Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thực hư về câu chuyện niêm hoa vi tiếu của Thiền tông

17/02/201211:31(Xem: 5243)
Thực hư về câu chuyện niêm hoa vi tiếu của Thiền tông

THỰCHƯ VỀ CÂU CHUYỆN NIÊM HOA VI TIẾU CỦA THIỀN TÔNG

GS001

niemhoavitieu2Tôi đọc trong các kinh lớn của Đại Thừa lẫn Nguyên Thủy tôi không hề tìm rađược ở đâu có ghi câu chuyện NIÊM HOA VI TIẾU. Câu chuyện này mang nặng tinhthần "phong kiến" và "dấu nghề" của Trung Hoa.

ĐẠO TRÍ TUỆcủa Phật không thể có cái tinh thần truyền thừa như thế. Đã là ĐẠO TRÍ TUỆ thìphải như KHOA HỌC, khi lý thuyết đã trình bày ra đầy đủ, thì bất cứ ai, ở bấtcứ phương trời góc bể nào, đều có thể theo đó mà trở thành bác học một cáchbình đẳng như nhau.

Đó chính làlý do Đức Phật đã nhấn mạnh: "Các con tự thắp đuốc lên mà đi với chánhpháp, không nương tựa vào một ai khác". Trong đoạn kinh sau đây Đức Phậtcòn khẳng định rằng: Này Ananda, Như Lai khôngnghĩ rằng: "Ta là vị cầm đầu chúng Tỷ-kheo; hay "chúng Tỷ-kheo chịusự giáo huấn của Ta". Như vậy thì làm sao có chuyện ngài traolại y bát cho ai làm giáo chủ.

25. Này Ananda, chúng Tỷ-kheo còn mong mỏi gì nữa ởTa! Này Ananda, Ta đã giảng Chánh pháp, không có phân biệt trong ngoài (mậtgiáo và không phải mật giáo), vì này Ananda, đối với các Pháp, Như Lai khôngbao giờ là vị Ðạo sư còn nắm tay (còn giữ lại một ít mật giáo chưa giảng dạy).

NàyAnanda, những ai nghĩ rằng: "Như Lai là vị cầm đầu chúng Tỷ-kheo";hay "chúng Tỷ-kheo chịu sự giáo huấn của Như Lai" thời này Ananda,người ấy sẽ có lời di giáo cho chúng Tỷ-kheo.

NàyAnanda, Như Lai không nghĩ rằng: "Ta là vị cầm đầu chúng Tỷ-kheo; hay"chúng Tỷ-kheo chịu sự giáo huấn của Ta" thời này Ananda, làm sao NhưLai lại có lời di giáo cho chúng Tỷ-kheo?

NàyAnanda, Ta nay đã già, đã thành bậc trưởng thượng, đã đến tuổi lâm chung, đãđến tám mươi tuổi. Này Ananda, như cỗ xe đã già mòn, sở dĩ còn chạy được là nhờdây thắng chằng chịt, cũng vậy thân Như Lai được duy trì sự sống giống nhưchính nhờ chống đỡ dây chằng.

NàyAnanda, chỉ trong khi Như Lai không tác ý đến tất cả tướng, với sự diệt trừ mộtsố cảm thọ, chứng và an trú vô tướng tâm định, chính khi ấy thân Như Lai đượcthoải mái.

26. Vậy nên, này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mìnhnương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn,dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác.

Này Ananda, thế nào là vị Tỷ-kheo hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tựmình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làmngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác?

NàyAnanda, ở đời, vị Tỷ-kheo, đối với thân quán thân, tinh tấn, tỉnh giác, chánhniệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời; đối với các cảm thọ... đối vớitâm... đối với các pháp, quán pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phụcmọi tham ái, ưu bi trên đời. (Phật nhắc lại pháp TỨ NIỆM XỨ)

NàyAnanda, như vậy vị Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nươngtựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùngChánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác.

