Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17. Quán niệm hơi thở

02/02/201111:04(Xem: 10946)
17. Quán niệm hơi thở

GIỚI THIỆUĐẠO PHẬT
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo, TL. 2005 - PL. 2549

Quánniệm hơi thở

Thiềnsư U Acinna

Cácbạncó thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapanasati)bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ratại lỗ mũi hay ở môi trên. Có người hỏi là ta nên địnhtâm vào hơi thở hay sự chạm xúc của hơi thở? Câu trảlời là chỉ nên định tâm vào hơi thở. Hơi thở chạmxúc vào lỗ mũi hay môi trên là nơi dễ theo dõi nhất. Sựchạm xúc là một đề tài thiền quán khác biệt, thuộc vềpháp môn quán danh (quán danh-sắc). Đó là pháp quán Xúc giớivà các tâm sở có liên quan. Ở đây, chúng ta chỉ quán niệmvào hơi thở, hơi thở có chạm xúc, mà không quán vào sựchạm xúc. Quán niệm hơi thở nầy cần có một chánh niệmvững mạnh và tuệ giác tri.

Bâygiờ ta đem tâm vào hơi thở, hơi thở vào và hơi thở ra.Nếu thiền sinh không thể chú tâm vào hơi thở sau một vàibuổi thiền, thì có thể tập đếm hơi thở. Việc nầyđể giúp họ phát triển định lực. Thiền sinh đếm sốsau mỗi hơi thở, như sau:"thở vào ... thở ra ... một","thở vào ... thở ra ... hai", "thở vào ... thở ra ... ba", ...cho đến "thở vào ... thở ra ... tám". Có thể đếm từnăm đến mười, rồi trở lại số một. Tuy nhiên, thiềnsinh nên đếm đến số tám rồi trở lại từ đầu. Số támlà để nhắc nhở chúng ta về Con Đường Tám Chánh (Bát ChánhĐạo) mà chúng ta đang cố gắng hành trì để giác ngộ. Cácbạn cần phải cương quyết không để phóng tâm, tâm langthang chỗ nầy chỗ kia, trong khi đếm hơi thở. Chỉ chú tâmtheo dõi hơi thở và đếm số, từ 1 đến 8 rồi trở lại1 ... Qua việc chỉ chú tâm vào đếm hơi thở như thế, tâmsẽ trở nên an định hơn. Thông thường thì cần phải thựchành như thế trong một giờ để tâm được an định và vữngchắc.

Khitâm an định, bạn có thể bỏ lối đếm hơi thở và chuyểnsang giai đoạn kế. Nếu bạn thở vào một hơi dài,bạn biết đó là một hơi dài. Nếu bạn thở ra một hơidài, bạn biết đó là một hơi dài. Tương tự, nếu bạnthở vào một hơi ngắn, bạn biết đó là một hơi ngắn.Nếu bạn thở ra một hơi ngắn, bạn biết đó là một hơingắn. Ở đây, dài hay ngắn là gì ? Đó là khoảng thời gian.Nếu cần một thời gian dài để thở thì đó là hơi thởdài. Nếu cần một thời gian ngắn để thở thì đó là hơithở ngắn. Tuy nhiên, phải thở bình thường mà không cốgắng ép hơi thở. Không nên đặt tên nó là "dài" hay "ngắn".Nếu cần phải đặt tên thầm trong tâm, thì đặt tên nólà "thở vào, thở ra" mà thôi. Chỉ cần biết nó là hơi dàihay ngắn, nhưng lúc nào cũng phải chú tâm vào luồng hơi đangchạm xúc vào lỗ mũi hay môi trên. Không nên đem tâm đi theoluồng hơi vào trong thân thể hay chạy ra ngoài thân thể. Nếuthiền sinh để tâm theo dõi luồng vào trong thân hay ra ngoàithân thì sẽ không thể làm hoàn hảo sự định tâm. Cầnphải chú tâm ghi nhận hơi thở đang chạm xúc lỗ mũi haymôi trên trong một, hai, hoặc ba giờ.

