 7 lần, tổng cộng 60 ngàn quyển. Ngoài ra, tập sách này cũng đã được dịch sang tiếng Sinhala và ấn tống ở Sri Lanka.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567