NàyAnanda, những ai sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tựmình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làmngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một pháp gìkhác, những vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo củaTa, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi.

(Kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN, tụng phẩm II, thuộc Trường Bộ Kinh)


Cho nên đối với tôi, câu chuyện NIÊM HOA VI TIẾU của người TÀU là một câuchuyện lừa bịp để cho phật tử Á châu đều qui ngưỡng về TÀU. Câu chuyện muốnchứng tỏ rằng "Giáo Pháp nhãn tạng” của Phật đã được rinh hết về TÀU. Đócũng do cái tinh thần bá quyền muốn dùng tôn giáo như một "sức mạnhmềm" để chinh phục thiên hạ. Các đế quốc Tây phương cũng đã xử dụng Kitôgiáo để đi xâm lăng các thuộc địa cũng cùng một chiến thuật như vậy.


Nói tóm lại, đạo Phật là ĐẠO TRÍ TUỆ mở rộng ra cho tất cả chúng sanh (mà ĐứcPhật gọi là bàn tay ngữa) chứ không phải là một môn phái võ lâm mà có sự truyềnthừa. Biết đâu để chấm dứt tệ nạn này mà LỤC TỔ đã ra đời để chấm dứt sự truyềny bát của Thiền Tông? Để ý rằng LỤC TỔ không chứng đạo từ NGỦ TỔ mà ngài đãchứng đạo trước rồi (qua kinh Kim Cang), trước khi đến với NGỦ TỔ để nhận ybát, rồi sau đó chấm dứt sự trao truyền.


Ngoài ra qua đoạn kinh trên ta thấy Đức Phật còn giảng rõ ra thế nào là làmngọn đèn cho chính mình? Thế nào là nương tựa chính mình?


-- Đó chính là sự thực hành TỨ NIỆM XỨ để tìm hiểu chính mình bằng các phápkhảo sát: Quán THÂN, quán THỌ, quán TÂM, quán PHÁP.


Trong kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN của Phật giáo ĐẠI THỪA ta cũng thấy Đức Phật trảlời ngài A NAN về sự nương tựa pháp TỨ NIỆM XỨ mà tu hành sau khi Phật diệt độnhư thế. Đó là pháp THIỀN độc nhất mà Phật đã dạy đi dạy lại. Chứ Phật chưa hề dạy pháp VÔ NIỆM như Thiềntông Trung hoa hồi nào cả.


TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔNGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi, mớicó thể nhổ sạch gốc cội vô minh chấp ngã, gây nên khổ đau cho mình.

Không thể nàocó một bậc giác ngộ mà không hiểu rõ về chính mình.

Tiến trình tuhành của Đức Phật chẳng qua cũng là một công trình miệt mài liên tục về sự tìmhiểu chính mình. Ngày ngài thành đạongài đã tâm sự như sau:

153.Lang thang bao kiếp sống
Ta tìm nhưng chẳng gặp,
Người xây dựng nhà này,
Khổ thay, phải tái sanh.

154.Ôi! Người làm nhà kia
Nay ta đã thấy ngươi!
Người không làm nhà nữa.
Ðòn tay ngươi bị gẫy,
Kèo cột ngươi bị tan
Tâm ta đạt tịch diệt,
Tham ái thảy tiêu vong.

(KinhPháp Cú)

Cho nên, phải hiểu rõ chính mình trước khi nói đếngiác ngộ. Mà muốn hiểu rõ chính mình thì phải quan sát, phải khảo sát chínhmình bằng các pháp quán của TỨ NIỆM XỨ. Đó cũng chính là pháp "chiếukiến ngũ uẩn"của BÁT NHÃ.

Do đó khởi đầu kinh TỨ NIỆM XỨ Phật đã nhấn mạnh:


-- Này các Tỷ-kheo, đây là
con đường độc nhấtđưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thànhtựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ.