Đếnđây, định tướng(nimitta)sẽ phát sinh. Nếuđịnh tướng không phát sinh thì bạn có thể chuyển sang hànhtrì như sau: thiền sinh để tâm ghi nhận toàn luồng hơiliên tục từ đầu đến cuối. Bạn không nên đặt tênlà: "chặng đầu, chặng giữa, chặng cuối". Nếu cần phảiđặt tên thầm trong tâm, thì đặt tên nó là "thở vào, thởra" mà thôi. Trong lúc đó, nhận biết toàn luồng hơi từ đầuđến cuối, đang chạm xúc tại một nơi cố định (lỗ mũihay môi trên), và tuyệt đối không theo dõi nó vào bên trongthân thể hay ra bên ngoài. Nếu thiền sinh hành trì như thếtrong một hay hai giờ thì định tướng có thể sẽ phát sinh.

Bâygiờ, cho dù định tướng có hiện ra hay không, thiền sinhtiếp tục sang giai đoạn kế. Trong giai đoạn nầy, bạn tạomột ước nguyện trong tâm: "Nguyện cho hơi thở của tôiđược nhu nhuyễn". Từ từ, hơi thở sẽ tự nó trở nêndịu dàng, nhẹ nhàng, nhu nhuyễn. Bạn không nên cố tình éphơi thở để nó nhẹ nhàng. Bởi vì nếu làm như thế thìchẳng bao lâu, bạn sẽ bị hụt hơi và tạo mệt nhọc. Khihơi thở tự nó trở nên nhẹ nhàng và tâm an định theo nó,qua thiền lực, hầu hết các thiền sinh sẽ cảm thấy lânglâng, như thể là họ không có đầu, không có mũi, không cóthân nữa, mà cảm thấy chỉ có hơi thở vào ra nhẹ nhàngvà một cái tâm đang theo dõi nó. Lúc nầy, bạn cảm thấylà không có "tôi", mà cũng không có "nó". Bây giờ, chỉ còncó một tâm đang gắn chặt vào hơi thở. Nếu tâm đượcan định và chăm chú vào đó trong một giờ, thì trong thờigian nầy, tâm không còn liên hệ đến các chuyện thế tụcnữa. Tâm đang ở trong trạng thái thiện(kusala),và trạng thái thiện nầy rất gần đến trạng thái cậnđịnh(upacara samadhi).

Đếnđây, tùy theo giới hạnh của từng cá nhân, định tướngsẽ hiện ra. Mỗi cá nhân khác nhau sẽ có những định tướngkhác nhau. Dù đang nhắm mắt, theo dõi hơi thở, dần dần thiềnsinh sẽ thấy định tướng hiện ra, có khi như là một lànchỉ trắng, một luồng ánh sáng trắng, một ngôi sao, mộtcụm mây hoặc một nhúm bông gòn. Nó có thể rất to, trùmcả khuôn mặt, hoặc như mặt trăng, mặt trời, hoặc mộtviên ngọc thạch, một viên ngọc trai. Nó hiện ra trong cáchình sắc khác nhau là vì nó do tưởng uẩn(saññā)tạo ra.

Lúcban đầu, định tướng có thể giống như có màu khói xám.Dần dần, nếu giữ tâm được an định vào hơi thở, hơithở và màu khói xám trở thành đồng nhất với nhau, khôngkhác biệt. Sau đó, nếu tâm được an nhẹ và chỉ chú mụcvào hơi thở, màu sắc đó trở thành trắng đục. Mặc dùlà màu trắng, nhưng nếu bạn chỉ chú mục vào hơi thở,hơi thở sẽ trở thành định tướng và định tướng chínhlà hơi thở. Nếu hơi thở và định tướng là một, khôngkhác biệt, khi bạn chú mục vào hơi thở thì bạn cũng chúmục vào định tướng, và khi bạn chú mục vào định tướngthì bạn cũng chú mục vào hơi thở. Và như thế, bạn hànhthiền tốt và nghiêm túc.