Như vậy con đường tu hành mà Phật đã chỉ ra thật rất rõ ràng và minh bạch.Không ai có thể trách Phật còn mơ hồ. Khi Đức Phật đã xác định là "
con đường độc nhất" thì có nghĩa rằng đừng đi lang bang bằng cáccon đường khác. Người ta có thể ra đitừ vạn nẻo đường khác nhau (tùy căn cơ),nhưng đoạn đường cuối để đi đến đích thì ai cũng phải đi qua TỨ NIỆM XỨ đểthành tựu CHÁNH TRÍ, để chứng ngộ BÁT NHÃ, để đạt đến NIẾT BÀN.

Tôi có bằng cớ nhiều vị Thiền sư Trung Hoa chưa chứng được BÁT NHÃ. Thật vậy,chính vì chưa chứng được BÁT NHÃ cho nên các ngài đã hiểu lầm ý nghĩa BÁT NHÃmà kết án tâm PHÂN BIỆT, rồi đưa ra pháp thiền
VÔ NIỆM, khác với CHÁNHNIỆMcủa PHẬT. Thử hỏi rằng một bậctu hành, khi đạt được sự giác ngộ, có biết mình đã giác ngộ không? Nếu biết, thì không thể VÔ NIỆM. Nếu không biết, thì vẫn còn VÔ MINH.

Cho nên, phảibiết rằng khả năng PHÂN BIỆT là một khả năng của TRÍ GIÁC. Nếu không có khảnăng phân biệt thì làm sao có thể biết mình đã GIÁC NGỘ, đã ra khỏi VÔ MINH?Nhân loại nếu không có khả năng phân biệt ĐÚNG và SAI thì làm sao có sự tiếnhóa cao hơn? Không lẽ Đạo Phật lại phản tiến hóa, phản khoa học sao? Chỉ cónhững kẻ bị hôn mê, trí óc đờ đẫn mới không còn khả năng phân biệt mà thôi.

Thân ái,

GS001.

BÀI VIẾT LIÊN QUAN:
NIÊMHOA VI TIẾU(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)

NIÊMHOA VI TIẾU(Cao Đài Tự Điển)

NÓIVỀ CHUYỆN NIÊM HOA VI TIẾUPháp Như - Lý Lược Tam

TRÊNĐỈNH NÚI LINH THỨU NHỚ DESCARTESNguyễn Tường Bách

XUẤTXỨ VÀ Ý NGHĨA VIỆC ĐỨC PHẬT THÍCH CA NIÊM HOA VI TIẾU
(Văn Hóa Phật Giáo)