Nếuđịnh tướng trở nên vững bền và nếu bạn chỉ chú tâmvào định tướng của hơi thở (anapana nimitta), mà khôngchú tâm vào hơi thở nữa, tâm bạn trở nên tập trung vàođịnh tướng lúc đó. Trong giai đoạn nầy, điều quan trọnglà thiền sinh không nên tìm cách chuyển hóa định tướng.Bạn không nên tìm cách đẩy nó đi xa, hoặc làm cho nó thayđổi hình dạng. Nếu làm như thế, định lực của bạn sẽkhông phát triển, và định tướng có thể sẽ biến mất.

Tuynhiên, nếu định tướng hiện ra quá xa đối với lỗ mũithì thiền sinh chưa có đủ lực để chuyển sang mức thiềnđịnh hơi thở (anapana jhana samadhi). Tại sao? Bởi vìđây là một nguyên tắc quan trọng trong việc quán niệm hơithở. Bản luận giải có đề cập rằng việc luyện tâm thiềnđịnh niệm hơi thở (anapanasati samadhi bhavana) chỉ hoàntất khi nào tâm quán niệm được giữ tại nơi mà hơi thởchạm xúc với cơ thể. Khi thiền sinh chú định vào bên ngoài,xa lìa nơi chạm xúc, thì rất khó mà đạt vào tầng thiềnđịnh. Do đó, khi định tướng còn ở xa, thì thiền sinh khôngnên chú tâm vào nó, mà phải chú tâm vào hơi thở tại mộtnơi cố định. Từ từ, định tướng sẽ đến gần và hòanhập vào hơi thở.

Khiđịnh tướng có màu khói xám thì đó là sơ tướng (parikammanimitta) trong trạng thái sơ định (parikamma samadhi).Nếu nó trở thành màu trắng như một nhúm bông gòn, đó làhọc tướng (uggaha nimitta). Đây là một trạng thái địnhkhá cao. Nếu màu trắng nầy được vững bền, thiền sinhphải an định tâm và chú mục vào đó. Trong giai đoạn nầy,bạn không nên chú ý đến màu sắc của nó, mà chỉ chú tâmvào đó như là một loại định tướng mà thôi.

Thídụ như một ly nước và có một hạt ngọc trai trong đó.Ta chỉ nhìn hạt trai, như thể đem tâm vào định tướng.Không nên điều tra, trạch vấn về Khổ, Vô thường, Vô ngã.Không cần biết nó nóng hay lạnh, cứng hay mềm, mà cũng khôngcần phân tích màu sắc của nó. Chỉ cần giữ tâm an địnhvà chú mục vào định tướng. Làm như thế, dần dần địnhtướng sẽ chuyển từ màu trắng đục sang một màu chói sáng.Đây là tợ tướng (patibhaga nimitta). Nếu tâm vẫn giữan định và chỉ chú mục vào định tướng khoảng 1 đến2 giờ, hầu hết các thiền sinh đều có thể nhận rõ 5 thiềnchi (jhananga) rất dễ dàng nếu họ phân tích chúng lúcđó. Năm thiền chi đó là:

-Tầm (vitakka): đem tâm hướng về định tướng,
-Tứ (vicara): bám sát vào định tướng,
-Hỷ (pity): ưa thích định tướng,
-Lạc (sukha): cảm giác an lạc, sung sướng khi tiếp xúcvới định tướng,
-Nhất tâm (ekaggata): tập trung tâm về một điểm (đólà định tướng)
Cũngcần biết thêm ở đây là có khi thiền sinh không thể nhậnrõ được năm thiền chi trên, là vì lúc đó, thiền sinh vẫncòn bị các triền cái (nivarana)ngăn che. Đó là: Thamdục (kamachanda); Sân hận (vyapada); Hôn trầm (thiramiddha);Trạocử (udhaccakukucca); và Hoài nghi (vicikiccha).

Thiềnsinhphải duyệt xét từng triền cái một, để xem chúng cònvương vấn trong tâm trong lúc hành thiền hay không. Chúng cầnphải được loại bỏ thì việc đắc thiền mới thành tựu.

Khinăm thiền chi đều cùng hiện diện đầy đủ, thiền sinhsẽ thấy ngay là mình đang vào tầng thiền thứ nhất, vớitợ tướng là đề mục trong tâm, có tầm, tứ, hỷ, lạc,nhất tâm. Tiếp tục hành trì trong Nhất Thiền như thế khoảng1 đến 2 giờ, rồi xuất thiền và duyệt lại năm thiền chicho tường tận.

Trongcác buổi thiền kế tiếp, thiền sinh tiếp tục ôn tập, vàhành trì thuần thục trong tầng thiền thứ nhất. Có năm loạithuần thục:

-Thuần thục tác ý: phải thuần thục tác ý các thiền chikhi xuất thiền;
-Thuần thục nhập định: phải thuần thục nhập thiền bấtcứ lúc nào mà mình muốn;
-Thuần thục quyết tâm: phải thuần thục giữ mức thiềntrong suốt thời gian mà mình đã định trước;
-Thuần thục xuất định: phải thuần thục xuất ra khỏi tầngthiền mỗi khi mình muốn;
-Thuần thục quán sát: phải thuần thục quán sát các thiềnchi.
Thiềnsinh nên nhận thức rằng tầng thiền thứ nhất rất gầnvới năm triền cái - tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo cữ,và nghi ngờ. Thiền sinh cũng nên nhận thức rằng các thiềnchi Tầm và Tứ trong tầng thiền thứ nhất làm cho tầng thiềnnầy không an định bằng tầng thiền thứ nhì. Vì thế, từước muốn rời bỏ hai thiền chi nầy và chỉ còn giữ thiềnchi Hỷ, Lạc, Nhất Tâm, thiền sinh tiếp tục đem tâm vàotợ tướng. Làm như thế, thiền sinh sẽ có thể đạt vàotầng thiền thứ nhì, vốn chỉ còn ba thiền chi: Hỷ, Lạc,và Nhất Tâm. Sau khi vào được Nhị Thiền, thiền sinh hànhtrì năm loại thuần thục tương tự như trên.

Sauđó,thiền sinh nhận thức rằng Hỷ cũng không đem lại anđịnh, nên có ước muốn bỏ Hỷ, chỉ còn giữ lại Lạcvà Nhất Tâm, thiền sinh tiếp tục đem tâm vào tợ tướng.Làm như thế, thiền sinh sẽ có thể đạt vào tầng thiềnthứ ba, vốn chỉ còn hai thiền chi: Lạc, và Nhất Tâm. Saukhi vào được Tam Thiền, thiền sinh hành trì năm loại thuầnthục tương tự như trên.

Kếtiếp, thiện sinh nhận thức rằng nếu cứ duy trì Lạc thìlại là một hình thức tham thủ vào cảm giác vui sướng.Cho nên, với ý định bỏ Lạc, thiền sinh tiếp tục đem tâmvào tợ tướng. Làm như thế, thiền sinh sẽ có thể đạtvào tầng thiền thứ tư. Lúc đó, hai thiền chi mới sẽ sinhra: Xả và Niệm, thay thế Nhất Tâm. Lúc bấy giờ, thiềnsinh ở trong trạng thái "xả niệm thanh tịnh", không còn câuchấp vào các cảm giác, và hơi thở trở nên nhẹ nhàng, hầunhư tan biến. Tợ tướng trở nên rõ ràng, tròn sáng, quenthuộc, gần gũi, không xa lạ, và thiền sinh chú mục vào đómột cách nhẹ nhàng, bình thản. Sau khi vào được Tứ Thiền,thiền sinh hành trì năm loại thuần thục tương tự như trên.

Thiềnsinh nên tham khảo bộ Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhi Magga)của Ngài Phật Âm(Buddhaghosa), nhất là phần Niệm HơiThở. Sau cùng, thiền sinh cũng cần nên biết rằng công phuhành thiền để đắc bốn tầng thiền như trên chỉ là mộtgiai đoạn sơ khởi, tạo định lực bền vững, dùng đó đểlàm cơ sở phát triển tuệ minh sát và tiến đến giải thoát.Trong tiến trình tu học, thiền sinh không nên dừng ở đó,mà cần phải tiếp tục nỗ lực hành trì các giai đoạn kếtiếp, như quán từ bi, quán niệm ân đức Phật, quán tứđại, quán các sắc pháp, quán thân thể (32 bộ phận), quáncác danh pháp, quán lý duyên sinh và các giai đoạn thanh lọctâm.