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/12/2012(Xem: 15056)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầuthiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinhđiển thiền ngữ” (六十六條經典禪語),có nghĩa là “66 câu thiền ngữ trong Kinhđiển [Phật giáo]”, được phổ biếntrên internet vào khoảng năm 2004. Bản dịch tiếng Việt được phổ biến năm 2010,có tựa đề là “66 cầu làm chấn động thiền ngữ thế giới” hoặc “66 câu Phật họclàm chấn động thiền ngữ” đều không chuẩn với nguyên tác Hoa ngữ, đồng thời, đãthêm cụm từ “chấn động thế giới” và tỉnh lược từ “kinh điển”.
17/11/2012(Xem: 4135)
Thân người có ba chứng bệnh là bệnh thuộc về phong, bệnh thuộc về hàn và bệnh thuộc về nhiệt, nhưng ba chứng bệnh này gây họa không lớn, chỉ khổ trong một đời. Tâm cũng có ba nhóm bệnh, nhưng ba bệnh này gây họa thật nghiêm trọng, khiến con người phải chịu khổ đau vô lượng kiếp. Chỉ có Đức Phật, một đại lương y mới có thể ban thuốc chữa trị. Người tu hành trong vô lượng thế giới mãi bị các căn bệnh hiểm nghèo này, hôm nay mới có cơ hội tu dưỡng đức hạnh. Thế nên phải có ý chí kiên định, siêng năng tu tập, không tiếc thân mạng. Như một chiến tướng xông trận, nếu lòng không kiên định thì không thể phá giặc, phá giặc loạn tưởng
03/10/2012(Xem: 6283)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
30/09/2012(Xem: 9273)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiền là Thiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên Thai và Tam Luận chớ không nhất thiết chỉcó Đạt Ma tông. Nhưng từ đời Đường về sau, Đạt Ma tông trở nên hưng thịnh vì thế từ ngữ Thiền tông liền chuyển sang để chỉ cho Đạt Ma tông.
01/08/2012(Xem: 16137)
Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật. Lời Phật chỉ là phương tiện dẫn lối, đưa người vào ngôi nhà Chánh giác, giống như ngón tay chỉ trăng. Tâm Phật mới là cứu cánh của Chân lý bất nhị. Cho nên Phật dạy Tâm là tông chỉ, cửa Không là cửa Pháp. Đã là cửa Không, thì tại sao bày chi Mười cổng? Há chẳng nghe người xưa bảo, “Từ cửa mà vào thì không phải là của báu trong nhà. Nhờ duyên mà thành tựu tất phải có vay mượn bên ngoài.” Nói như vậy thật chẳng khác gì đất bằng dậy sóng, thịt da đang lành lặn lại đem ra cắt mổ đớn đau. Đã là tự tánh thì ai cũng vốn sẵn có đầy đủ, xưa chẳng bớt, nay chẳng thêm. Nhưng vì vô minh phủ lấp, hể còn sống trong đối đãi thì phải dùng pháp đối trị để ngăn ngừa vọng tâm điên đảo: Sáng đối với tối, Tịnh đối với nhiễm, Giới Định Huệ đối với Tham sân si v.v…
30/07/2012(Xem: 14468)
Nói về Giáo, trong Kinh Trung A Hàm (Bahuvedaniya-Majjhima Nikaya) số 57, đức Phật đã chỉ dẫn Mười loại Hạnh phúc Tối thượng, sắp xếp thứ tự do kết quả tu chứng, trong đó có: Đoạn thứ 6. “ Này Anandà. Nơi đây vượt hẳn lên khỏi mọi tri giác và hình thể (Sắc), không còn phản ứng của giác quan, hoàn toàn không chú tâm đến mọi sự khác nhau của tri giác ….” Đoạn thứ 10. “Nơi đây vượt hẳn lên khỏi cảnh giới Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng (Chẳng Phải Tưởng, Chẳng Phải Chẳng Có Tưởng), đạt đến sự chấm dứt mọi Tri giác và Cảm giác (Sãnnavedayita Niroda).”
28/07/2012(Xem: 8816)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữvà Đạt tâm. Do đó, chư Phật, chư Tổ ứng cơ thị hiện, tiếp dẫn độ sanh, nhằm mục đích tạo cho con người có một cuộc sống an bình tự tại. Phương tiện thì nhiều, nhưng cứu cánh chỉ có một. Nếu chúng ta biết tự chủ, nỗ lực tinh tiến dũng mãnh không chi chẳng thành tựu. Tinh tiến ít thì đạt kết quả ít, tinh tiến nhiều thì đạt kết quả nhiều. Tinh tiến rốt ráo thì kết quả viên mãn.
26/07/2012(Xem: 12527)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
25/07/2012(Xem: 15350)
Thiền (Zen) nghĩa là nhận biết Tự tánh (True Sefl). “ Ta là gì ?” (What am I?) Đó là câu hỏi rất quan trọng. Nhất thể trong sạch sáng suốt là gì? Nếu thấu hiểu, quý vị sẽ được tự do tự tại trong sanh tử. Làm thế nào đạt được tự do tự tại trong sanh tử? Trước hết, điều cần thiết là hướng đi phải rõ ràng.
09/07/2012(Xem: 3421)
Thiền và cảm xúc có một mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình tu tập, chuyển hoá tâm cho đến khi đạt được mục đích giác ngộ và giải thoát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]