BìnhAnson trích dịch,
tháng12-1997
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/10/2010(Xem: 13921)
Thật là một ích lợi lớn khi có thể đối diện với cuộc sống bằng một tâm thức tích cực và khá quân bình. Chúng ta hoàn toàn có lợi khi quen với một tâm thái đúng đắn, nhưng thói quen nhường bước cho những xúc động xung đột như giận dữ dựng lên những chướng ngại có tầm cỡ. Tuy nhiên, có thể vượt khỏi chúng. Chúng ta đạt đến đó bằng cách chánh niệm nhận ra mỗi một phiền não này ngay khi chúng biểu lộ và chữa lành nó tức thì. Khi người ta nắm lấy mọi cơ hội để thực tập như vậy, những phiền não thôi ngự trị chúng ta trong vòng vài năm. Về lâu về dài, ngay người dễ nổi giận nhất cũng đạt được sự gìn giữ tính bình thản.
11/10/2010(Xem: 4985)
Tinh Yếu Lâm Tế Lục bình giảng
11/10/2010(Xem: 9205)
Ngày nay người ta đi hàng trăm ngàn dặm để được trông thấy các thiền sư, trực tiếp gặp họ để tham vấn. Nhưng rất ít người có dịp để đặt câu hỏi: tôi phải làm sao với những nỗi giận dữ, ghen tuông, thù ghét, sợ hãi, buồn sầu, tham vọng, si mê trong tôi - tất cả những rắc rối thường xâm chiếm tâm tư con người? Tôi phải cư xử với công việc, cha mẹ, con cái, vợ hoặc chồng, tôi tớ, xếp của tôi như thế nào, tất cả những tương giao làm nên đời sống ấy? Thiền có cách nào giúp tôi không?
08/10/2010(Xem: 14928)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
30/09/2010(Xem: 4690)
Để giúp cho đọc giả có thể nắm được sự khác biệt giữa thiền định (chỉ quán) và thiền Vipassana (tuệ quán), PTVN đã gặp sư Phước Nhân, một hành giả giỏi pháp hành của thiền viện Phước Sơn để xin sư nói rõ về thiền định, thiền Vipassana, sự khác biệt giữa hai phương pháp tập cũng như khái quát phương thức tu tập và kết quả mà mỗi phương thức tu tập đem lại.
29/09/2010(Xem: 7409)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp môn có mục đích và phương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
28/09/2010(Xem: 5559)
Theo Thiền sư Tôn Mật, đời Đường, thì có thể phân chia Thiền làm 5 loại, trong đó có 3 loại thực sự theo đúng đường lối tu hành của đạo Phật là : Thiền Nguyên thủy (Tiểu thừa ), Thiền Đại thừa, và Thiền Như Lai tối thượng. Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí" (trích: Đại thừa Phật giáo Tư tưởng luận).
28/09/2010(Xem: 7302)
Như Lai Thiền trong kinh tạng Pàli, hay "Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng", là một công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến Như Lai Thiền mà không đề cập đến Tổ Sư Thiền. Ở đây chúng tôi hạn chế trong Kinh Tạng Pàli mà không đề cập đến A-tỳ-đàm - Tạng Pàli, với chủ đích muốn giới thiệu cho các Phật tử hiểu rõ Thiền nguyên thủy là gì, trước hết là ngang qua kinh nghiệm bản thân của đức Phật khi ngài chưa thành Đạo, khi Ngài thành Đạo, trong suốt 45 năm thuyết pháp và cuối cùng khi Ngài nhập Niết-bàn.
23/09/2010(Xem: 15534)
Thực hành Phật giáo là tiến hành một cuộc chiến đấu giữa những thế lực tiêu cực và tích cực trong tâm bạn. Thiền giả nỗ lực làm tiêu mòn điều tiêu cực và phát triển, tăng trưởng điều tích cực. Những giáo lý trong quyển sách này là để chuyển hóa tâm thức; chỉ đọc hay nghe mỗi một đoạn thôi cũng có thể đem lại lợi lạc to lớn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]